Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Phân tích ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung. Liên hệ thực tiễn địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.57 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Phân tích ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên
cứu mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái
chung. Liên hệ thực tiễn địa phương?

Họ và tên sinh viên: NGUYỄN LONG KHÁNH
Lớp: IBL64ĐH - CTTT14G3

Mã sv: 100285

Khoa: Viện Đào tạo Quốc tế
Khóa năm:

2023 - 2027

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:

Hải Phòng - 2023

1


MỤC LỤC
I. Giới thiệu
1.1.Phương pháp luận
1.2.Cái riêng và cái chung
1.3.Ý nghĩa
II. Liên hệ với tập quán địa phương


2.1.Tính cách ba miền
2.2. Đặc trưng khẩu vị
2.3. Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt
III. Một sinh viên của Trường Đại Học Hàng Hải Việt Nam cũng là
người con, công dân của Thành Phố Hải Phòng
CÁC NGUỒN THAM KHẢO
LỜI CAM KẾT

2


I. Giới Thiệu
1.1.Phương pháp luận
- Phương pháp luận là một khía cạnh quan trọng trong q trình nghiên cứu khoa
học. Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung là một
phương pháp luận quan trọng trong triết học và khoa học xã hội. Trong bài tiểu
luận này, chúng ta sẽ phân tích ý nghĩa của phương pháp luận này và cách nó có
thể đóng góp vào q trình nghiên cứu.
- Phân tích biện chứng: Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái
chung cho phép thực hiện phân tích biện chứng về hiện tượng. Biện chứng liên
quan đến việc xem xét các mâu thuẫn, xung đột và sự phát triển động lực của sự
vận động và thay đổi. Bằng cách phân tích các mâu thuẫn và sự tương tác giữa cái
riêng và cái chung, chúng ta có thể hiểu được sự phát triển và thay đổi của các hiện
tượng trong thế giới thực.
1.2.Cái riêng và cái chung
Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung là một khía cạnh quan trọng
trong triết học và lý thuyết xã hội. Cái riêng (còn được gọi là cái cá nhân, đặc thù
hoặc độc lập) được hiểu là những đặc điểm, thuộc tính hoặc sự tồn tại độc nhất của
một cá thể, một phần tử hoặc một nhóm nhỏ. Cái chung (hay cịn gọi là cái chung,
chung quy, hay đại diện) là những đặc điểm, thuộc tính hoặc sự tồn tại chung

chung của một nhóm lớn, một hệ thống hoặc một tập hợp các cá thể.
Thế giới vật chất xung quanh con người tồn tại bằng muôn vàn các sự kiện, sự vật,
hiện tượng rất khác nhau về màu sắc, trạng thái, tính chất, hình dáng, kích thước,..
nhưng đồng thời giữa chúng cũng có rất nhiều những đặc điểm, thuộc tính chung
giống nhau:
-Cái riêng là phạm trù triết học dung dể chỉ một sự vật, hiện tượng, một quá trình
riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan
+ Ví dụ: ngơi nhà, cái bản, hiện tượng ơ nhiễm mơi trường, q trình nghiên cứu
thị trường của một công ti “Sự tồn tại cá thể của cái riêng cho thấy nó chứa đựng
trong các cấu trúc sự vật khác”. Tinh chất này được diễn đạt bằng khái niệm cái
đơn nhất. Cái đơn nhất là một phạm trù triết học dung để chỉ những nét , những
mặt, những thuộc tính chỉ tồn tại ở một kết cấu vật chất nhất định và không lặp lại
ở kết cấu vật chất khác. Tính cách của một người, vân tay, nền văn hóa của một
dân tộc .... là những cái đơn nhất. Như vậy, cái đơn nhất không phải là một sự vật,
một hiện tượng đơn lẻ mà nó tồn tại trong cái riêng. Nó chỉ là đặc trưng của cái
riêng.
3


- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính chung khơng những
có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện
tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
+ Ví dụ: Cái chung của người Việt Nam là có một lịng nồng nàn u nước,tinh
thần đồn kết dân tộc, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập của nước nhà.
+ Cái chung của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư của công nhân làm
thuê.
- Cái đơn nhất là một phạm trù triết học chỉ những mặt, những thuộc tính ... chỉ có
ở một sự vật mà khơng lặp lại ở sự vật khác.
+Ví dụ: “Đều là cây nhưng sao mỗi loại cây lại đặc điểm khác nhau. Chẳng hạn
đều là hồng đỏ có mùi hương thoang thoảng, hoa hồng vàng có mùi hương thơm

ngát, hoa hồng xanh mùi hương gần gũi, kiêu sa”.
-Phân biện cái chung bản chất và cái chung không bản chất:
+Khái niệm: “Cái chung không bản chất là cái chung thường do sự ngẫu hợp mà
có. Có thể như cái chung bản chất với phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật là
vật chất luôn vận động. Như vậy, tính lặp lại là đặc trưng của của cái chung. Tính
chất này cho thấy những mặt, những mối liên hệ cơ bản chi phối nhiều quá trình
vật chất khác nhau. Nó cho ta một cách nhìn sự vật trong mối liên hệ qua lại, gắn
liền với nhau.
+Ví dụ: Cuộc cách mạng là cái chung, đó là sự thay đổi từ cái này sang cái khác
tiến bộ hơn. Nhưng trong các cuộc cách mạng thì có nhiều loại (cách mạng tư sản,
cách mạng dân tộc dân chủ), đó là những cái riêng.
+ Còn cái chung bản chất lại là cái chung giống nhau của rất nhiều sự vật hiện
tượng mang tính cơ bản là đặc trưng để nhận dạng một sự vật hiện tượng nào đó.
+Ví dụ: Cái chung của các loại cây là quá trình quang hợp, hô hấp, trao đổichất với
môi trường xung quanh. Nếu một cái cây nào mà khơng có những đặc điểm đấy
sao còn gọi là cây nữa. Hay như ở con người cái chung bản chất chính là tình cảm,
mối quan hệ với gia đình, xã hội.
Phép biện chứng duy vật của Triết học Marx - Lenin cho rằng cái riêng, cái chung
và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau;
phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một q trình
riêng lẻ nhất định, cịn phạm trù cái chung được dùng để chỉ những mặt, những
thuộc tính chung khơng những có ở một kết cấu vật chất nhất định,mà còn được
lặp lại trong nhiều sự vật , hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Trong tác phẩm
4


