Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Những điểm tương đồng hội ngộ giữa Lý Thái Tổ và Mạc Thái Tổ ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.3 KB, 8 trang )

Những điểm tương đồng hội ngộ giữa Lý Thái Tổ và Mạc Thái Tổ
Lý Thái Tổ và Mạc Thái Tổ là hai vị vua khởi đầu của hai triều đại phong kiến
Việt Nam: nhà Lý và nhà Mạc. Giữa hai người có nhiều nét tương đồng nhưng
lịch sử lại có sự đánh giá khác nhau về hai vị vua này.
Lý Thái Tổ và Mạc Thái Tổ là hai vị vua khởi đầu của hai triều đại phong kiến
Việt Nam: nhà Lý và nhà Mạc. Giữa hai người có nhiều nét tương đồng nhưng
lịch sử lại có sự đánh giá khác nhau về hai vị vua này.
1. Những điểm tương đồng
Lý Công Uẩn và Mạc Đăng Dung đều xuất thân từ tầng lớp bình dân.
Lý Công Uẩn sinh năm 974, người hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp, lộ Bắc
Giang (nay thuộc xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh), thân mẫu là Phạm Thị. Lên
ba tuổi, ông được sư Lý Khánh Văn - trụ trì chùa Cổ Pháp nhận nuôi dưỡng và đặt
tên là Lý Công Uẩn. Từ nhỏ, Lý Công Uẩn sớm bộc lộ trí “thông minh, vẻ người
tuấn tú khác thường”
(1)
.
Mạc Đăng Dung sinh “giờ Ngọ ngày 23 tháng 11 năm Quý Mão”
(2)
, người
làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay thuộc xã Ngũ Đoan, Kiến Thuỵ, Hải
Phòng), thân phụ là Mạc Hịch, thân mẫu là Đặng Thị Hiếu, “tuổi còn trẻ đã có sức
khoẻ, nhà nghèo, làm nghề đánh cá”
(3)
.
Như vậy, cả Lý Thái Tổ và Mạc Thái Tổ đều có nguồn gốc xuất thân từ tầng lớp bình
dân, có tuổi thơ vất vả nhưng yên bình. Khi trưởng thành, nhờ có tài năng, hai ông đã làm
nên sự nghiệp.
1.1. Lập thân từ võ quan
Lý Công Uẩn lớn lên ở chùa dưới sự nuôi dạy của hai nhà sư Lý Khánh Văn và
Lý Vạn Hạnh nên sớm chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Buổi đầu xây dựng
nền độc lập, tự chủ, Phật giáo có một vai trò quan trọng đối với đời sống xã hội.


Nhiều nhà sư được mời làm cố vấn cho nhà vua và triều đình. Lý Vạn Hạnh là một
vị sư đức cao đạo trọng, bởi vậy ông được vua Lê Đại Hành mời làm cố vấn chính
trị cho mình. Dưới sự tiến cử của Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn vào kinh đô Hoa Lư
làm quan cho nhà Tiền Lê. Nói về con đường hoạn lộ của Lý Công Uẩn, theo
Quốc sử Quán triều Nguyễn: “Khoảng giữa niên hiệu Ứng Thiên nhà Lê, (Lý
Công Uẩn - Phan Đăng Thuận chú thích) làm cấm quân dưới triều Trung Tông.
Ngọa Triều khi đã cướp ngôi làm vua, thăng Lý Công Uẩn lên Điện tiền chỉ huy
sứ”
(4)
. Như vậy, từ một chức võ quan cấp thấp, nhờ những biến cố chính trị,
Lý Công Uẩn trở thành võ quan cao cấp đứng đầu quân cấm vệ.
Mạc Đăng Dung cũng xuất thân trong một gia đình bình dân, mặc dù là hậu duệ
của Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi nhưng gặp cảnh gia đình sa sút nên
từ nhỏ ông không có điều kiện theo nghiệp văn mà theo nghiệp võ, kiếm sống
bằng nghề chài lưới. Cuộc sống lao động đã cho ông sức khoẻ phi thường và nhờ
đó đã thi đậu Đô lực sỹ và được sung vào đội quân túc vệ, giữ việc cầm dù cho xe
vua. Từ một võ quan cấp thấp, bằng tài năng, chỉ trong một thời gian ngắn, Mạc
Đăng Dung thăng tiến rất nhanh trên con đường hoạn lộ. Năm 1508, niên hiệu
Đoan Khánh thứ 4, vua Lê Uy Mục giao cho ông làm Thiên vũ vệ đô chỉ huy sứ ty
đô chỉ huy sứ. Năm 1511, niên hiệu Hồng Thuận thứ 3, vua Lê Tương Dực thăng
ông làm Đô chỉ huy sứ tước Vũ Xuyên bá. Năm 1516, Mạc Đăng Dung được cử
làm trấn thủ Sơn Nam. Năm 1518, ông được thăng tước Vũ Xuyên hầu trấn thủ
Hải Dương. Năm 1519, vua Lê Chiêu Tông sai Mạc Đăng Dung thống lĩnh các
quân. Ông đã bước dần đến đỉnh cao quyền lực.
1.2. Câu sấm
Trong quan niệm của người phương Đông, mỗi khi sắp có một sự biến đổi lớn
nào đó thì thường xuất hiện những câu sấm ký để báo trước sự việc sắp xảy ra. Bài
viết không đi sâu phân tích về sấm ký mà chỉ nêu lên sự giống nhau về câu sấm
nói lên sự thay đổi triều đại dẫn đến sự ra đời của nhà Lý và nhà Mạc.
Truyện kể rằng: “Ở làng Đình Bảng có một cây gạo bị sét đánh hiện ra dòng

