Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Tiểu luận Mô hình tăng trưởng kinh tế Nhật bản, Hàn quốc, Singapore những điểm tương đồng và khác biệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.24 KB, 37 trang )

1





TIỂU LUẬN

Mô hình tăng trưởng kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore. Những điểm tương đồng và khác biệt









2

LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế là một trong những mục tiêu quan trọng mà bất kì quốc gia nào
cũng muốn đạt đến. Tuy nhiên, mỗi quốc gia, không hoàn toàn giống nhau về những điều
kiện để phát triển. Có những quốc gia rất được ưu ái, có nhiều thuận lợi để phát triển,
đặc biệt là về mặt tự nhiên, họ có nguồn tài nguyên phong phú, tạo bước đẩy đưa nền
kinh t
ế phát triển cao. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều những quốc gia được xếp vào danh
sách những nước nghèo tài nguyên, mà Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore,…là những ví dụ
điển hình. Như chúng ta biết, thực tế hiện nay đã cho thấy những sự thật rất trái ngược
nhau, ở một nước có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước thì lại có nền kinh tế


chưa th
ật sự phát triển như những gì mong đợi, nói một cách thẳng thắn hơn, họ vẫn còn
trong tình trạng kém phát triển. Nhưng những gì mà bạn nhìn thấy ở Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapore, thì đây lại là một khác biệt lớn. Họ có một nền kinh tế phát triển cao,
nằm trong nhóm những con rồng châu á, GDP bình quân đầu người cao,…Vậy, con
đường phát triển mà họ đi ra sao? Họ đã chọn mô hình tăng trưởng kinh tế nào để có
được những thành công như ngày hôm nay? Có những điểm tương đồng hay khác biệt
nào giữa những con đường phát triển ở những quốc gia Đông Á này?
Đi tìm lời giải cho những bài toán trên, nhóm chúng tôi đã chọn đề tài: “ Mô hình
tăng trưởng kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore. Những điểm tương đồng và
khác biệt”










3

CHƯƠNG I: CÁC LÝ THUYẾT VỀ MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ:
1.1 Giới thiệu chung:
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế phổ biến của thế giới hiện nay. Tuy nhiên trong
nền kinh tế thế giới, con đường phát triển kinh tế thị trường là muôn hình, muôn vẻ. Có
những quốc gia phát triển kinh tế thị trường theo con đường cổ điển hay tuần tự như các
nước Âu- Mỹ, nhưng cũng có những quốc gia phát triển kinh tế thị trường theo con
đường rút ngắn. Các nhà kinh tế học đã chỉ ra các kiểu rút ngắn, chẳng hạn như Nhật Bản

là rút ngắn cổ điển, còn NICs là rút ngắn hiện đại. Mỗi quốc gia có một mô hình tăng
trưởng riêng của nó. Trong đó có sự nổi lên của các quốc gia Đông Á, được ví như những
con rồng châu Á với tốc độ tăng trưởng vượt bậc. Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore là một
trong những con rồng đó.
Đề tài của chúng tôi nghiên cứu về mô hình tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapore qua các thời kỳ đồng thời tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt
nhằm đưa ra cái nhìn rõ hơn về sự phát triển thần kỳ của các nước trên.

1.2 Khái niệm tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản
lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người
(PCI) trong một thời gian nhất định. Nói cách khác tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng
sản phẩm xã hội (tính toàn bộ hay tính bình quân đầu người) trong một thời gian nhất
định.
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản sản phẩm
trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản
xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một
năm tài chính).
Tổ
ng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng tiền của
tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một thời
gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc
nội cộng với thu nhập ròng.
Tăng trưởng kinh tế là sự mở rộng sản lượng b
ởi một sự gia tăng các hoạt động kinh
tế sử dụng các công nghệ sản xuất hiện có.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ của một nước
ở một thời điểm nào đó trong điều kiện có công ăn việc làm đầy đủ.
Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của n
ền kinh tế. Tuy vậy ở một số

quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình quân đầu
người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ.
1.3 Mô hình tăng trưởng Kinh tế:
Mô hình tăng trưởng kinh tế, có thể hiểu một cách nôm na, đó là cách thức tổ chức
huy động và sử dụng các nguồn lực để đảm bảo có sự tă
ng trưởng về kinh tế qua các
năm, với một tốc độ hợp lý. “Cách thức” nói ở đây là rất đa dạng, bao gồm cả đầu vào (là
gia công, sản xuất, chế biến hay dịch vụ là chủ yếu); đầu ra (hướng nội hay hướng ngoại
4

là chủ yếu); phát triển các vùng, miền, các loại hình doanh nghiệp, tập đoàn; sự phối hợp
giữa Nhà nước và thị trường trên từng lĩnh vực… Lựa chọn theo cách nào, áp dụng mô
hình nào là tùy thuộc vào điều kiện, đặc điểm, tình hình cụ thể ở mỗi nước trong mối
quan hệ với thế giới đương đại và được quyết định bởi ý chí chủ quan của lãnh đạo mỗi
n
ước.
Quá trình tăng trưởng kinh tế có thể có nhiều mô hình khác nhau như tăng trưởng
kinh tế hướng nội, tăng trưởng kinh tế hướng ngoại hoặc sự kết hợp của cả hai mô hình
này tùy điều kiện và sự lựa chọn chiến lược của các quốc gia. Thực tiễn tăng trưởng kinh
tế đã chứng minh những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và thể hiệ
n được tính thần
kỳ trong lịch sử phát triển là các nền kinh tế hướng ngoại như trường hợp của Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Trong khoảng thời gian ngắn, các nền
kinh tế này được công nghiệp hoá nhanh chóng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước
này có thể đạt tới hai con số trong nhiều năm liên tục và nhanh chóng biến các nước này
thành các nước công nghiệp hoá. Hiện tại, trường hợ
p của Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil và
Nga (nhóm BRIC) đang thể hiện sự quá trình tăng trưởng cao tiềm tàng và ổn định trong
nền kinh tế toàn cầu hoá. Nguồn lực tăng trưởng của các nước này là điều kiện nhân khẩu
thuận lợi, cải cách mạnh cơ cấu kinh tế và khai thác triệt để động lực của toàn cầu hoá.

Như vậy tăng trưởng kinh tế là quá trình tích luỹ giá trị gia tăng của m
ột nền kinh tế
từ các nguồn lực trong và ngoài nước và nó phải được thúc đẩy bằng những động lực đủ
mạnh của chính sách, lòng tự hào dân tộc hoặc những yếu tố khác trong điều kiện toàn
cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Tăng trưởng kinh tế cao là mục tiêu mà nhiều quốc
gia kỳ vọng trong vòng chưa đến 10 năm tổng sản phẩm quốc nội tă
ng lên gấp đôi như
trường hợp của nền kinh tế Hoa Kỳ trong hoảng thời gian 1992- 2000, tổng sản phẩm
quốc nội của nước này đã tăng lên gấp đôi nhờ dựa vào việc chuyển dịch mạnh cơ cấu từ
cơ cấu kinh tế công nghiệp sang cơ cấu kinh tế tri thức.
Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng của các quốc gia không phải lúc nào cũng thành
công. Có những quốc gia thự
c hiện chiến lược tăng trưởng hướng nội không thành công
như Băng-la-đét, Mi-an-ma Có những quốc gia thực hiện tăng trưởng hướng ngoại
nhưng chủ yếu dựa vào vay nợ nước ngoài sử dụng thiếu hiệu quả đã rơi vào gánh nặng
nợ nước ngoài đặc biệt là các nước châu Mỹ La tinh như Ác-hen-ti-na Có quốc gia thực
hiện tăng trưởng nhưng rơi vào bẫy thu nhập trung bình và ch
ưa có sự cải thiện đáng kể
thu nhập như Thái Lan, Phi-lip-pin, Ma-lai-xi-a
Một trường hợp khác của tăng trưởng không thành công là trường hợp quốc gia công
nghiệp hoá cao (điển hình là Hà Lan vào những năm 1970) tìm thấy một mỏ dầu và do
yêu cầu của khai thác dầu là mặt hàng có lợi nhuận cao cho nên một khối lượng lớn các
nguồn lực từ các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ cao đã di chuyển sang ngành
dầu mỏ là ngành có trình độ công nghệ
trung bình. Điều này mặc dù có làm tăng GDP
song cơ cấu kinh tế đã bị lệch lạc thể hiện ở các ngành không phải công nghệ cao được
mở rộng trong khi các ngành công nghệ cao được mở rộng không tương xứng với mục
tiêu đặt ra của công nghiệp hoá. Đây là quá trình tăng trưởng ngược so với mong đợi
trong công nghiệp hoá hay còn gọi là tăng trưởng không có tương lai. Mà một điển hình
có thể nhắc đến là Gha-na, mộ