Bút ký Triết học, Lênin đã viết rằng“Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng , thông
qua cái riêng . Cái riêng chỉ tồn tại trong mỗi liên hệ đưa đến cái chung. Bất cứ cái
riêng nào cũng là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là một bộ phận , một khía
cạnh , hay một bản chất của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một

cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy
đủ vào cái chung”. Cụ thể là:“Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông
qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là khơng có cái chung thuần
túy tồn tại bên ngoài cái riêng. Chẳng hạn, khơng có sinh viên nói chung nào tồn
tại bên cạnh sinh viên ngành kinh tế đầu tư, sinh viên ngành kinh tế phát triển...
nào cũng phải đến trường học tập, nghiên cứu, thi cử theo nội quy nhà trường. Hay
như quy luật bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản là một cái chung, khơng thế thì
khơng phải là nhà tư bản, nhưng quy luật đó được thể hiện ra ngoài dưới những
biểu hiện của các nhà tư bản ( cái riêng ). Rõ ràng, cái chung tồn tại thực sự nhưng
khơng.
Cái riêng là cái tồn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận nhưng
sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung, vì ngồi những đặc điểm
chung, cái riêng cịn có đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng, vì cái chung
phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định,tất nhiên, lặp lại nhiều cái
riêng cùng loại. Do vậy, cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định
phương hướng tồn tại và phát triển cảu cái riêng. Cái riêng là sự kết hợp giữa cái
chung và cáiđơn nhất. Cái chung chỉ giữ phần bản chất, hình thành nên chiều sâu
của sự vật,cịn cái riêng là cái tồn bộ vì nó là tập thể sống động, trong mỗi cái
riêng luôn tồn tại đồng thời cả cái chung và cái đơn nhất.
Theo lý thuyết biện chứng, cái riêng và cái chung không phải là hai khái niệm tách
rời mà thực tế là tồn tại và phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi cái riêng không thể tồn tại
hoặc được hiểu một cách độc lập mà nó tồn tại trong một mối quan hệ với cái
chung. Ngược lại, cái chung khơng thể tồn tại mà khơng có sự góp phần của các
cái riêng cụ thể.
Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung có thể được hiểu qua các ví dụ sau đây:
Trong một cộng đồng, mỗi cá nhân có những đặc điểm riêng như tuổi tác, giới tính,
quốc tịch và sở thích cá nhân. Nhưng đồng thời, có những thuộc tính chung như
ngơn ngữ, văn hóa và giá trị chung của cộng đồng đó. Cá nhân có thể đóng góp vào
sự hình thành và sự tồn tại của các thuộc tính chung này, và đồng thời, các thuộc
tính chung này cũng ảnh hưởng đến sự phát triển và định hình cá nhân.

Quan hệ giữa cái riêng và cái chung cũng có thể áp dụng trong các lĩnh vực khác
như triết học, khoa học xã hội và nghệ thuật. Ví dụ, trong triết học, một cái riêng
có thể đóng góp vào sự hiểu biết chung của nhân loại và ngược lại, sự hiểu biết
5


chung có thể hình thành và ảnh hưởng đến cái riêng. Trong nghệ thuật, các tác
phẩm cá nhân có thể thể hiện và tương tác với các giá trị, ý niệm và khái niệm
chung của một xã hội hay một nhóm người.
Theo Friedrich Engels, mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung là một
khía cạnh quan trọng trong lý thuyết Marxisme. Engels áp dụng triết lý biện chứng
của Marx vào cuộc sống xã hội và nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ
tương đối và tương phản giữa cái riêng và cái chung.
Engels nhận thức rằng trong một xã hội, cái riêng và cái chung không thể tồn tại
độc lập mà chúng có mối quan hệ tương phản và tương đối với nhau. Ông nhấn
mạnh rằng sự phát triển của cái riêng phụ thuộc vào cái chung và ngược lại, sự tồn
tại của cái chung phụ thuộc vào sự phát triển của cái riêng.
Theo Engels, trong một xã hội giai cấp, cái chung được thể hiện qua các quy luật,
cơ cấu và quan hệ xã hội mà quy định hoạt động và tương tác của các cá nhân và
tầng lớp. Cái chung này bao gồm các quy tắc, giá trị và lợi ích chung của các tầng
lớp cận nhiệt và giai cấp cầm quyền. Tuy nhiên, Engels cũng nhận thấy rằng sự
phát triển của cái chung có thể tạo ra sự bất bình đẳng và áp đặt đối với cái riêng,
dẫn đến sự xung đột xã hội.
Engels cũng xem xét mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung trong lĩnh vực kinh
tế. Ông nhấn mạnh rằng trong hệ thống sản xuất tư bản, cái chung được tạo ra
thông qua lao động tập thể và sự tương tác của các yếu tố sản xuất khác nhau.
Nhưng đồng thời, cái riêng của các cá nhân và tầng lớp trong xã hội cũng bị áp đặt
và bị hạn chế bởi các quy luật và quy tắc kinh tế của hệ thống tư bản.
Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung, theo Friedrich Engels, không
chỉ áp dụng trong lĩnh vực xã hội và kinh tế, mà cịn trong các lĩnh vực khác như

lịch sử, văn hóa và tư duy.
Trong lĩnh vực lịch sử, Engels sử dụng mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và
cái chung để giải thích sự phát triển của xã hội từ giai cấp cộng đồng tiền sử đến xã
hội giai cấp. Ông cho rằng trong các giai đoạn phát triển xã hội khác nhau, sự xung
đột và tương đối giữa cái riêng và cái chung đóng vai trị quan trọng trong việc
thúc đẩy sự tiến bộ xã hội và thay đổi cơ cấu quyền lực.
Trên mặt trận văn hóa, Engels nhận ra rằng cái riêng và cái chung cũng tương đối
và tương phản trong lĩnh vực này. Ông cho rằng tư duy, giá trị và sự sáng tạo của
mỗi cá nhân có thể được hình thành và phát triển thơng qua sự tương tác và ảnh
hưởng của cái chung, nhưng đồng thời cũng bị hạn chế và ảnh hưởng bởi các giới
hạn xã hội và văn hóa.
6


Engels cũng nhấn mạnh sự tương phản giữa cái riêng và cái chung trong tư duy và
ý thức xã hội. Ông cho rằng ý thức xã hội của các cá nhân và tầng lớp trong xã hội
không chỉ phản ánh lợi ích và giá trị cá nhân mà cịn phản ánh cả cái chung và cái
riêng của xã hội. Ý thức xã hội được hình thành và phát triển thơng qua sự tương
tác và xung đột giữa các yếu tố cá nhân và xã hội, và nó có thể thay đổi theo thời
gian và điều kiện xã hội.
Theo triết gia Georg Wilhelm Friedrich Hegel, mối quan hệ biện chứng giữa cái
riêng và cái chung đóng vai trị quan trọng trong quá trình phát triển của ý thức và
hiểu biết.
Hegel nhìn nhận mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung qua khái
niệm "lược đồ biện chứng", trong đó ông cho rằng sự phát triển của ý thức và hiểu
biết khơng diễn ra theo hình thái tuyến tính mà qua quá trình xung đột và đấu tranh
giữa các khái niệm đối lập.
Theo Hegel, ý thức cá nhân (cái riêng) và ý thức xã hội (cái chung) khơng đối
nghịch hồn toàn, mà chúng tồn tại trong một mối quan hệ tương đối và tương
phản. Ông cho rằng cái riêng và cái chung không thể hiểu rõ mà không thông qua

nhau. Cái chung (ý thức xã hội) được hình thành thơng qua sự kết hợp và hòa hợp
của các ý thức cá nhân, trong khi cái riêng (ý thức cá nhân) cũng bị ảnh hưởng và
hình thành bởi cái chung.
Hegel nhấn mạnh rằng sự phát triển của ý thức và hiểu biết diễn ra qua quá trình
"lược đồ biện chứng", trong đó các khái niệm đối lập (cái riêng và cái chung) xung
đột và đấu tranh với nhau. Qua quá trình này, một khái niệm mới (tổng hợp) được
hình thành, vượt qua và bao gồm cả các khái niệm đối lập trước đó. Tuy nhiên, q
trình này khơng dừng lại ở một trạng thái cố định, mà tiếp tục phát triển thông qua
sự xuất hiện của các khái niệm mới và các giai đoạn tiến bộ.
Từ góc độ Hegel, mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung không chỉ áp
dụng trong lĩnh vực ý thức và hiểu biết, mà cịn trong các lĩnh vực khác như xã hội,
chính trị và tổ chức xã hội. Ông cho rằng sự phát triển của xã hội và lịch sử xảy ra
thông qua sự xung đột và đấu tranh giữa các lực lượng đối lập, và qua quá trình
này, một giai đoạn mới và cao hơn của xã hội được hình thành.