chữ:
Thụ căn diểu diểu/ Mộc biểu thanh thanh/ Hòa đao mộc lạc/ Thập bát tử thành/
Đông A nhập địa/ Dị mộc tái sinh/ Chấn cung xuất nhật/ Đoài cung ẩn tinh/ Lục
thất niên gian/ Thiên hạ thái bình”.
Căn cứ vào lời sấm, thiền sư Vạn Hạnh hiểu rằng: “Hòa đao mộc lạc” chỉ chữ
Lê, “Thập bát tử” là chữ Lý, “Đông A” là họ Trần, “Nhập địa” là giặc phương Bắc
vào cướp, “Dị mộc tái sinh” là họ Lê lại nổi lên. Ý nói rằng họ Lê đổ, họ Lý sẽ lên
thay. Bởi vậy, Vạn Hạnh cho rằng họ Lý chắc chắn sẽ khởi nghiệp lớn. Một hôm,
Lê Ngọa Triều ăn khế thấy có hạt mận, lại ngẫm đến lời sấm truyền nên ngầm tìm
dòng họ Lý mà giết đi nhưng Lý Công Uẩn ở ngay bên cạnh lại không biết.
Vào đầu thế kỷ XVI, xuất hiện câu sấm “Phương Đông có sắc khí thiên tử”
nhưng không biết câu sấm đó ứng nghiệm vào ai? Nhà Lê Sơ lo sợ không biết phải
làm thế nào nên đã cho thuật sĩ về Đồ Sơn trấn yểm. Nhưng trong đoàn người đi
trấn yểm đó lại có Mạc Đăng Dung.
Như vậy, thời điểm trước khi thay đổi triều đại Tiền Lê - Lý, Lê Sơ - Mạc đều
xuất hiện câu sấm để cảnh báo, cả Lý Công Uẩn và Mạc Đăng Dung đều làm quan
trong triều, ở bên cạnh nhà vua nhưng không ai để ý.
1.3. Sáng lập ra cơ nghiệp
Thời thế tạo anh hùng, cả Lý Công Uẩn và Mạc Đăng Dung sinh ra vào thời
loạn, vua không ra vua, tôi không ra tôi. Lê Ngọa Triều hoang dâm vô độ, tính lại
thích hiếu sát: “Những súc vật dùng làm món ăn, tất phải chính tay mình đâm chết
trước. Dùng nhiều hình phạt tàn ngược để giết người: hoặc quấn cỏ vào thân
người rồi lấy lửa đốt; hoặc sai Liêu Thủ Tâm, tên phường chèo người Tống, cầm
con dao cùn lóc thịt người để cho không chết ngay được, thấy người bị hành hình
ấy đau đớn kêu gào, Thủ Tâm nói khôi hài rằng nó không quen chịu chết, thì nhà
vua ha hả cười. Đi đánh dẹp, bắt được tù binh đều tống vào cái “thủy lao” để cho
nước triều dâng lên thì sặc nước, há mồm mà chết; có khi bắt họ trèo lên ngọn cây
rồi ở dưới chặt cây, cây đổ, người ngã chết, thì khanh khách cười, lấy làm vui
thích”
(5)