t đất nước đối mặt với điều kiện đặc thù trong lựa chọn
chiến lược phát triển. Vào đầu những năm 1960, thu nhập bình quân đầu người của Gha-
5

na và Hàn Quốc ngang nhau. Song sau 30 năm, Hàn Quốc trở thành một nước công
nghiệp hoá mới trong khi đó Gha-na vẫn là một nước chậm phát triển. Nguyên nhân của
tình hình này là do Gha-na chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế phát huy có
hiệu quả các ngành có lợi thế so sánh sang một nền kinh tế phát huy các ngành không có
lợi thế so sánh. Trong khi đó, Hàn Quốc lại tập trung phát triển mạnh các ngành có lợi thế
so sánh và sử dụng có hiệu quả chính sách thương mại chiế
n lược.
Mô hình nhà nước tăng trưởng: Đây có thể được hiểu là một sự phối hợp giữa nhà
nước, các ngành kinh tế và các thể chế tài chính. Trong đó, Nhà nước hướng dẫn, chỉ
đạo, điều tiết hoạt động kinh tế nhưng vẫn tuân thủ luật chơi của nền kinh tế thị trường.sử
dụng hợp lí các nguồn lực, các yếu tố phục vụ cho sự
phát triển của đất nước để tạo ra
một sự tăng trưởng cao trong tương lai.
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA NHẬT
BẢN, HÀN QUỐC VÀ SINGAPORE:
2.1 Nhật Bản:
2.1.1 Tổng quan:
Tổng quan về Nhật Bản:


• Vị trí địa lý: Diện tích 377, 835 km
2
; Thủ đô Tokyo; Địa hình bao gồm hải đảo và
miền núi; Khí hậu từ cận nhiệt tới ôn hòa.
• Dân cư: dân số khoảng 127,08 triệu người (năm 2010); Tỷ lệ dân số biết chữ 99%;
Tỷ trọng các ngành: dịch vụ 70%, công nghiệp 26%, nông nghiệp 4%.

6

• Chính phủ: Hiến pháp chế độ quân chủ với một chính phủ nghị viện. Chính trị
bên: Dân chủ Đảng của Nhật Bản (DPJ), Xã hội Dân chủ Đảng (SDP), New nhân dân
Đảng (PNP), Tự do Dân chủ Đảng (LDP), New sạch Chính phủ Đảng (Komeito), Nhật
Bản Cộng sản Đảng (JCP), nhóm của bạn ( YP).
• Kinh tế: Theo thống kê năm 2010, GDP đạt 5,391 nghìn tỷ USD, tốc độ tăng
trưởng 3%. Tài nguyên thiên nhiên khan hiếm bao gồm cá và một vài tài nguyên
khoáng sả
n. Nông nghiệp chủ yếu sản xuất lúa, rau, trái cây, sữa, thịt, cá, Công
nghiệp sản xuất các loại máy móc, thiết bị, thép, kim loại màu, dệt may, oto, hóa chất,
thiết bị điện, điện tử, đóng tàu và các loại thực phẩm chế biến.
2.1.2 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản:
Kinh tế thị trường Nhật Bản đã tiến triển qua nhiều giai đoạn khác nhau và trở thành
một trong những nền kinh tế thị trường hiện đại mà nhiều người coi là mẫu mực cho các
nước phát triển sau noi theo.
Đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ nhất của kinh tế Nhật Bản là thời Phục Minh Trị. Đây
là thời kỳ đã thực hiện những cải cách phi thường về chính trị, kinh tế và xã hội. Trước
hết, hệ thống chính trị phi tập trung hóa được bãi bỏ
để tạo ra sự thống nhất về chính trị
của đất nước.Một nhà nước tập trung được thành lập.
Về kinh tế và xã hội, sự phân chia xã hội thành các đẳng cấp cha truyền con nối bị thủ
tiêu, thay vào đó là một xã hội hướng vào thành tựu.Những người có tài và có năng lực
đều có cơ hội tiến thân trong xã hội, bất chấp nguồn gốc xuất thân của họ. Song song với
vi
ệc thủ tiêu hệ thống đẳng cấp, các quy tắc và luật lệ phong kiến hạn chế quyền tự do
kinh tế cũng được bãi bỏ, các biện pháp tích cực thúc đẩy cơ sở hạ tầng được thực hiện,
đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải, đẩy mạnh việc cải cách hệ thông tài chính- tiền tệ,
trong đó đặc biệt là cải cách hệ thông thuế, thuế hiện vậ
t được thay bằng thuế tiền, chế độ

tiền tệ Tokagaoa được thay thế bằng một đồng tiền hợp lý và chuẩn hóa cho cả nước, việc
phát hành tiền thuộc độc quyền của Chính phủ Trung ương; Nhà nước tập trung mạnh
cho đầu tư giáo dục; Chính phủ đồng thời khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển các
ngành công nghiệp hiện đại gắn liền với thực hiện t
ư nhân hóa các doanh nghiệp Nhà
nước; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để tiếp thu tư tưởng và kỹ thuật mới nhằm hiện
đại hóa đất nước.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế Nhật Bản phục hồi và đạt được sự tăng trưởng
“thần kỳ“.Giai đoạn này gọi là nền kinh tế thị trường có hướng dẫn. Đặc trưng cơ b
ản của
nền kinh tế Nhật Bản thời kỳ này là:
• Thứ nhất, Chính phủ vừa thực hiện chính sách tạo điều kiện cho tư nhân tư do
kinh doanh thuận lợi; vừa loại bỏ những yếu tố không hoàn thiện của thị trường.
• Thứ hai, Chính phủ đảm trách chi phí đầu tư cho những ngành công nghiệp hkông
có lãi nhưng rất cần thiết cho sự phát triển kinh tế nh
ư: xây dựng cơ sở hạ tầng, văn hóa,
giáo dục…
• Thứ ba, sự hợp tác giữa Chính phủ và tư nhân trong phát triển kinh tế được thực
hiện một cách thường xuyên và chặt chẽ.
7

• Thứ tư, Chính phủ coi trọng công cụ kế hoạch hóa gián tiếp trong điều tiết, quản lý
nền kinh tế quốc dân.
Tuy vậy, thời gian gần đây người ta bắt đầu đặt vấn đề về sự can dự quá nhiều của
Chính phủ vào những lĩnh vực cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cộng vì tính hiệu quả giảm
sút của sự can dự này.
Các giai đoạn phát triển kinh tế:
2.1.2.1 Giai đoạn 1946 - 1950: Khôi phục kinh tế sau Chiến tranh thế giới thứ
hai:
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản là một trong những nước bại trận, sự

phát triển kinh tế thị trường Nhật Bản nổi lên mấy vấn đề cơ bản sau đây:
• Thực hiện dân chủ hóa kinh tế gắn liền với dân chủ hóa chính trị và xã hội.
• Kinh tế thị trường không có nghĩa là nền kinh tế vô Chính phủ. Vì vậy cần có sự
can thiệp, điều tiết của Nhà nước. Thời kỳ đầu tiên phát triển kinh tế thị trường, Chính
phủ Nhật Bản can thiệp trực tiếp rộng rãi và khá sâu vào nền kinh tế, nhưng sự can thiệp
đó của Nhà nước càng về sau càng giảm dần.
• Ngoài việc bồi thường tổn thất cho những nước thắng trận, Nhật Bản còn bị lệ
thuộc vào nước ngoài.
• Tình hình kinh t
ế:
• Kinh tế bị tàn phá nặng nề, sản xuất bị gián đoạn: 34% máy móc, 25% công trình
xây dựng, 81% tàu biển bị phá hủy, sản xuất công nghiệp năm 1946 bằng 1/4 trước chiến
tranh…
• Số người thất nghiệp năm 1946 là 13,1 triệu người.
• Tổng cầu vượt tổng cung khiến cho lạm phát tăng tốc nhanh chóng. Nạn đói tuy
được ngăn chặn song thức ăn tồi và thiếu đã gây ra nạn suy dinh dưỡng và ngộ độc ở
nhiều nơi.