1.3.Ý nghĩa
Từ viêc phát hiện mối qua hệ biễn chứng giữ cái chung và cái riêng. Triết học
Marx – Lenin nêu ra một số ý nghĩa có phương pháp luận cho mối quan hệ này để
ứng dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là:
7


+Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật,
hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên
ngồi cái riêng vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu
thị sự tồn tại của mình. Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng,
nên nhận thức phải nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa
vào cái chung để cải tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết
những nguyên lý chung (không hiểu biết lý luận), sẽ khơng tránh khỏi rơi vào tình
trạng hoạt động một cách mị mẫm, mù qng.

+Trong q trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái đơn
nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến thành cái đơn
nhất, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần tạo điều kiện thuận lợi để cái đơn
nhất có lợi cho con người trở thành cái chung và cái chung bất lợi để trở thành cái
đơn nhất. Trong bút ký Triết học, Lenin viết: “Người nào bắt tay vào những vấn đề
riêng trước Khi giải quyết vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao
tránh khỏi những vấp váp vấn đề chung một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp
phải những vấn đề đó trong trường hợp riêng có nghĩa là đưa ra những chính sách
của mình đến chỗ có sự dao động tồi tệ nhất và mất đi hẳn những nguyên tắc.”

II. Liên hệ với tập quán địa phương
2.1.Tính cách ba miền
a. Miên Bắc: họ là những con người nề nếp, sâu lắng và trau chuốt trong từng lời
nói, khơn ngoan giải quyết vấn đề, lo xa và tiết kiệm. Do điều kiện lao động của
người bắc khá khó khăn, nên người miền Bắc thường hay tính tốn kĩ lưỡng những
khoảng thu chi trong gia đình.
b. Miền Trung: do điều kiện khắc nghiệt khó làm ăn. Nên có tính cần cù chịu khó,
giỏi xoay sở, nhã nhặn. Trài qua nhiều lần thông trị của nhiều triểu đại phong kiến
để lại cho họ một tính cách trang trọng trong cuộc sống, nhưng cũng có nhiều vấn
đề bảo thủ phong kiến, mê tín dị đoan, cịn nhiều phong tục cổ hủ, lạc hậu.
c. Miền Nam: do sống ở đồng bằng trù phú cũng nên tính cách của họ thường
thẳng tính, khơng trau chuốt trong lời ăn, tiếng nói. Khơng để ý đến những việc
nhỏ nhặt, mau quên. Nhưng người miền Nam thường được đánh giá thân thiện,
hiếu khách, rộng rãi phóng khống. Có lẽ một phần cũng do điều kiện khi hậu
miền nam thường thuận lợi việc làm nông nghiệp, ưu ái cho miền nam trong việc
làm ăn, nên sinh ra tính phóng khống.
2.2. Đặc trưng khẩu vị
8



Ẩm thực miền Bắc:
Ẩm thực miên Băc thường không đậm các vị cay, béo, ngọt bằng các vùng khác,
chủ yếu sử dụng nước mắm lỗng, măm tơm. Sử dụng nhiêu món rau và các loại
thủy sản nước ngọt dễ kiêm như tôm, cua, cá, trai, hến v.v Nhiêu người đánh giá
cao ẩm thực Hà Nội một thời, cho răng nó đại diện tiêu biểu nhất của tinh hoa ẩm
thực miền Bắc Việt Nam với những món phở, bún thang, bún chả, các món q
như cốm Vịng, bánh cuốn Thanh Trì v.v. và gia vị đặc sắc như tinh dầu cà cuống,
rau hung láng.
Ẩm thực miền Nam:
Ở miền Nam, ẩm thực có những đặc điểm riêng mà thường thấy là sử dụng đường
và sữa dừa (nước cốt và nước dừa) trong các món ăn. Điều này đã tạo ra nhiều loại
mắm khơ đặc sản như mắm cá sặc, mắm bị hóc, mắm ba khía và nhiều loại khác.
Ẩm thực miền Nam cũng có xu hướng sử dụng nhiều đồ hải sản nước mặn và nước
lợ hơn so với miền Bắc. Các loại cá, tôm, cua, ốc biển được sử dụng phổ biến trong
các món ăn. Đặc biệt, có những món ăn dân dã, mang đặc trưng của miền Nam,
một thời đã trở thành những đặc sản nổi tiếng. Ví dụ như chuột đồng khia nước
dừa, dơi quạ hấp chao, rắn hồ đất nấu cháo đậu xanh, đuông dừa, đuông đất hoặc
đuông chà là, vọp chong, cá lóc nướng trui và nhiều món khác. Những món ăn này
thể hiện sự sáng tạo và sử dụng nguồn nguyên liệu đặc biệt từ vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Chúng mang đậm bản sắc văn hóa và ẩm thực riêng của miền
Nam Việt Nam, đem đến cho thực khách trải nghiệm ẩm thực độc đáo và đa dạng.
Ẩm thực miền Trung:
Đồ ăn miền Trung với tất cả tính chất đặc sắc của nó thể hiện qua hương vị riêng
biệt, nhiêu món ăn cay và mặn hơn đô ăn miên Băc và miên Nam, màu sắc được
phôi trộn phong phú, rực rỡ; thiên về màu đỏ và nâu sậm. Các tinh thành miên
Trụng như Huế, Đà Nẵng, Bình Định rất nồi tiếng với mắm tơm chua và các loại
mắm ruốc. Đặc biệt món ăn Huế được chế biến công phu, tinh tế. Nhiều người cho
răng ăn các món Huê là thưởng thức cái đẹp, cảm nhận cái hơn của Huế khơng cịn
thấy cần tím sự no nê. Ngay những thứ như lòng lợn, lòng bò vào tay các bà nội trợ
Huế cũng trở thành những mỹ vị cao sang. Món cá kho của bình dân ba miền khi

đến Huế cũng mạng màu quý phái: cá bông thệ lẫn thịt ba rọi rau răm, ớt bột, nước
màu, cho lửa hu rìu và con cá kho khi lên đĩa nhìn.
2.3. Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt :
Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt này một phần do tác động bởi cái riêng và cái
chung trong từng con người và trong từng vùng miền khác nhau:
9