. Những hành động tàn ác này của Lê Ngọa Triều khiến lòng người oán
hận, cơ nghiệp nhà Tiền Lê lung lay. Bởi vậy năm 1009, sau khi Lê Long Đĩnh
mất, được trăm dân muôn họ hướng về, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, mở đầu
cơ nghiệp nhà Lý.
Còn nhà Lê Sơ, bước sang thế kỷ XVI, khủng hoảng và suy yếu cùng cực. Thừa
hưởng cơ nghiệp của Lê Thánh Tông, các vua kế vị chỉ biết ăn chơi vô độ, ham rượu
chè, gái đẹp. Sử sách từng gọi các ông vua đó là “vua quỷ” (Lê Uy Mục), “vua lợn”
(Lê Tương Dực). Trong lời hịch của mình, Bảng nhãn Lương Đắc Bằng đã tố cáo bạo
chúa Lê Uy Mục: “Quan tước đã hết rồi vẫn thưởng tràn không ngớt, dân chúng đã
cùng khốn còn vơ vét chẳng thôi. Vét thuế khoá từng cân lạng, tiêu tiền của như bùn
đất, bạo ngược như Tần Chính. Đãi bề tôi như chó ngựa, coi dân chúng như cỏ rác”
(6)
. Xã hội Đại Việt đầu thế kỷ XVI, vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi. Vua ngờ vực
tất cả mọi người, chỉ định giết. Tôi thì giết vua, triều thần chẳng coi vua ra gì. Các đại
thần thi nhau phế vua này lập vua kia. Chỉ hơn 20 năm mà có 5 vua bị giết, đất nước
đại loạn. Nhân dân lầm than mong muốn có một sự thay đổi, Mạc Đăng Dung từng
bình định được nhiều giặc, lập được nhiều chiến công nhưng cũng bị vua Lê Chiêu
Tông nghi ngờ tìm cách hãm hại. Năm 1527, được thần dân trong nước ủng hộ, Mạc
Đăng Dung lên ngôi hoàng đế, mở đầu cơ nghiệp nhà Mạc. Trong chiếu nhường ngôi
vua, Lê Cung Hoàng viết: “Từ cuối thời Hồng Thuận, gặp lúc quốc gia nhiều nạn,
Trần Cảo bắt đầu gây loạn; Trịnh Tuy lập kẻ phản nghịch lên ngôi, lòng người lìa
tan, trời cũng không giúp. Lúc ấy thiên hạ đã không phải của nhà ta vậy. Ta nối ngôi,
không thể gánh nổi. Mệnh trời và lòng người hướng về người có đức. Vậy nay, Thái
sư An Hưng vương Mạc Đăng Dung là người tư chất thông minh, đủ tài văn võ, bên
ngoài đánh dẹp, bốn phương đều phục, bên trong trị nước, trăm họ yên vui, công đức
rất lớn lao, trời người đều quy phục. Nay theo lẽ phải, nên nhường ngôi cho. Nên cố
sửa đức, lâu giữ mệnh trời, để yên nhân dân. Mong kính theo đó”
(7)
.
Như vậy, cả Lý Thái Tổ và Mạc Thái Tổ do “lòng người hướng về” mà giành được

sự nghiệp. Cả hai ông vua tiên triều của nhà Lý và nhà Mạc đều giành được ngai vàng
từ họ Lê.
2. Những đánh giá của các sử gia
Lý Thái Tổ và Mạc Thái Tổ có nhiều điểm tương đồng nhưng các sử gia phong
kiến có sự đánh giá khác nhau về hai nhân vật này.
2.1. Những đánh giá của sử gia phong kiến về Lý Thái Tổ
Các sử gia phong kiến với cách nhìn của những nhà nho đã đánh giá Lý Thái Tổ
như sau:
Sử gia Lê Văn Hưu thì lên án quá mộ đạo Phật: “Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2
năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ
Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở
Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể.
Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há chẳng phải là
vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là làm việc phúc chăng? Bậc
vua sáng nghiệp, tự mình cần kiệm, còn lo cho con cháu xa xỉ lười biếng, thế mà Thái
Tổ để phép lại như thế, chả trách đời sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá,
điện thờ Phật, lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có kẻ hủy thân thể,
đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong
nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy?”
(8)
.
Sử thần Ngô Sĩ Liên thì đánh giá: “Lý Thái Tổ dấy lên, trời mở điềm lành hiện
ra ở vết cây sét đánh. Có đức tất có ngôi, bởi lòng người theo về, lại vừa sau lúc
Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược mà vua thì vốn có tiếng khoan nhân, trời
thường tìm chủ cho dân, dân theo về người có đức, nếu bỏ vua thì còn biết theo ai!
Xem việc vua nhận mệnh sâu sắc lặng lẽ, dời đô yên nước, lòng nhân thương dân,
lòng thành cảm trời, cùng là đánh dẹp phản loạn, Nam Bắc thông hiếu, thiên hạ
bình yên, truyền ngôi lâu đời, có thể thấy là có mưu lược của bậc đế vương. Duy
có việc ham thích đạo Phật, đạo Lão là chỗ kém”
(9)