• Tình hình trên buộc Nhật Bản phải nhờ “Viện trợ” của Mỹ để phục hồi kinh tế. Từ
1945- 1950, Nhật Bản vay Mỹ 14 tỷ USD và nền kinh tế phụ thuộc chặt chẽ vào Mỹ.
Cải cách:
• Cuối 1945, Tư lệnh Lực lượng Đồng minh Quân quản ra lệnh cải cách ruộng đất ở
nông thôn, tạo ra cơ sở để tăng năng suất nông nghiệp và để ổn định các vùng nông thôn.
• 1945, lệnh giải tán các zaibatsu (các tập đoàn tài phiệt) được đưa ra.
• 1947, luật chống độc quyền được ban hành. Tiếp theo là luật thủ tiêu tình trạng tập
trung quá mức sức mạnh kinh tế được ban hành bổ sung cho luật chống độc quyền.
• Chính phủ tiến hành phân phối lương thực, kiểm soát hành chính đối với giá cả,
chống nạn đầu cơ, "đông lạnh" tiền gửi ngân hàng, đổi tiền, phát hành trái phiếu chính
phủ, tập trung sức khôi phục và phát triển một số ngành ưu tiên như than, thép, phân bón,
điện lực, v.v

• Những cải cách dân chủ hóa kinh tế này có tác dụng nâng cao vị trí của tư bản
công nghiệp, khuyến khích tinh thần kinh doanh và đầu tư.
8

2.1.2.2 Giai đoạn 1951 – 1973: Giai đoạn phát triển thần kỳ:
Đây là thời kỳ mà nền kinh tế Nhật Bản có tốc độ tăng trưởng rất cao. GDP thực tế
theo giá so sánh hàng năm (năm gốc là 1965) của Nhật Bản trong thời kỳ này hầu hết đều
có tốc độ tăng lên tới hai chữ số. Chính trong thời kỳ này, kinh tế Nhật Bản đã đuổi kịp
các nền kinh tế
tiên tiến của thế giới. Nếu vào năm 1950, GNP của Nhật còn nhỏ hơn của
bất cứ nước phương Tây nào và chỉ bằng vài phần trăm so với của Mỹ, thì đến năm 1960
nó đã vượt qua Canada, giữa thập niên 1960 vượt qua Anh và Pháp, năm 1968 vượt Tây
Đức. Năm 1973, GNP của Nhật Bản bằng một phần ba của Mỹ và lớn thứ hai trên thế
giới.


So sánh tốc độ tăng GNP bình quân đầu người của Nhật Bản giữa các thời kỳ:
• Tổng sản phẩm trong nước:
• Tốc độ tăng GDP những năm 1950-1960 trung bình là 8,5% đến 1960-1969 là
10,8%.
• Năm 1968, vượt qua các nước Tây Âu, đứng sau Mỹ với 183 tỷ USD.
• Năm 1973, đạt 402 tỷ USD. Nếu so với 1950 đã tăng lên 20 lần, khoảng cách so
với Mỹ chỉ còn 1/5.
Công nghiệp:

1950 – 1960, tốc độ tăng trưởng công nghiệp trung bình hàng năm là 15,9%, gấp 6
lần Mỹ (2,6%).
• 1961 – 1970, tốc độ tăng trưởng công nghiệp hàng năm là 13,5%.
• Đứng đầu thế giới về nhiều sản phẩm công nghiệp: sản lượng tàu biển, xe hơi, xe
máy, máy điện tử,…

Nông nghiệp:
• Phát triển theo hướng thâm canh với trình độ cơ giới hóa, hóa học hóa, thủy lợi
hóa và điện khí hóa rất cao.
• Năm 1969, tổng giá trị sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp là 9 tỷ đồng, lao động
nông nghiệp giảm xuống còn 8,9 triệu (1960, 14,5 triệu).
• 1967 – 1969: Sản lượng lương thực đủ cung cấp hơn 80% nhu cầu trong nước,
chăn nuôi 2/3 nhu cầu thịt, sữa, đánh cá sau Pêru 86 kg/người/năm.
9

Xuất khẩu: đẩy mạnh xuất khẩu hàng tiêu dùng lâu bền và chuyển sang xuất khẩu
máy móc như ô tô, thiết bị điện tử cao cấp như máy tính.
• 1970, 72,4% kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản là nhờ các sản phẩm công nghiệp
nặng và hóa chất.
• Năm 1960, Nhật Bản bắt đầu tự do hóa thương mại.
• Năm 1963, Nhật Bản trở thành thành viên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
• Năm 1964, Nhật Bản trở thành thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh
tế, câu lạc bộ của những quốc gia tiên tiến.
Nhật trở thành một trong ba trung tâm kinh tế, tài chính của thế giới tư bản.
Là nước phụ thuộc gần như hoàn toàn vào dầu lửa nhập khẩu và nhu cầu nước ngoài
nên cuộc khủng hoảng 1973-1975 đã làm kinh tế Nhật Bản rơi vào tình trạng đình
lạm sâu sắc. Mức độ khủng hoảng căn cứ vào tốc độ tăng trưởng GDP thực tế và sản
lượng công nghiệp của Nh
ật Bản nghiêm trọng nhất trong các nước công nghiệp phát
triển và nghiêm trọng hơn cả hồi Đại khủng hoảng. Những ngành công nghiệp sử dụng
nhiều năng lượng như đóng tàu, luyện thép, hóa dầu, dệt, gia công kim loại bị khủng
hoảng nặng nề.
Tác động nghiêm trọng của cú sốc dầu lửa 1973-1975 đã khiến Nhật Bản phải tích
cực triển khai chương trình tiết kiệm n
ăng lượng, đồng thời chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tăng tỷ trọng của khu vực dịch vụ. Trong khu vực chế tạo, giảm tỷ trọng của

các ngành dùng nhiều năng lượng, tăng tỷ trọng của các ngành có hàm lượng tri thức cao
(như sản xuất máy tính, máy bay, người máy công nghiệp, mạch tổ hợp, ), các ngành
sản xuất theo mốt (quần áo chất lượng cao, đồ đ
iện dân dụng, thiết bị nghe nhìn, ) và
công nghiệp thông tin. Nhật Bản nhấn mạnh hơn nữa nghiên cứu khoa học cơ bản để có
thể chuyển sang các ngành kinh tế mới.
Nguyên nhân tăng trưởng và chính sách chính phủ:
• Điều kiện quốc tế thuận lợi (Cách mạng khoa học kĩ thuật; Chiến tranh Triều Tiên,
Đông Dương…).
• Duy trì được tỷ lệ tích lũy vốn cao (khoảng 30 -35 %), chiến lược s
ử dụng vốn
hiệu quả: đầu tư cho khoa học kỹ thuật, các nghành kinh tế mũi nhọn, cơ sở hạ tầng,
• Truyền thống văn hóa- giáo dục phát triển cao, được kế thừa và phát huy, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc.
• Hệ thống quản lí các công ty Nhật có sức cạnh tranh cao, tập trung vào các ngành
trọng điểm.
• Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
: lựa chọn chiến lược
phát triển, nắm bắt thời cơ…
• Nhân tố con người: Có trình độ, kỉ luật, cần cù…
• Chính sách đối ngoại: Chủ trương đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu, mục tiêu lớn
nhất là đưa nước Nhật trở thành một siêu cường kinh tế. Vì vậy, Nhật Bản tiến hành
giành thị trường khắp nơi, nhất là Đông Nam Á và Đông Bắc Á.
2.1.2.3 Giai đoạn 1974-1985: Không ổn định:
Thời kỳ này có đặc trưng là tốc độ tăng GDP không ổn định và nhìn chung thấp bằng
nửa thời kỳ tăng trưởng thần kì ở giai đoạn trước.
10