+Miền Bắc: Vị trí địa lý cho phép sự giao lưu văn hóa Việt-Hán xưa kỷ vật, đặc
biệt là trong thời kỳ Việt Nam bị đô hộ bởi "người khổng lồ Trung Hoa". Làm sao
để giữ được bản sắc dân tộc Việt, làm sao để khơng bị đồng hóa bởi văn hóa Trung
Hoa như các dân tộc khác ln là một trong những điều khó khăn nhất. Tuy nhiên,
dân tộc Việt ta, dù là một dân tộc nhỏ so với dân tộc Hán-Mãn của Trung Hoa,
cũng đã làm được điều đó. Bằng cách tạo ra cho mình những quy định riêng, nhằm
bảo tồn truyền thống vốn có một cách vững chắc. Điều đó thể hiện trong cách ăn
uống của ta.
+Miền Trung: do ảnh hưởng từ phong cách ẩm thực hoàng gia, cho nên rất cầu kỳ
trong chế biến và trình bày. Một mặt khác, do địa phương khơng có nhiều sản vật
mà ẩm thực hồng gia lại địi hỏi số lượng lớn món, nên mỗi loại nguyên liệu đều
được chế biến rất đa dạng trong nhiều món khác nhau.
+Miền Nam: là nơi chịu ảnh hưởng nhiều của ẩm thực Trung Quốc, Campuchia,
Thái Lan. Một phần miền Nam có khí hậu thuận lợi cho việc trồng một số loại cây
thực phẩm, rau, củ, quả... điều này mang lại việc chế biến nhiều loại món ăn đặc
trưng cho miền Nam. Bên cạnh những loại rau dân dã mọc ở những nơi thoáng mát
bờ ao, bờ ruộng cũng được người dân miền Nam chế biến thành những món gỏi
thật đặc sắc: ngó sen, gỏi rau câu... thấm đượm được cái giản dị, mộc mạc của
người dân Nam Bộ.
Do đó, ta có thể nói rằng một phần gây ra sự khác biệt trong khẩu vị của ba miền
Bắc, Trung và Nam là do tồn tại xã hội: các yếu tố tự nhiên, hoàn cảnh địa lý và
dân cư của từng vùng. Tuy nhiên, cũng có một phần do tác động của ý thức xã hội,

sở thích và cách suy nghĩ có thể làm một món thức ăn có hương vị hồn tồn khác
biệt. Món canh chua có thể làm minh chứng cho điều này, vị chua của canh tùy
thuộc vào vùng miền. Có vùng sử dụng nước me, vùng khác sử dụng nước
tamarind, và cịn vùng khác sử dụng cà chua. Ngồi ra, cịn có nhiều nguyên liệu
khác nhau ở từng miền. Ý thức mới này sau một thời gian sẽ lan rộng ra tồn xã
hội, có thể là do cùng quan điểm hoặc đơn giản là vì cái mới được coi là tốt hơn cái
cũ...Khơng những thế , mỗi miền sẽ có một địa hình, một khi hậu đặc trưng mà có
thể thuận lợi cho cây lương khác nhau. Nên khó xuất hiện khẩu vị như nhau trên
cùng một xã hội, khơng có nguyên liệu đỏ con người sẽ tìm một nguyên liệu khác
đê thay thê. Chính vì vậy mà mỗi miên sẽ có một khẩu vị riêng cho mình, mang
đậm hương vị của miền đó.
III. Một sinh viên của Trường Đại Học Hàng Hải Việt Nam cũng là người con,
công dân của Thành Phố Hải Phòng:
Ẩm thực Hải Phòng:
10


Ẩm thực Hải Phòng là một trong những phong cách chế biến ẩm thực địa phương
của Việt Nam và cụ thể hơn là của vùng đồng bằng Bắc Bộ, với nền tảng nguyên
liệu là nguồn thủy hải sản vô cùng phong phú của vùng biển Hải Phòng và khu vực
Vịnh Bắc Bộ xung quanh cũng như một số nguyên liệu đặc sản của địa phương
như nước mắm Cát Hải, bánh đa (bánh đa đỏ kiểu Hải Phòng rất phù hợp khi chế
biến với các nguyên liệu thủy hải sản dù thuộc vùng nước mặn hay nước lợ như
tôm, cua chẳng hạn), tương ớt (người Hải Phịng thường gọi là chí chương),... được
dùng trong chế biến nhiều món ăn đặc trưng của Hải Phòng.

Ẩm thực Hải Phòng được nhiều người sành ăn đánh giá là một trong số ít những
phong cách chế biến - thưởng thức ẩm thực địa phương đặc sắc (độc đáo, đậm bản
sắc vùng miền), đa dạng (phong phú) và tinh tế (thu hút các giác quan khác nhau
của thực khách) bậc nhất của Việt Nam. Người Hải Phịng cũng có tiếng là những

người kén mùi vị trong ăn uống. Có thể nêu ra một vài ví dụ nổi bật như món nem
cua bể, bánh đa cua, bún tơm, bánh bèo, bánh mì cay, pa tê gan, cháo khối. Dù
những ngun liệu dùng để chế biến các món ăn này ngày nay đều tương đối dễ
mua, phổ biến ở nhiều địa phương của Việt Nam. Tuy nhiên, do cách chọn lựa
nguyên liệu, kết hợp, chế biến đặc trưng của người Hải Phịng mà chúng trở thành
những món ăn không chỉ lôi cuốn về vị giác, khứu giác mà còn cả về thị giác.

Dù là một thành phố trực thuộc trung ương nhưng việc thiếu chiến lược truyền
thông quảng bá văn hóa du lịch như những thành phố ngang tầm là Hà Nội và TP.
Hồ Chí Minh trong một thời gian dài có thể thuộc số những lý do chủ yếu khiến
ẩm thực nói riêng (và văn hóa địa phương nói chung) của Hải Phịng chưa tạo ra
tiếng vang đủ lớn ở tầm quốc gia và xa hơn là tầm quốc tế. Lấy một ví dụ, một
trong những món ăn đặc trưng của Hải Phòng là nem cua bể được đưa vào thực
đơn ưa thích ở nhiều quán ăn có đề biển bún chả nướng kiểu Hà Nội, trong khi
không đề tên gọi xuất xứ địa lý cụ thể (chẳng hạn như nem cua bể hay nem hải sản
kiểu Hải Phòng) nên đã khiến cho nhiều thực khách đặc biệt ở các tỉnh thành miền
Nam và cả người nước ngồi dễ lầm tưởng nó là một món ăn bắt nguồn từ Hà Nội.