.
Các sử gia của Quốc sử quán triều Nguyễn lại cho rằng: “Nhà Lý được nước,
cũng không phải chính nghĩa cho lắm, nhưng đương buổi Lê Ngọa Triều, lòng
người lìa tan, sinh dân vô chủ, không về với Công Uẩn còn biết theo ai?”
(10)
.
Như vậy, hầu hết các sử gia phong kiến không lên án việc Lý Công Uẩn “cướp
ngôi” nhà Tiền Lê mà lên án ông quá mộ đạo Phật.
2.2. Những đánh giá của sử gia phong kiến về Mạc Thái Tổ
Khác với Lý Thái Tổ, Mạc Thái Tổ bị các sử gia phong kiến theo quan điểm
chính thống lên án việc phế bỏ nhà Lê lập ra nhà Mạc.
Đại Việt sử ký toàn thư: “Cứ xem việc làm của Đăng Dung chẳng qua là một
đại thần của nhà Lê, đương lúc nhà Lê vua yếu, tôi mạnh, nếu biết noi theo các
bậc tôi giỏi, tướng hiền đời xưa, phò vua giúp dân như Y Doãn giúp Thái Giáp,
Chu Công giúp Thành Vương thì công lớn huy hoàng ấy còn đáng ca ngợi.
Sao không bắt chước thế mà đi làm ngược lại”
(11)
.
Trần Trọng Kim trong “Việt Nam sử lược” cũng lên án Mạc Đăng Dung: “Mạc
Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người
nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà
dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái
danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quỳ lạy ở
trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú quý cho một thân
mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm sỉ”
(12)
.
Quan điểm lên án Mạc Đăng Dung của các sử gia phong kiến cũng như Trần
Trọng Kim còn gây ảnh hưởng đến một bộ phận không nhỏ giới sử học mác-xít
nước ta trong một thời gian dài.

Cùng một hành động cướp ngôi từ những kẻ hôn quân bạo chúa nhưng tại sao
các sử gia phong kiến lại có những đánh giá khác nhau? Đó là các sử gia phong
kiến Việt Nam bị chi phối bởi quan điểm của Nho giáo, Tống Nho. Hơn nữa sau
khi đánh bại nhà Mạc, nhà Lê -Trịnh đã cho thiêu hủy hết những sách vở viết về
nhà Mạc. Sử sách chính thống đều do nhà Lê - Trịnh và sau này là nhà Nguyễn
viết. Đây là những dòng họ có mối thâm thù với họ Mạc. Yêu nên tốt, ghét nên
xấu, đó cũng là một điều dễ hiểu.
Năm 1986, đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Với quan điểm “nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật”, giới sử học nước nhà đã
khẳng định những đóng góp của nhà Mạc đối với tiến trình lịch sử dân tộc, Mạc
Đăng Dung đã được chiêu tuyết.
Bài viết này ngoài việc tìm những nét tương đồng, hội ngộ giữa hai nhân vật
lịch sử Lý Thái Tổ và Mạc Thái Tổ nhằm đưa đến những khám phá thú vị còn
muốn gửi gắm đến các nhà sử học là cần có cách nhìn khách quan hơn, đánh giá
đúng công - tội của vua tôi nhà Mạc./.
Chú thích
(1), (8), (9)
Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2003, tr.
357, 360, 381.
(2)
Ban Liên lạc họ Mạc, Hợp biên thế phả họ Mạc, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà
Nội, 2007, tr. 73.
(3), (7)
Lê Quý Đôn toàn tập, tập III, Đại Việt thông sử, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1978, tr. 254, 265.
(4), (5), (10)
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục,
tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 263-264, 262, 266.
(6), (11)
Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2003, tr.

74, 184-185.
(12)
Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1999, tr.
295.
Trần Thị Thanh Vân - Phan Đăng Thuận

×