Tình hình kinh tế:
• Hai cuôc khủng hoảng kinh tế 1973- 1975 và 1980- 1982 làm cho kỷ nguyên tăng

trưởng nhanh chấm dứt, nền kinh tế bị suy thoái nghiêm trọng.
• Kinh tế tăng trưởng âm trong năm 1974. Trong giai đoạn 1974-1982, tốc độ tăng
sản phẩm quốc dân hàng năm chỉ 3,7%.
• Năm 1974, Nhật Bản lâm vào siêu lạm phát, giá cả tăng 30 lần so với năm 1973
(dẫn đầu các nước TBCN).
• Sản xuất bị đình đốn, tổng sản phẩm quốc dân năm 1974 ở chỉ số âm (–1,3%). Từ
1973 – 1975, 1/3 thiết bị nhà máy phải ngừng hoạt động do thiếu năng lượng…
• Nhật phải nhập khẩu 90% nhu cầ
u năng lượng.
Giải pháp:
• Năm 1975 Chính phủ công bố hàng loạt các biện pháp phục hồi kinh tế, giải quyết
đồng thời cả lạm phát và phát triển sản xuất trên cơ sở thực hiện việc chuyển cơ cấu công
nghiệp từ phát triển các ngành cần nhiều nguyên liệu sang các ngành tốn ít nguyên liệu,
đồng thời chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của khu vực dịch vụ.
• Bảo tồn và tiết kiệm năng lượng cùng với việc tạo ra những nguồn năng lượng
mới.
• Khuyến khích tăng thị trường trong nước, nước ngoài và tăng xuất khẩu.
• Nhà nước tài trợ 61,1 tỷ yên cho chương trình nghiên cứu năng lượng “Ánh sáng
m
ặt trời”
• Nhờ vậy, nhập khẩu dầu mỏ từ 1973 đến 1984 giảm 34,2 %.
2.1.2.4 Giai đoạn 1986- 1990: Thời kỳ bong bóng kinh tế:
Thời kỳ bong bóng kinh tế của Nhật Bản kéo dài 4 năm 3 tháng, từ tháng 12
năm 1986 đến tháng 2 năm 1991. Kinh tế Nhật Bản thời kỳ này có những đặc điểm như
đồng Yên cao giá so với Dollar Mỹ, tốc độ tăng trưởng GDP thực tế cao, tỷ lệ lạm
phát cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp, giá tài sản (bất động sản lẫn tài sản tài chính) cao, tiêu
dùng mạnh.
Kinh tế:
• Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế cao, tỷ lệ lạm phát cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp.
• Đồng Yên cao giá so với Dollar Mỹ, giá tài sản (bất động sản lẫn tài sản tài chính)

cao, tiêu dùng mạnh.
Nguyên nhân: Đồng Yên lên giá sau Thỏa ước Plaza (năm 1985) gây khó khăn cho
các nhà xuất khẩu của Nhật Bản và đe dọa tăng trưởng kinh tế của nước này.
Giải pháp:Ngân hàng Nhật Bản đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng (hạ lãi suất),
nên tính thanh khoản cao quá mức hình thành.
Thành tựu:
• Nhật Bản đã tạo được những loại động cơ, các thiết bị tiêu dùng hết sức tiết kiệm
năng lượng. Ví dụ: Một chiếc máy lạnh dung tích 260 lít dùng điện mỗi tháng giảm từ
76,6 kw (1973) xuống còn 26 kw (1987). Nhờ vậy, sản phẩm vừa tiết kiệm vừa có tính
cạnh tranh cao để xuất khẩu.
11

• Bước sang thập kỉ 80, nhất là từ nửa sau những năm 80, Nhật có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, ổn định và tiếp tục khẳng định vị trí siêu cường kinh tế thứ hai thế
giới.
• Năm 1987, tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người của Nhật Bản đã vượt
Mĩ, đến năm 1988 đạt 27.000 USD (Mỹ 22.000 USD). Năm 1968 con số này bằng 30%
Mỹ, sau 20 năm bằng 120% Mỹ.
• Sản xuất công nghiệp: Nhật đứng đầu các ngành công nghiệp đóng tàu, luyện thép,
ôtô, ti vi màu, chất bán dẫn, điện tử tiêu dùng, người máy…
• Tài chính: Nhật Bản đứng “Số 1 thế giới”. Nhật có dự trữ vàng và ngoại tệ lớn
nhất thế giới, gấp 3 lần Mỹ, gấp 1,5 lần Tây Đức. Năm 1986 trong số 500 ngân hàng lớn
nhất thế giớ
i, Nhật Bản có 98 ngân hàng. Trong 20 ngân hàng đứng đầu thế giới, Nhật
Bản có 14 ngân hàng, xếp thứ tự 1-2-3-4-5 và 9-10. Tài sản ở nước ngoài của Nhật Bản
chiếm 36 % toàn thế giới (Mỹ 14%).
• Khoa học- kĩ thuật: Từ 1978 – 1988 chi cho nghiên cứu khoa học tăng 2,7 lần
chiếm 9- 10% ngân sách. Năm 1984 có 17.800 viện nghiên cứu với 32 vạn cán bộ nghiên
cứu (sau Liên Xô và Mỹ). Năm 1987 đứng đầu thế giới danh sách người được nhậ
n bằng

sáng chế nước ngoài ở Mỹ (17.288 bằng) gấp 2 Tây Đức (8.039) gấp 6 Pháp (2.990).
Hạn chế:
• Mất cân đối trong nền kinh tế (công nghiệp – nông nghiệp), tập trung ở 3 trung
tâm Tôkyô, Ôsuka, Nagôia với 60 triệu dân và 1,25 % diện tích.
• Khó khăn về năng lượng, nguyên liệu, lương thực.
• Già hóa dân số: Năm 1988 có 40,7 triệu người/123 triệu dân từ 45 tuổi trở lên.
• Chênh lệch giàu nghèo, ùn tắc giao thông.
• S
ự cạnh tranh gay gắt của Mỹ, Tây Âu, NICs.

2.1.2.5 Giai đoạn 1991-2000: Sự đổ vỡ của nền kinh tế bong bóng:
Sau khi bong bóng kinh tế vỡ đầu thập niên 1990, kinh tế Nhật Bản chuyển sang thời
kỳ trì trệ kéo dài. Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân hàng năm của giai đoạn
1991-2000 chỉ là 0,5% - thấp hơn rất nhiều so với các thời kỳ trước.
Tình hình kinh tế:
12


Thiểu phát và giảm phát trong thời kỳ trì trệ kinh tế kéo dài.
Sau thời kì kinh tế "bong bóng" 1986-1990, từ năm 1991 kinh tế Nhật Bản phát triển ì
ạch. Trong những năm 1992- 1995, tốc độ tăng trưởng hằng năm chỉ đạt 1,4%, năm 1996
là 3,2%.
Từ 1997- 1998, kinh tế Nhật bị lâm vào suy thoái nghiêm trọng nhất kể từ sau cuộc
khủng hoảng dầu lửa năm 1974 đến nay, với những biểu hiện:
Sản xuất trì trệ (kể cả những ngành công nghiệp mũi nhọn: xe hơi, điện tử, thông
tin, ) và sự phá sản dồn dập của các công ty làm cho tỉ lệ thất nghiệp đạt con số kỷ lục
trong 45 năm nay (5,5% tháng 12 năm 2002). Năm 1997, GDP thực chất - 0,7%, năm
1998 là -1,8%.
Khủng hoảng hệ thống tài chính tiền tệ, đồng Yen, chứng khoán giảm giá mạnh, nợ
xấu khó đòi tăng cao.

Tỷ lệ thâm hụt ngân sách ở mức cao nhất trong nhóm G7 (chiếm 45% GDP) và nợ
nước ngoài chiếm tới 140% GDP.
Giải pháp:
• Đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh
tế.
• Cải cách hệ thống hành chính quốc gia, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ
quan công quyền.
• Thưc hiện những biện pháp kích cầu mạnh mẽ, tập trung đầu tư vào lĩnh vực công
nghệ thông tin, tin học.
• Thúc đẩy các công ty cải cách cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành.
• Tiến hành cải cách nền giáo dục và hệ thống bảo hiểm xã h
ội.
Chính trị:
• Cho đến năm 1993, Đảng Dân chủ tự do (LDP) vẫn tiếp tục cầm quyền. Điều này
một mặt góp phần tạo sự ổn định, song mặt khác, nó cũng tạo ra “tam giác tham nhũng”:
Công ty – bộ máy quan liêu – quan chức Chính phủ. Do đó, cả cựu chủ tịch Đảng LDP
cũng phải ra hầu tòa vì tội trốn thuế.
13

• Tháng 8/1993: Chính phủ liên hiệp 7 đảng phái thành lập. Từ đây bắt đầu tình
trạng bất ổn định chính trị kéo dài ở Nhật cho đến năm 2001.
Đối ngoại:
• Nhật Bản duy trì chính sách đối ngoại kinh tế, tìm cách thâm nhập mở rộng thị
trường, đặc biệt là thị trường Châu Á – Thái Bình Dương. Dựa vào đó, tháng 8/1987, Thủ
tướng Nhật Bản là Fucuda đã đưa ra học thuyết Fucuda tại Manila với 3 n
ội dung:
• Nhật Bản cam kết không bao giờ trở thành cường quốc quân sự. Nhật Bản cố gắng
thiết lập quan hệ hợp tác thành công và hữu nghị với các nước Đông Nam Á, hợp tác với
ASEAN để tăng cường tính độc lập của các nước này và qua đó góp phần vào việc gìn
giữ hòa bình, thịnh vượng ở Đông Nam Á.