Tuy nhiên, năm 2020-2021, Hải Phòng nổi lên là một điểm du lịch ẩm thực hấp
dẫn đối với du khách nhờ các video ngắn trên nền tảng TikTok. Nắm lấy cơ hội, Sở
Du lịch Thành phố đã có những chiến dịch quảng bá bài bản, nhằm đưa food-tour
thành một nét đặc trưng của du lịch thành phố.
11


Nhân tố hình thành:
Dù khơng ít phương tiện truyền thơng đại chúng vẫn gọi Hải Phịng là đơ thị biển
hay thành phố biển. Nhưng xét về mặt địa lý, Hải Phịng như một đơ thị cảng ven
biển giống nhiều với TP. Hồ Chí Minh hơn là Hạ Long, Đà Nẵng hay Nha Trang.
Do ảnh hưởng của lượng lớn phù sa ở vùng cửa sơng Hải Phịng nên nước biển khu

du lịch Đồ Sơn thường luôn bị đục ngầu. Là một vùng đô thị cảng ven biển không
thực sự rộng lớn và trù phú (giàu trữ lượng và đa dạng về các nguồn tài nguyên tự
nhiên quý hiếm) như một số tỉnh thành khác tại Việt Nam nhưng Hải Phịng có cả
yếu tố đồng quê (với những sản vật của ruộng đồng), yếu tố sông rạch (với những
sản vật của vùng nước lợ do có năm cửa sơng đổ ra biển) rồi yếu tố biển cả/đại
dương (với những sản vật đánh bắt từ ngoài khơi xa) nên ẩm thực của Đất Cảng có
sự kết hợp hài hịa, phong phú của ẩm thực nội địa (mà một ví dụ điển hình là ẩm
thực của Hà Nội) và ẩm thực duyên hải (đặc biệt như nhiều tỉnh thành Nam Trung
Bộ). Do đó trong các tỉnh thành phía Bắc, người Hải Phịng có tiếng là sành ăn và
kén mùi vị.[8] Một điều đặc biệt nữa là khơng ít nam giới ở Hải Phịng dù không
phải là những người chuyên nghề ẩm thực hay nấu nướng nhưng sành về ẩm vị và
có thể chế biến một vài món ăn đặc biệt ngon và độc đáo hơn hẳn phần lớn phụ nữ
trong gia đình hoặc họ tộc. Nhạc sĩ, thi sĩ, họa sĩ Văn Cao (một người đã sinh ra và
có quãng thời gian gần trọn 20 năm đầu đời sống tại Hải Phịng) có thể được xem
là một ví dụ trong số này. Người con trai cả của Văn Cao là Văn Thao trong một
bài viết cho Báo Công an Nhân dân (2012) đã không giấu nổi sự khâm phục về
"khiếu ẩm thực" của cha mình. Ngồi ra có thể kể thêm một trường hợp nổi bật
nữa là nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, một người cũng có tiếng sành ăn qua lời kể của con
trai ơng là Đồn Đính.

Hải Phịng là một trong khơng nhiều địa phương ở Việt Nam có một văn hóa ẩm
thực đường phố thực sự đa dạng và đặc sắc. Cũng như khơng ít địa phương khác
của Việt Nam, ẩm thực Hải Phịng có sự tiếp thu đáng kể ảnh hưởng từ ẩm thực
của Trung Quốc (đặc biệt là của vùng Hoa Nam) và Pháp. Những năm cuối thế kỷ
19 - nửa đầu thế kỷ 20, người Pháp và người Hoa là hai cộng đồng người nước
ngồi lớn nhất và có ảnh hưởng về nhiều mặt tại Hải Phòng.

Ẩm thực Hải Phòng ngồi những món ăn mang phong cách chế biến truyền thống
Việt Nam còn chịu ảnh hưởng đáng kể từ ẩm thực ngoại lai mà điển hình là từ phía
Nam Trung Quốc và một phần nhỏ hơn là từ ẩm thực Pháp (chẳng hạn như pa-tê

gan lợn và bánh mì que kết hợp cùng nhau trong món bánh mì cay kiểu Hải
12


Phòng). Đặc biệt là pa-tê gan lợn/heo chế biến theo phong cách ẩm thực Hải Phòng
được nhiều người ở các tỉnh thành khác biết tới và đánh giá cao về chất lượng. Patê gan lợn theo phong cách chế biến ẩm thực Hải Phịng là một món ăn tương đối
quen thuộc đối với người dân đất Cảng, nhất là đối với vùng nội thành. Món ăn
này có thể có nguồn gốc từ thời Pháp thuộc do người Pháp du nhập vào Việt Nam,
có q trình Việt hóa cho tới nay cũng hơn một thế kỷ và cũng có khơng ít khác
biệt so với công thức chế biến nguyên bản của người phương Tây. Người Hải
Phòng sử dụng pa-tê gan lợn tương đối đa dạng: ăn cùng với các loại bánh mỳ khác
nhau (đặc biệt là được kẹp vào bánh mì que trong món bánh mì cay kiểu Hải
Phịng), hay ăn cùng với món xơi thịt kiểu Hải Phịng, hay kẹp thêm vào nhân của
món bánh bao nhân thịt kiểu Hải Phịng, hoặc ăn cùng với các món khác trong bữa
cơm hàng ngày. Sản phẩm pa-tê gan lợn đóng hộp của Công ty Cổ phần Đồ hộp
Hạ Long (được thành lập vào năm 1957 tại Hải Phòng) cũng được ưa chuộng ở
nhiều tỉnh thành khác nhau tại Việt Nam.

Trong các tỉnh thành tại Việt Nam thì ẩm thực Hải Phịng tiếp nhận ảnh hưởng
đáng kể từ ẩm thực của Hải Dương, Thái Bình và Nam Định. Cho tới cuối những
năm 1990 và đầu những năm 2000 thì hầu hết những quán phở bò kiểu xe thùng di
động bán quanh những hè phố hay những gánh tào pha bán rong tại Hải Phòng đều
là của những người nhập cư gốc Nam Định, nhiều gia đình trong đó đã có tới vài
thế hệ sinh trưởng ở đất cảng.
Thành phần nguyên liệu
Nói chung trong cách chế biến của nhiều món ăn đặc trưng Hải Phịng khơng địi
hỏi q nhiều về thời gian chế biến nhưng đặc biệt chú ý ở khâu lựa chọn nguyên
liệu và kết hợp chúng sao cho hài hòa về tổng thể. Mặc dù tương đối phong phú về
hải sản, nhưng tôm, cua, cá là các loại hải sản người Hải Phịng dường như thích
sử dụng nhất, đặc biệt trong các món ăn nước có dùng bánh tráng (từ gạo) hoặc sợi

mì. Dù các lồi thủy hải sản là nguồn ngun liệu chủ đạo trong ẩm thực của vùng
đất cảng nhưng phần lớn người Hải Phịng có xu hướng khử tối đa ở mức độ có thể
mùi vị tanh/tươi của chúng trong quá trình sơ chế và nấu nướng. Trong khi ở chiều
ngược lại thì người miền Nam (có thể bao gồm cả Nam Trung bộ) có xu hướng giữ
lại gần như nguyên vẹn độ tươi/tanh của các nguyên liệu thủy hải sản này trong
quá trình chế biến. Trong khi thành phần hải sản trong một số món ăn Nam bộ như
hủ tiếu/hủ tíu thường thích dùng cá, tơm, mực tươi khơng qua sơ chế cầu kỳ thì
người Hải Phịng thường bóc lột vỏ, tẩm ướp và hấp/chiên/xào qua nên về tổng thể
các món ăn có nước dùng của Hải Phịng thường ít ngọt hơn, ít "tươi" hơn đơi chút
13


so với các món ăn nhiều nước như vùng Nam Bộ (bao gồm cả Đông Nam bộ và
Tây Nam bộ).