• Nhật Bản đã cố gắng tham gia nhiều h
ơn vào những hoạt động bảo vệ hòa bình và
hợp tác nhiều mặt với LHQ cũng như với các nước trên thế giới.Nhờ đó, Nhật Bản đã
nâng cao được vị trí trên trường quốc tế và đã trở thành ủy viên không thường trực Hội
đồng bảo an LHQ.
2.1.2.6 Giai đoạn 2001 – nay: Thoát khỏi suy thoái, cải tiến và phát triển kinh tế:
Kinh tế:
• Tốc độ tăng trưởng củ
a GDP những năm 2000 đến năm 2011 (dự kiến) là 2,9%;
0,2%; 0,3%; 1,4%; 2,7%; 1,9%; 2%; 2,4%; -1,2%; -6,3%; 3,9%; 1,4%.
• Tháng 3/2002 tổng mức nợ xấu là 440 tỷ USD. Số vụ phá sản hàng năm ở mức
cao làm cho nạn thất nghiệp cũng tăng theo (5,4% ở năm 2003 so với trước đây chỉ
khoảng 3%).
• Cuối 2005, nền kinh tế bắt đầu phục hồi bền vững. Tăng trưởng GDP là 2,8%, với
việc tăng quý thứ tư
hàng năm là 5,5%, vượt qua tốc độ tăng trưởng của Mỹ và Liên
minh châu Âu trong cùng thời kỳ.
• Tốc độ tăng trưởng kinh tế các năm 2003, 2004 lần lượt là 2,5% và 4,4%.
• Năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và sự sụp đổ nhu cầu trong nước
đã chứng kiến nền kinh tế co lại 1,2%. Trong năm 2008, Ngân hàng Trung ương Nhật
Bản vẫn còn có lãi suất thấp nhất trong các nước phát triển, giảm phát v
ẫn chưa được loại
bỏ, tổng nợ quốc gia cao nhất thế giới chiếm 225% của GDP đạt 10,55 nghìn tỷ USD.
• Trong năm 2010, tổng GDP tăng trưởng 3,9%, một tốc độ tăng trưởng cao nhất
trong khoảng 20 năm. Nhưng nền kinh tế của Nhật Bản đã bị gián đoạn, khi vào tháng
3/2011 do thiên tai “kép”, đó là trận động đất và ảnh hưởng của sóng thần .
Chính sách kinh tế:
• Thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ, bên cạnh thưc hiện chính sách thắt chặt tài
chính.
• Tiếp tục cải cách khu vực dịch vụ tài chính.

• Mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa, đăc biệt là thị trường Mỹ và Trung Quốc.

2.1 Hàn Quốc:
2.2.1 Tổng quan:
14


Địa lý: Hàn Quốc nằm trên Bán đảo Triều Tiên, ở phần đông bắc của lục địa châu Á,
nơi hải phận của bán đảo tiếp giáp với phần cực tây của Thái Bình Dương. Phía bắc bán
đảo tiếp giáp với Trung Quốc và Nga. Phía đông của bán đảo là Biển Đông, xa hơn nữa
là nước láng giềng Nhật Bản. Ngoài bán đảo chính còn có hơn 3.200 đảo nhỏ.
Tổng diện tích của bán đảo Triều Tiên là 222.154 km
2
.Diện tích đất canh tác là
99.617 km
2
, chiếm 45% tổng diện tích.Địa hình núi non chiếm khoảng hai phần ba diện
tích lãnh thổ, giống Thổ Nhĩ Kỳ, Hungary hoặc Ai-len.
Kinh tế:
• Kinh tế Hàn Quốc là nền kinh tế phát triển, đứng thứ 3 ở châu Á và đứng thứ 10
trên thế giới theo GDP năm 2006. Sau Chiến tranh Triều Tiên, kinh tế Hàn Quốc đã phát
triển nhanh chóng, từ một trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành một trong
những nước giầu nhất.
• Cuối thế kỷ 20, Hàn Quốc là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh
tế nhanh nh
ất trong lịch sử thế giới hiện đại.GDP (PPP) bình quân đầu người của đất
nước đã nhẩy vọt từ 100 USD vào năm 1963 lên mức kỉ lục 10.000 USD vào năm 1995
và 25.000 USD vào năm 2007. Bất chấp các ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng
kinh tế châu Á 1997, nước này đã khôi phục kinh tế rất nhanh chóng và vững chắc. Sự
phát triển thần kỳ về kinh tế của Hàn Quốc đượ

c coi như là "Huyền thoại sông Hàn".
• Hàn Quốc cũng là một nước phát triển có sự tăng trưởng kinh tế nhanh nhất, với
tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 5% mỗi năm. Một phân tích gần đây nhất
bởi Goldman Sachs năm 2007 đã chỉ ra Hàn Quốc sẽ trở thành nước giầu thứ 3 trên thế
giới vào năm 2025 với GDP bình quân đầu người là 52.000 USD và tiếp 25 năm sau nữa
sẽ vượt qua tất cả
các nước ngoại trừHoa Kỳ để trở thành nước giàu thứ hai trên thế giới,
với GDP bình quân đầu người là 81.000 USD.
15

• Năm 1996, Hàn Quốc trở thành thành viên của OECD, một mốc quan trọng trong
lịch sử phát triển của đất nước. Giống như các quốc gia phát triển khác, ngành dịch vụ đã
tăng nhanh, chiếm khoảng 70% GDP. Cùng với sự phát triển về kinh tế, đời sống của
nhân dân được nâng cao rất nhanh trở nên ngang bằng thậm chí cao hơn các quốc gia
phát triển khác ở châu Âu và các nước Bắc Mỹ. Chỉ số phát triển con người (HDI)
đạt
0,912 vào năm 2006.
• Hiện nay, thu nhập và tài sản của Hàn Quốc đang tăng một phần là do sự đầu tư và
xuất khẩu công nghệ cao sang các nước đang phát triển như Trung Quốc, Việt Nam,
và Indonesia.
• Hàn Quốc là một nước có số giờ làm việc cao nhất thế giới.

2.2.2 Các mô hình tăng trưởng kinh tế trong từng giai đoạn:
2.2.2.1Giai đoạn 1945- 1959: Giai đoạn tái kiến thiế
t đất nước:
 Thực trạng:
Do ảnh hưởng của chiến tranh Thế giới lần thứ ba, kinh tế Hàn Quốc gặp nhiều khó
khăn.
Thủ đô Seoul và nhiều thành phố khác; nhiều nhà máy, hầm mỏ, tàu thuyền, nhà cửa,
làng mạc,… bị tàn phá nặng nề.

Công nghiệp lạc hậu, thiếu cơ sở vật chất và đội ngũ lao động có tay nghề.
Diện tích đất nước nhỏ
hẹp, đất đai cằn cỗi, tài nguyên khan hiếm.
Dân số đông, nghèo đói, thất nghiệp tràn nan. Theo thống kê, có khoảng 100 nghìn trẻ
em mồ côi và 300 nghìn quả phụ chiến tranh.
Chính trị bất ổn định.
Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn, kinh tế Hàn Quốc cũng gặp một số thuận lợi.
Trong thời kì này, Mỹ lợi dụng Hàn Quốc để xây dựng lực lượng quân sự tại Đông Á nên
có nhiều chính sách viện tr
ợ và vận động các nước khác thông qua các tổ chức của Liên
hợp quốc viện trợ cho Hàn Quốc. Trong thời kì này chỉ xuất hiện hình thức viện trợ, chưa
xuất hiện hình thức đầu tư trực tiếp của Mỹ cho Hàn Quốc, do Mỹ thấy khó tìm được cơ
hội kinh doanh tại đất nước mới bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh.
Trong bối cảnh kinh tế- xã hội khó khă
n, người dân Hàn Quốc luôn có quyết tâm cao
độ trong sự nghiệp phục hưng đất nước, vượt qua sự đói nghèo, lạc hậu để phát triển.

 Các biện pháp của nhà nước và thành quả đạt được:
Công nghiệp: Chính phủ Syn Man Rhee tiếp nhận các lý thuyết phát triển công nghiệp
muộn bằng cách thay thế dần nhập khẩu để củng cố tư tưởng hướng nội và tạo tiền đề cho
mộ
t nền kinh tế công nghiệp. Hàn Quốc ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp thay thế
nhập khẩu vốn không lớn, tập trung lao động, thu hồi vốn nhanh như công nghiệp nhẹ,
hàng tiêu dùng công nghiệp nặng quy mô nhỏ (phân bón, hóa chất). Chính phủ đánh thuế
cao và hạn chế nhập khẩu để bảo vệ nền công nghiệp trong nước.
Nông nghiệp: Thúc đẩy quan hệ hàng- tiền phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp. Cải
cách ruộng đất áp dụ
ng chế độ sở hữu đất đai bình quân, mỗi địa chủ chỉ sở hữu khoảng
3ha/hộ; chế độ phát canh thu tô bị thủ tiêu; chính phủ thực hiện một số chính sách kích
16


thích tăng trưởng nông nghiệp như cơ giới hóa nông nghiệp, thành lập Ngân hàng nông
nghiệp (1956).
Một số thành quả:
• Nền kinh tế Hàn Quốc dần dần phục hồi, khởi sắc và hòa nhập vào nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa nhà nước. Trong khi đó, các nước Âu- Mỹ giai đoạn này thường phát triển
mô hình tư bản chủ nghĩa tự do. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩ
a nhà nước đề cao vai trò của
nhà nước qua các thiết chế, công cụ, biện pháp kinh tế, hành chính.
• Hàn Quốc bắt đầu phát triển kinh tế bằng mô hình kinh tế hướng nội với chiến
lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, trước hết phải đi vào truyền thống lịch sử- văn
hóa đã tiềm ẩn trong tư duy, tâm lí, tính cách, lối sống của người dân.
• Quy trình thực hiện mô hình kinh tế hướ
ng nội của Hàn Quốc có điểm tương đồng
và khác biệt so với một số nước đang phát triển khác.
9 Điểm tương đồng: thực hiện nền kinh tế hướng nội trong bối cảnh quốc tế tương
đối thuận lợi về nhiều mặt như thương mại quốc tế, nguồn vốn tài chính cho vay, chính
sách bảo hộ mậu dịch; Đồng thời, khi m
ới bắt đầu thực hiện chiến lược gặp tình trạng
thiếu vốn, kỹ thuật, công nghệ, tri thức khoa học, thu nhập bình quân đầu người thấp; lợi
thế so sánh là lực lượng lao động đông, giá rẻ.
9 Điểm khác biệt: Hàn Quốc không có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên như
Indonexia, Thái Lan, Malaixia, Braxin,… hay vị trí địa lí (thương mại, chuyển khẩu) như
Singapore. Hàn Quốc tập trung vốn cao cho công nghiệp, nông nghiệp không
được chú
trọng. Hàn Quốc có ưu thế về địa lí- chính trị trong thời kì đối đầu Đông- Tây nên được
ủng hộ tích cực của Mỹ về tài chính và nhiều lĩnh vực khác. Từ 1945- 1953, Mỹ viện trợ
về kinh tế cho Hàn Quốc tổng cộng gần 1.2 tỷ USD; từ 1953- 1962, con số này lên đến 2
tỷ USD và viện trợ cho quân sự gần 1 tỷ USD; hơn 80% hàng nhập khẩu của Hàn Quốc
được Mỹ tr

ợ giúp.
• Trong quá trình thực hiện nền kinh tế hướng nội, Hàn Quốc có một số hạn chế như
thương mại thiếu hụt, nợ nước ngoài tăng, bổ sung ngoại tệ kém, trì trệ lạc hậu do không
tiếp thu khoa học- công nghệ từ bên ngoài. Tốc độ tăng trưởng GDP của Hàn Quốc giảm
dần qua các năm: từ 7.7% năm 1957 xuống 5.2% năm 1958, 3.9% năm 1959 và 1.9%
năm 1960.
2.2.2.2 Giai đoạ
n 1960- 1980: Giai đoạn cất cánh kinh tế lần thứ nhất:
 Thực trạng:
Nền cộng hòa thứ hai của Hàn Quốc được thiết lập (tháng 8/1960), đứng đầu là tổng
thống Yun Po-Son và Thủ tướng Chang Myon thuộc đảng Dân không phải do nỗ lực của
chính đảng, không do nhân dân ủy nhiệm; chính quyền không kiên quyết trong việc thực
hiện các chính sách.
Tình hình chính trị bất ổn, nhiều cuộc nổi dậy chớp nhoáng nổ ra.
Năm 1961, chính quyền Park Chung Hee nắm quyền, thực thi nhiều chính sách giúp
kinh tế phát triền vượt bậc.

 Các biện pháp của nhà nước và kết quả đạt được:
17

Hàn Quốc dưới thời chính phủ Park chủ trương dồn toàn sức cho phát triển kinh tế;
hiện đại hóa nhanh thay thế cho quan điểm phát triển tự lực và ổn định, đồng thời tận
dụng và khai thác triệt để sự bảo trợ quân sự của Mỹ, hạn chế chi tiêu cho quốc phòng,
tích lũy cho phát triển kinh tế.
Chính phủ phát triển kinh tế hướng ngoại thay cho hướng nội, tăng lợi thế so sánh
trong môi trường kinh doanh quốc tế và sự phân công lao động quốc tế mới. Mô hình
kinh tế được xác định trong giai đoạn này là mô hình hướng ngoại với chiến lược công
nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa
vào sự khai thác thị trường thế giới và lien kết quốc tế nhằm hạn chế bế tắc về thị trường
tiêu thụ sản phẩm, thu hút đầu t

ư, tiếp thu khoa học- công nghệ của giai đoạn trước để lại.
Thành lập nhiều chaebol, công ty xuyên quốc gia TNC, công ty đa quốc gia MNC
trong quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu thụ tạo điều kiện đầu tư thuận lợi,
thiết lập các khu chế xuất để xuất khẩu nhằm tăng ngoại tệ.
Có 6 vấn đề nổi bật về sự phát triển kinh tế của Hàn Quố
c giai đoạn 1960- 1980:

• Mở rộng chức năng của nhà nước và thực hiện cải cách hành chính, trong
sạch hóa bộ máy chính phủ:
Chính phủ khẳng định sự mở rộng can thiệp của chính phủ và sử dụng công cụ kế
hoạch hóa kiểu XHCN không phương hại đến con đường phát triển tư bản chủ nghĩa và
phát triển tư bản tư nhân. Chính phủ Park thành lập Cơ quan kế ho
ạch hóa trung ương
EPB, Hội đồng kinh tế trung ương CEC và cơ quan giải quyết tranh chấp MEPM
• Thực hiện các kế hoạch kinh tế bằng các kế hoạch 5 năm: lần 1 từ 1962- 1966,
lần 2 từ 1967- 1971, lần 3 từ 1972- 1976, lần 4 từ 1977- 1981.
Các kế hoạch 5 năm chính là kế hoạch công nghiệp hóa của Hàn Quốc, hướng tới mục
tiêu chung là tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất, tăng nhanh từng bướ
c công nghiệp hóa
để ổn định kinh tế, chính trị xã hội, phát triển kinh tế gắn liền phát triển xã hội.
Các kế hoạch 5 năm đều gắn liền mô hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, khai
thác thị trường nước ngoài; khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài bằng các chính sách
cải thiện về hành chính, cơ sở hạ tầng; liên tục cải cách cơ cấu nền kinh tế và cơ cấu
ngành: vị trí các ngành khu v
ực I giảm đi trong khi tăng tỷ trọng khu vực II và III; đồng
thời giai đoạn này chính quyền Park tăng cường vay nợ nước ngoài
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1962- 1966): kế hoạch bản lề có tính chất hướng Hàn
Quốc chuyển sang chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu.
Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1967- 1971): đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp
với mô hình đầu vào-