Người Hải Phịng gần như khơng sử dụng thịt mực tươi (trừ chả mực đã băm
nhuyễn) trong các món nhiều nước với sợi bánh như người miền Nam. Người Hải
Phòng về truyền thống cũng gần như không bao giờ sử dụng tiết cùng hầu hết các
bộ phận nội tạng gia súc (ngoại trừ dùng cật lợn tươi đã trần chín qua trong nước
dùng như ở món ăn sáng với bánh đa sợi trắng hay mì ăn liền, hoặc dùng tiết và bộ
lịng ngan/vịt trong món bún nước măng ngan/vịt) và đậu phụ/đậu hũ (ngoại trừ
dùng trong các món lẩu hoặc món bún chuối ốc) trong những món ăn có nước
dùng và sợi bánh (chẳng hạn như món canh bánh đa cua, canh bánh đa đỏ tơm
sườn và món canh bún tơm kiểu Hải Phòng) như thường thấy phổ biến ở miền
Nam.

Cũng như trong các món đồ ăn có bánh tráng gạo thì người Hải Phịng rất thường
sử dụng các phụ liệu như mộc nhĩ, nấm hương, rau cần, rau rút, rau thì là, chả lá lốt
(từ thịt lợn nạc vai băm nhuyễn được bọc bên ngoài bởi lá lốt rồi đem chiên/rán
cho đủ độ chín giịn) khi chế biến cùng các loại hải sản (kể cả chả cá hay chả mực)

nhưng người miền Nam hầu như không hoặc hiếm khi sử dụng chúng khi chế biến
cùng với các loại thủy hải sản phổ biến (như tơm, cua, cá). Có ý kiến cho rằng
trong các món ăn với nước dùng và sợi bánh đặc trưng của đất cảng (nổi bật như
món canh bánh đa cua, canh bánh đa đỏ tôm sườn và món canh bún tơm móng giị)
để có thể cảm nhận tối đa phong vị ẩm thực địa phương thì thực khách nên cho
thêm vào một ít tương ớt gia truyền kiểu Hải Phòng dù chỉ vừa đủ tạo cảm giác hơi
cay nơi đầu lưỡi. Đối với những thực khách có thói quen hay ăn kèm rau sống
cũng như giá đỗ thì nên tránh nhúng trực tiếp vào bát chứa nước dùng và sợi bánh
đang cịn nóng (như thường thấy ở nhiều địa phương khác). Đây chính là một điểm
khác biệt cơ bản trong cách thưởng thức món bánh đa cua đúng kiểu Hải Phịng
(cũng như món bún tơm đặc trưng của đất cảng) so với món bún riêu cua hay bún
riêu cá mà khi ăn thực khách hay nhúng cả rau sống cùng giá đỗ vào bát lớn. Thực
tế thì phần nhiều người gốc Hải Phịng khi ăn món bánh đa cua hay bún tơm đúng
kiểu địa phương sẽ thích ăn cùng rau cần, rau rút, rau cải hoặc rau muống (tùy theo
mùa) đã trần chín qua trong nồi nước đang sơi nóng hơn là ăn kèm rau sống hay
giá đỗ.
Phong vị địa phương
14


Nói chung khẩu vị truyền thống của phần nhiều người Hải Phịng vẫn nghiêng về
tính mặn rõ hơn tính ngọt và có thể xem đó là một đặc điểm nổi bật chung của
khẩu vị các tỉnh thành phía Bắc so với phía Nam. Tuy nhiên, do khá cân bằng về vị
mặn ngọt, không ngọt nhiều như vùng Nam bộ (bao gồm cả Sài Gịn) nhưng khơng
q mặn so với một số vùng miền khác (chẳng hạn người xứ Quảng Nam - Đà
Nẵng ở khu vực duyên hải miền Trung về truyền thống có tiếng thích ăn mặn) nên
nhiều món ăn Hải Phịng khơng kén người ăn khi được du nhập đến nhiều vùng
miền khác nhau.

Một số lượng không nhỏ người Hải Phịng (đặc biệt là nam giới) có xu hướng thích

ăn cay mạnh. Và nhiều món ăn đặc trưng của Hải Phịng như bún tơm móng giị,
bún cá cay, cháo cay, bánh mì cay, canh bánh đa đỏ (trong đó bao gồm canh bánh
đa cua và canh bánh đa tôm), ốc xào cay hấp dẫn thực khách là bởi có thêm vị cay
nồng (cay mạnh) của loại ớt tươi nhỏ thái lát, loại bột ớt đỏ phơi khô tán mịn và
loại tương ớt đặc trưng địa phương được cung cấp bởi các cơ sở sản xuất gia
truyền trong thành phố. Loại tương ớt kiểu Hải Phịng này nói chung có vị cay
mạnh hơn và mùi đậm hơn phần lớn các loại tương ớt đóng chai cơng nghiệp trên
thị trường do các cơng ty thực phẩm chế biến sẵn và nó cũng thích hợp hơn các
loại tương ớt cơng nghiệp khi ăn với nhiều món đặc trưng của Hải Phịng.

So với vị cay, vị chua có thể chưa đạt tới mức độ nổi bật ngang bằng trong ẩm thực
của Hải Phòng nói chung nhưng nó đặc biệt có vai trị tăng thêm sức hấp dẫn trong
một số món ăn địa phương. Ví dụ như vị chua có mặt trong hầu hết các món ăn với
nước dùng và sợi bánh đặc trưng của Hải Phòng như canh bánh đa cua, canh bánh
đa đỏ tơm sườn, canh bún tơm móng giị và bún cá cay. Vị chua nhẹ của quả quất
tươi cũng là một yếu tố hấp dẫn thực khách trong các món ăn với loại nước chấm
đặc trưng của Hải Phòng dùng trong món bánh cuốn hay bánh bèo chẳng hạn. Tuy
nhiên như đã nói ở trên, người Hải Phịng có thể không ăn đồ chua nhiều như vùng
miền Nam chẳng hạn nên khi chế biến các món ăn với nước dùng đặc trưng của địa
phương thì họ có thể dùng rất hạn chế hoặc không cần dùng cà chua trong một số
món như canh bánh đa cua, canh bánh đa đỏ tơm sườn, canh bún tơm móng giị.
Trong chế biến các món canh riêu (canh riêu cá, canh riêu cua, canh riêu hến, canh
riêu trai, bún cá cay chẳng hạn) thì lượng cà chua có thể được dùng nhiều hơn hẳn
khi chế biến các món khác. Khi cần bổ sung vị chua cho một số món ăn đặc trưng,
nhiều người Hải Phịng có thể hạn chế dùng hoặc khơng cần dùng cà chua nhưng
thay bằng một vài loại quả khác nhau như quả chay, sấu, me, khế, chanh, quất.
15


Hải Phịng là một trong số ít (nếu đánh giá nghiêm túc thì số lượng có thể khơng

nhiều hơn số ngón tay trên một bàn tay) địa phương tại Việt Nam vẫn duy trì được
danh tiếng làm nước mắm truyền thống ở tầm quốc gia sau hơn một thế kỷ. Nước
mắm Cát Hải mà đại diện hàng đầu là hãng nước mắm Vạn Vân của gia tộc họ
Đoàn nổi danh từ thời Pháp thuộc có thể xem là thương hiệu nước mắm lớn nhất
trên tồn Đơng Dương trong những thập kỷ 1920 đến thập kỷ 1940. Một điều đặc
biệt trong cách sử dụng nước mắm của nhiều người Hải Phòng là thường đun nóng
cùng với nước ninh hầm xương ống và đuôi lợn để pha chế nước chấm cho một số
món như bánh cuốn hoặc bánh bèo kiểu Hải Phịng chẳng hạn, trong khi đó ở nhiều
tỉnh thành thường khơng dùng nước ninh xương chế cùng mà chỉ cần pha nguội
nước mắm cốt cho loãng bớt rồi cho thêm một số thành phần quen thuộc vào như
giấm, tỏi, ớt, đường...