đầu ra (input- output).
Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1972- 1976): kế hoạch nâng cấp công nghiệp thông qua
công nghiệp nặng và hóa chất; chú trọng chính sách phân định vốn quốc gia có hiệu quả
hơn là dựng lại mô hình vĩ mô.
Kế hoạch 5 năm lần 4 (1977-1981): tiếp tục phát triển các ngành đã định với các quy
định chi tiết hơn, phi tập trung hóa hơn.
• Mở rộng thu hút nước ngoài và đẩy mạnh xuất khẩu:
Hàn Quốc ít nhấ
t đã 2 lần tranh thủ nguồn đầu tư nước ngoài trong những hoàn cảnh
khác biệt. Lần thứ nhất là tranh thủ cơ sở vật chất- kỹ thuật và kinh nghiệm quản lí của
18

Nhật Bản sau 35 năm thống trị (1910- 1945); lần thứ hai là sự viện trợ của Mỹ bắt đầu từ
năm 1945, tăng nhanh và đạt hiệu quả cao từ 1970 trở đi.
Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu vay nợ từ 1959 và tăng dần qua các năm.
Hai luồng đầu tư lớn vào Hàn Quốc là Mỹ và Nhật Bản. Việc gia nhập GATT và cho
ra đời Hiệp định thể chế kinh tế
đã đánh dấu việc Hàn Quốc hội nhập với nền kinh tế toàn
cầu.
• Nâng cấp công nghiệp với sự phát triển của công nghiệp nặng và công nghiệp
hóa chất tạo nguồn hàng mới cho xuất khẩu, trong đó các chaebol đóng góp phần
quan trọng:
Giai đoạn này có thể chia công cuộc phát triển làm hai thời kì:
Từ 1968- 1976, chủ yếu chọn các ngành sản xuất sản phẩm trung gian cơ bản cung
cấp cho đầu vào của ngành khác, chủ yếu phục vụ thị trường trong nước và một phần nhỏ
cho xuất khầu: sắt thép, xi măng, phân bón, dầu lửa.
Từ 1977- 1979, đầu tư lớn cho các ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, oto, hóa
dầu, Nhân tố đóng góp lớn cho quá trình tăng trưởng là các chaebol khổng lồ như
Huyndai, Samsung, Daewon,
• Tích cực phát triển khoa học- kĩ thuật để góp phần thúc đẩy tăng trưởng

kinh t
ế đất nước:
Tích cực đưa công nghệ nước ngoài vào trong nước để đồng hóa và cải tiến, phát triển
năng lực bên trong theo phương châm “sáng tạo” hơn là “bắt chước”.
Giai đoạn đầu, Hàn Quốc chủ trương liên minh tạm thời với các công ty nước ngoài
và thực hiện các hợp đồng kiểu “chìa khóa trao tay” để từng bước khắc phục tình trạng
lạc hậu. Năm 1969, nhà nước bãi bỏ các hợp đồng trên
để phát triển thực lực.
Hàng loạt viện nghiên cứu đã xuất hiện dưới sựu tài trợ của chính phủ như Viện Khoa
học và Công nghệ, Viện nghiên cứu đóng tàu, Viện nghiên cứu công nghệ điện tử, Viện
máy móc,
• Từng bước đẩy mạnh công cuộc hiện đại hóa nông thôn:
Chính phủ thực hiện nhiều biện pháp thúc đẩy nông nghiệp, tìm cách giữ giá nông sản
thấp nhằ
m ổn định kinh tế, duy trì mức lương thấp. Tuy nhiên đường lối này không
khuyến khích nông dân sản xuất, dẫn đến thiếu hụt nông sản trong nước và xuất khẩu,
làm thiếu hụt cán cân thanh toán quốc tế, tăng khoảng cách thu nhập nông thôn- thành
thị.
Năm 1971, chính phủ phát động phong trào xây dựng làng mới, trợ cấp giá thu mua
nông sản, nâng cao giá lương thực, ưu tiên cho nông dân vay vốn, bán vật tư nông nghiệp
cho nông dân với giá rẻ.
Kinh tế Hàn Quốc đ
ã bắt đầu “cất cánh” và bước vào hàng ngũ NICs. Bên cạnh những
kết quả đã đạt được, Hàn Quốc phải đối mặt với những vấn đề sau:
Mất cân đối trong nền kinh tế giữa công nghiệp nặng- công nghiệp nhẹ, cân bằng
cung- cầu, nhu cầu lao động lành nghề- đào tạo.
Nợ nước ngoài tăng nhanh, đến năm 1979 là 20,3 tỷ USD.
Sự ưu tiên quá mức của chính phủ đố
i với các chaebol dẫn đến tình trạng độc quyền
về kinh tế và khuynh đảo về chính trị.

Do đầu tư lớn dẫn đến lạm phát ở mức 2 con số và liên tục tăng lên.
19

Nông nghiệp trong nước tăng nhưng vẫn luôn đứng ở vị trí thấp trong nền kinh tế
nông nghiệp.
Kinh tế Hàn Quốc có dấu hiệu trì trệ, xuất khẩu lần đầu tiên giảm vào năm 1972.
2.2.2.3 Giai đoạn 1980- 1993: Giai đoạn cất cánh kinh tế lần thứ hai:
 Thực trạng:
Mậu dịch, cạnh tranh quốc tế ngày càng tăng, lãi suất cho vay tăng và khủng hoảng
dầu mỏ năm 1980 gây không ít khó kh
ăn cho kinh tế Hàn Quốc.
Nhiều nước xã hội chủ nghĩa chuyển sang nền kinh tế thị trường tạo điều kiện cho
việc trao đổi và hợp tác trên phạm vi toàn cầu.
Cái chết của Park Chung Hee (10/1979) tăng thêm sự bất ổn chính trị- xã hội dẫn đến
việc giảm đầu tư và sức tiêu thụ cũng như khả năng đối phó của giới chủ đối vớ
i yêu cầu
tiền công cao.
Hàn Quốc lúc này phải lựa chọn giữa hai thái cực là hướng đến một nền dân chủ hay
quay ngược lại thời kì độc tài trong quá khứ.
Chính trị bất ổn làm kinh tế Hàn Quốc gặp khó khăn trong việc đưa ra và thực hiện
chính sách.

 Các biện pháp của nhà nước và thành quả đạt được:
Giảm tương đối sự can thiệp của chính phủ vào quá trình phát triển kinh tế
, chủ
trương nhà nước phải hoạt động trong khuôn khổ kinh tế thị trường, chú trọng “sáng kiến
cá nhân”, đề cao vai trò kinh tế tư bản tư nhân.
Các kế hoạch 5 năm gắn liền tăng trưởng kinh tế với mô hình công nghiệp hóa hướng
về xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài, liên tục cải cách kinh tế và cơ cấu ngành. Các
kế hoạch 5 năm lần 1, 2 và 3 theo đuổi mô hình tăng trưởng mấ

t cân đối. Từ kế hoạch 5
năm lần thứ 5 trở đi theo đuổi mô hình tăng trưởng cân đối, chú ý đến tăng trưởng kinh tế
tiềm năng và phát triển xã hội vì ổn định kinh tế.
Nhà nước vạch ra những chiến lược mới 3 mục tiêu kết hợp: ổn định giá cả, tăng
cường tự do hóa kinh tế, đẩy mạnh kinh tế; cải thiện phân phối, thu nhập thông qua t
ăng
trưởng kinh tế một cách cân đối, bền vững hơn.
Chính phủ khuyến khích các công ty dùng nhiều lao động, tiền lương thấp của họ ra
nước ngoài, trong nước chỉ tập trung vào các công ty dùng vốn lớn và có lao động tay
nghề cao. Quá trình này vừa thúc đẩy các chaebol vừa kéo theo các công ty vừa và nhỏ.
Chủ trương đầu tư vào cả thị trường có giá lao động cao ở các nước phát triển, tập
trung ở nhóm G7 và trên một số mặt hàng như s
ản xuất oto, điện tử, đóng tàu,
Tiếp tục công cuộc cơ giới hóa, hiện đại hóa nông thôn nhằm rút ngắn khoảng cách
giữa thành thị- nông thôn, tăng đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, chú trọng cải tạo ruộng
đất, xây dựng cơ sở hạ tầng; từng bước mở cửa thị thị trường nông nghiệp hạn chế nhập
khẩu.
Với những nỗ
lực của nhà nước và tư nhân, Hàn Quốc có những thành tựu đáng kể:
Nền kinh tế giữ tốc độ tăng trưởng GDP, GNP cao. Trong 14 năm (1977- 1991), tốc
độ tăng trưởng GNP mỗi năm là 8,1%, tăng 4,1 lần so với năm 1979.
20

Sản xuất công nghiệp có sự phát triển theo chiều sâu, tỷ trọng các ngành công nghiệp
đều tăng qua các năm. Bước vào thập niên 1990, một số ngành công nghiệp của Hàn
Quốc đã xếp hạng cao và tỷ lệ sản lượng trong thị phần thế giới khá lớn.
Về ngoại thương, Hàn Quốc trở thành nước xuất khẩu tiêu biểu trong các nước NICs
với tốc độ gia tăng xuất khẩu bình quân hằng nă
m là 30%. Xuất khẩu giữ vị trí đặc biệt
quan trọng trong đóng góp GDP, quan trọng hơn so với giai đoạn cất cánh lần thứ nhất.