Khác với ẩm thực miền Trung và Nam, nhiều loại nước chấm (hay nước dưới)
dùng trong một số món ăn đặc trưng của Hải Phịng có thể xem là một loại nước
"canh mặn" ăn kèm, giống như ở nhiều địa phương có thói quen để bên cạnh
bát/dĩa cơm một bát canh nhỏ dùng riêng trong bữa ăn hàng ngày vậy. Sở dĩ gọi là
nước "canh mặn" vì phần lớn các loại nước chấm hay nước dưới kiểu Hải Phòng
(như dùng trong các món bánh bèo, bánh cuốn, bún chả nướng, nem cua bể, xơi
thịt đặc trưng địa phương) thì thực khách hồn tồn có thể vừa chấm, vừa dưới lên
món ăn chính nhưng cũng có thể vừa "húp canh" trong chiếc bát nhỏ vậy. Đây là
điều khác biệt dễ nhận thấy khi so sánh với cách ăn uống của người miền Nam, khi
ăn thường dưới cả bát nước chấm vào dĩa lớn rồi trộn đều lên trước khi ăn. Một lý
do chính ở đây là bởi các loại nước chấm đặc trưng kiểu Hải Phịng thường rất ít
mùi vị mặn mịi của nước mắm cốt (mặc dù địa phương có danh tiếng toàn quốc
với nghề làm nước mắm truyền thống Cát Hải trên cả trăm năm) mà nhiều vị ngọt
của nước xương và thịt ninh hầm hơn cả, nên thường dễ để "húp canh" hơn nhiều
loại nước chấm pha nguội đậm vị tỏi ớt kiểu miền Trung và Nam (chẳng hạn như
loại nước dưới đặc trưng dùng trong món cơm tấm kiểu Sài Gịn).

Hải Phịng cũng có một truyền thống chế biến hải sản khô (như cá thu, cá ruội

chẳng hạn) và chế biến thực phẩm đóng hộp (như pa-tê gan lợn, thịt lợn hấp, cá
ngừ đại dương ngâm dầu đóng hộp chẳng hạn). Công ty Cổ phần Đồ hộp Hạ Long
được thành lập vào năm 1957 tại Hải Phòng là một doanh nghiệp có danh tiếng lâu
năm về sản xuất thực phẩm đóng hộp ở Việt Nam.
16


Món bánh đa cua (theo truyền thống địa phương ln sử dụng cua đồng và bánh đa
đỏ) và nem cua bể (theo phong cách địa phương hay được gói kiểu hình vng
giống như chiếc bánh chưng ngày Tết) được nhiều người xem là hai món ăn có
tính đại diện rõ nhất cho phong cách chế biến ẩm thực của Hải Phịng. Lý do có thể
bởi những ai từng thưởng thức hai món này khi được những người sành về ẩm thực
Hải Phịng chế biến thì họ khơng chỉ bị chinh phục về vị giác ở cái ẩm vị đặc biệt
của một bát bánh đa cua hay một đĩa nem cua bể đúng phong cách Đất Cảng mà
cịn bị lơi cuốn ở khía cạnh thị giác bởi tính thẩm mỹ của chúng. Bởi vì, một bát
bánh đa cua được chế biến kết hợp cả yếu tố truyền thống lẫn hiện đại đúng phong
cách Hải Phòng thực sự là một bức tranh tổng hịa đa hình dạng, đa sắc màu rất bắt
mắt, phong phú của các nguyên liệu, một điều mà ngay cả món phở nổi tiếng cũng
khó có được. Trong khi đó, những chiếc nem hải sản (theo truyền thống kiểu Hải
Phịng thì thành phần hải sản trong nem chỉ bao gồm cua bể và tơm tươi bóc vỏ,
khơng cần thêm mực tươi hay tôm khô như phong cách biến tấu miền Nam) được
gói vng vắn giống như những chiếc bánh chưng truyền thống thu nhỏ để vừa
trong lòng bàn tay người lớn rồi đem rán/chiên trong dầu sơi cho chín tới vàng
ươm phồng căng các mặt, sau đó xếp ngay ngắn lên chiếc đĩa lớn hình trịn bên
cạnh một bát nước chấm nhỏ hơn đơi chút cũng hình trịn sẽ là một gợi ý tinh tế
cho thực khách về quan niệm "trời trịn đất vng" cổ xưa của người Việt, vốn có
liên quan đến sự tích về bánh chưng và bánh giầy. Cả hai món ăn này đều có sự kết
hợp hài hịa giữa tính truyền thống và hiện đại, tính dân dã hịa trộn với nét tinh tế
thanh lịch (như vừa có thể thưởng thức 2 món này trong một qn ăn bình dân bên
hè phố nào đó ở Hải Phịng hoặc Hà Nội nhưng cũng hồn tồn thích hợp khi

thưởng thức chúng trong một nhà hàng ẩm thực được đầu tư tương đối quy mô như
nhà hàng An Biên Eatery tại Hà Nội[20] hay nhà hàng Quán Dì Lý ở ngay trung
tâm Quận 1, TP. HCM chẳng hạn),[21] có sự kết hợp hài hịa giữa các ngun liệu
của vùng đồng ruộng nước ngọt (như bột gạo dùng làm bánh đa đỏ hay bánh tráng
nem, cua đồng, thịt lợn, rau, hành), của vùng cửa sông nước lợ (như tôm sú hoặc
tôm rảo tươi) và của vùng biển cả nước mặn (như cua bể/cua biển, bề bề, cá thu
dùng làm chả).
Du nhập ra ngoài
Dù là một thành phố trực thuộc trung ương và có một văn hóa ẩm thực tương đối
đặc sắc, đa dạng so với mặt bằng chung giữa các tỉnh thành Việt Nam nhưng do
hoạt động truyền thông, quảng bá du lịch - văn hóa chưa xứng tầm trong suốt một
khoảng thời gian dài nên ẩm thực Hải Phòng vẫn chưa thực sự tạo ra dấu ấn mạnh
đến nhiều tỉnh thành khác trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh thành ở miền Trung
17


và miền Nam và xa hơn nữa là tạo ra sức hút mạnh đối với khách du lịch và truyền
thông nước ngoài như hiệu quả đã cho thấy ở một số tỉnh thành như Hà Nội, Huế,
Đà Nẵng, Hội An, TP. Hồ Chí Minh chẳng hạn. Ở mặt khác, gần giống như Huế,
Hải Phòng trong nhiều năm qua chưa bị tác động quá mạnh bởi quá trình nhập cư
ngoại tỉnh như một số thành phố chẳng hạn Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh
nên nhiều đặc tính ẩm thực địa phương vẫn còn được lưu truyền thực sự rõ rệt và ít
bị pha trộn (biến tấu) với những yếu tố ẩm thực từ ngoại tỉnh trong một thời gian
tương đối dài.
Một số món ăn có xuất xứ từ Hải Phòng như bánh đa cua, nem cua bể, lẩu cua
đồng, ốc xào, bánh mỳ cay (còn được gọi là bánh mỳ que) đã được du nhập đến
những địa phương khác như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và phổ biến tại
những nơi này đến mức đôi khi người ta không cần phải dùng tên gọi địa phương
xuất xứ (Hải Phịng) để ghép sau tên gọi món ăn, chủ qn có thể khơng cần gắn
tên địa phương (Hải Phịng) trên biển hiệu thì những người sành ăn (đặc biệt là

người gốc Hải Phịng) vẫn có thể nhận ra xuất xứ qua ngun liệu chế biến, hương
vị, hình thức bài trí món ăn cũng như một số thứ ăn kèm. Nhiều nhà hàng, qn ăn
tại Hà Nội hay Sài Gịn có thể chỉ đề biển kiểu như Bánh đa cua An Biên hay Nem
vng cua bể thì nhiều người sành ăn vẫn có thể hiểu rằng đó là món ăn có xuất xứ
từ Hải Phòng hoặc chủ quán là người gốc Hải Phịng. Một số món ăn khơng thể
thưởng thức ở những nơi khác mà chỉ có tại Hải Phịng hoặc đã được biến đổi về
thành phần nguyên liệu cũng như mùi vị khi du nhập đến các địa phương khác.

Những năm cuối thế kỷ 19 - nửa đầu thế kỷ 20, người Pháp và Người Hoa là hai
cộng đồng người nước ngồi lớn nhất và có ảnh hưởng về nhiều mặt tại Hải Phịng.
Ẩm thực Hải Phịng ngồi những món ăn mang phong cách chế biến truyền thống
Việt Nam (trong đó có phở, bánh cuốn...), cịn chịu ảnh hưởng đáng kể từ ẩm thực
ngoại lai (nước ngồi) mà điển hình là ẩm thực Trung Quốc và một phần nhỏ từ ẩm
thực Pháp. Đây cũng là hai trong số những nền văn hóa ẩm thực nổi tiếng nhất trên
thế giới.

Ẩm thực đặc trưng Hải Phịng nhìn chung là ở mức độ trung tính, nghĩa là khơng
q cay, khơng q mặn hay ngọt nên dù là ẩm thực của người miền Bắc nhưng
cũng dễ thưởng thức đối với người miền Trung và miền Nam. Ẩm thực Hải Phịng
cũng khơng q thiên về sự cầu kỳ trong nguyên liệu, gia vị hay công đoạn chế
biến (điển hình là ẩm thực Huế vốn chịu ảnh hưởng lớn từ ẩm thực cung đình),
cũng khơng nặng về pha tạp mùi vị mà chủ yếu khai thác hương vị tươi ngon sẵn
18


có của nguồn nguyên liệu thực phẩm dùng để chế biến (đặc biệt là nguồn nguyên
liệu thủy hải sản).

Nguyên liệu đặc trưng và phổ biến trong cách thức chế biến ẩm thực Hải Phòng là
nguồn thủy hải sản tương đối phong phú của vùng biển Hải Phòng (Đồ Sơn, Cát

Hải, Bạch Long Vĩ) cũng như quanh khu vực Vịnh Bắc Bộ. Ngoài nguồn thủy hải
sản được đánh bắt trong tự nhiên thì cũng có một nguồn lớn ngun liệu loại này
được nuôi trồng trong các ao đầm, lồng bè nhân tạo. Những loại thủy hải sản được
dùng chủ yếu là tôm, cua (cả cua đồng và cua bể), cá, sam biển...

Nhiều món ăn từ hải sản sẽ có vị ngon hơn nhờ loại nước chấm ăn kèm. Ở Hải
Phịng, khơng ít gia đình có truyền thống nhiều đời chế biến nước mắm, giấm và
tương ớt (cịn được gọi là chíu trương). Nước mắm được sản xuất theo cách thức
truyền thống của người Kinh trong khi dấm và tương ớt thường được làm theo
công thức gia truyền của những người gốc Hoa tại Hải Phòng. Đây là ba thành
phần quan trọng trong nhiều món ăn đặc trưng của Hải Phịng.

Nước mắm Cát Hải (vốn có nguồn gốc là nước mắm Vạn Vân nổi tiếng từ thời
Pháp thuộc) dù không phổ biến trên khắp Việt Nam như nước mắm Phú Quốc
nhưng có hương vị riêng biệt từ cách làm mắm và loại cá đặc trưng của vùng biển
Hải Phòng. Loại nước mắm này thường thích hợp để chế biến một số món đặc
trưng hương vị Hải Phịng trong đó có món cơm chiên thập cẩm hay dùng để pha
chế nước chấm nem cua bể.

Một loại nguyên liệu đặc trưng khác là bánh đa. Tại Hải Phòng, bánh đa Dư Hàng
Kênh đã trở thành một thương hiệu bánh đa nổi tiếng với các sản phẩm như bánh
đa đỏ (dùng chế biến bánh đa cua), bánh đa nem (dùng chế biến nem cua bể) có
một số điểm khác biệt so với loại bánh đa chế biến tại các địa phương khác và
chính sự khác biệt này đã tạo nên tính độc đáo cho những món ăn như bánh đa cua
hay nem cua bể của Hải Phịng.

Ngồi ra, Hải Phịng cũng là một trong những địa phương có truyền thống về cơng
nghiệp chế biến thực phẩm đóng hộp tại Việt Nam. Nổi tiếng hơn cả là Công ty Đồ
19



hộp Hạ Long, ngồi trụ sở chính tại Hải Phịng còn một số nhà máy chế biến tại
các tỉnh thành khác.
Kết luận mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội tại Hải Phịng
khơng chỉ phản ánh sự tương tác giữa các yếu tố văn hóa, kinh tế và chính trị, mà
cịn là sản phẩm của sự đánh giá và xác định liên tục của cộng đồng địa phương về
thế giới xung quanh họ.

CÁC NGUỒN THAM KHẢO
/> /> /> /> />Giáo trình triết học Mác - Lênin, GS.TS. Phạm Văn Đức ( chủ biên)
/> Ẩm thực Hải Phòng
/> />
LỜI CAM KẾT
Tơi xin cam đoan đây chính là bài tiểu luận nghiên cứu đề tài “Phân tích ý nghĩa
phương pháp luận từ việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái
chung. Liên hệ thực tiễn địa phương?” được thực hiện độc lập và nghiêm túc bởi
cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của Thầy Vũ Phú Dưỡng viện Đào tạo Quốc tế tại
đơn vị IBL64ĐH – CTTT14G3. Trong toàn bộ nội dung của bài tiểu luận, thông
20



×