Có thể cạnh tranh với nhiều nước phát triển trên thế giới về nhiều lĩnh vực như điện
tử, sản xuất oto, hóa chất, do giá thành rẻ và chất lượng sản phẩm cao. Khoa học- kỹ
thuật cũng phát triển cao thể hiện trong công ngh
ệ vi điện tử, chế tạo robot, tàu cao tốc,
hóa sinh,
Diện tích nông nghiệp và sản lượng nông sản tăng. Mặc dù vẫn phải xuất khẩu lương
thực nhưng sự tăng gấp đôi của sản lượng đã đánh giá phần nào sự phát triển của nông
nghiệp. Nông nghiệp trở thành khu vực kinh tế độc lập, phần nào chủ động trong tự túc
lương thực thực ph
ẩm và góp phần ổn định cho môi trường phát triển kinh tế.
Bên cạnh những thành tựu, Hàn Quốc cũng gặp những vấn đề sau:
Hàn Quốc không còn được Mỹ và Nhật Bản ưu đãi như trước.Sản phẩm xuất khẩu
chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ phát triển và đang phát triển.
Nền kinh tế còn phụ thuộc nước ngoài trên nhiều lĩnh vực như nguyên nhiên liệ
u và
vốn. Lạm phát cao, đạt tới 9,7% năm 1991, thâm hụt ngân sách tăng, đầu tư nước ngoài
giảm.
Nhu cầu nhập khẩu lao động từ các nước đang phát triển của Hàn Quốc tăng lên. Dân
số nông thôn giảm dẫn đến thiếu lao động trong nông nghiệp.

2.2.2.4 Giai đoạn 1993- nay: Giai đoạn phát triển:
 Thực trạng:
Đây là thời kì Hàn Quốc phục hồi, ổn định để phát triể
n.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại trừ
việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau năm
1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất
khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn
Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hố
i đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài

khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng
của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo
hiểm rủi ro.
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ
nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước
lại nợ ngân hàng nước ngoài. M
ột vài vụ vỡ nợ đã xảy ra.Khi thị trường châu Á bị khủng
hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn.
Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn
Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp
phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá.Riêng trong ngày 7 tháng
11, thị trường chứng khoán Seoul t
ụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ
IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ.
21

Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000
KRW/USD.

 Các biện pháp của chính phủ:
Để đối phó với tình trạng khủng hoảng, Hàn Quốc đã thực thi một chế độ tỷ giá hối
đoái linh hoạt và cơ chế ổn định giá cả; xóa và giảm nợ xấu, tái vốn hóa các thể chế tài
chính; đóng cửa các thể chế tài chính đổ vỡ; tăng cường giám sát và áp dụng các tiêu
chuẩ
n quản trị, kế toán mới đối với các tổ chức tín dụng và tài chính khác; đẩy mạnh
chuyên môn hóa các thể chế tài chính; tăng cường giám sát và điều tiết các tổ chức tín
dụng đồng thời với nâng cao kỷ luật thị trường. Các ngân hàng của Hàn Quốc đã áp dụng
phương thức quản trị hiện đại của phương Tây và đã giảm được tỷ lệ sở hữu gia đình tạ
i
các ngân hàng, tăng cường lợi ích cho các giám đốc bằng cách cho họ quyền chọn mua

cổ phiếu, v.v
Hàn Quốc đã hoàn thiện các thủ tục về phá sản, nỗ lực tái cơ cấu nợ của các xí
nghiệp, củng cố các quy định và tiêu chuẩn về cáo bạch, bảo vệ quyền lợi của các cổ
đông nhỏ cũng như nâng cao quyền lực và trách nhiệm của ban giám đốc, áp dụng các
tiêu chuẩn kế
toán và kiểm toán theo thông lệ quốc tế, tăng cường mức vốn tự có của
doanh nghiệp và tạo thuận lợi cho các hoạt động mua lại và sáp nhập kể cả với doanh
nghiệp trong nước cũng như với doanh nghiệp nước ngoài.
Hàn Quốc phát triển thị trường trái phiếu định danh bằng nội tệ của mình. Đồng thời,
cải cách thị trường lao động đã cho phép các xí nghiệp tuyển dụ
ng và sa thải lao động dễ
dàng hơn, giúp xí nghiệp của Hàn Quốc trở nên linh hoạt hơn.
Tháng 2-2003, Tổng thống Roh Moo Hyun công bố chính sách và mục tiêu kinh tế
mới: về lâu dài, xây dựng ổn định và thịnh vượng trên bán đảo Triều Tiên; biến Hàn
Quốc thành một trung tâm kinh doanh của khu vực Đông Bắc Á; đổi mới quản lý chính
phủ; tăng quyền lực cho chính quyền địa phương; cân bằng sự phát triển giữa các khu
vực địa lý, xây dựng hệ thống phúc lợi tập thể với việc giảm bớt khoảng cách giàu nghèo;
cải cách chế độ lao động; cải cách khu vực nông nghiệp - thủy hải sản; lấy khoa học và
kỹ thuật là trọng tâm; xây dựng thủ đô hành chính mới.
Nhờ chính sách tự do hóa và mức thu nhập đầu người tăng nên kim ngạch nhập khẩu
của Hàn Quốccũng tăng dần. Là một trong những thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới,
khối lượng nhập khẩu của Hàn Quốc đã vượt qua Trung Quốc năm 1995 và có thể so
sánh với khối lượng nhập khẩu của 3 nước Malaysia, Indonesia và Philippines cộng lại.
Năm 1998, do tỷ giá hối đoái biến động, tổng thu nhập quốc dân và thu nhập quốc dân
bình quân đầu người giảm mạnh xuống còn 340,4 tỷ đô la Mỹ và 7.335 đô la Mỹ nhưng
con số này năm 2002 đã tăng trở lại và đạt mức trước khủng hoảng kinh tế.
Trong năm 2005, giá trị thương mại Hàn Quốc đạt tới 545 tỷ đôla, đứng 12 trên thế
giới. Hàn Quốc cũng có nguồn dữ trữ ngoại tệ lớn thứ 4. Mặc dù giá dầu lửa cao, đồng
won mạnh và chi phí nguyên liệu ngày càng tăng, nền kinh tế Hàn Quốc đang tăng
trưởng ở một mức độ tốt.

Duy trì sự tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc là những ngành công nghiệp then và đã
được thế giới công nhận. Hàn Quốc là quốc gia đóng tàu lớn nhất thế giới; đối với chất
bán dẫn: đứng thứ 3 thế giới; hàng điện tử: đứng thứ 4. May mặc, sắt thép và các sản
22

phẩm hóa dầu của Hàn Quốc đứng thứ 5 nếu xét về tổng giá trị và ô tô đứng thứ 6 trên
thế giới. Ngành đóng tàu của Hàn Quốc là một ngành công nghiệp tiên phong trong 3
năm qua, chiếm 40% đơn đặt hàng đóng tàu của cả thế giới trong năm 2005.
Là một nhà sản xuất ô tô lớn, Hàn Quốc sản xuất trên ba triệu xe hàng năm.
Chiếm khoảng 11% thị phần toàn cầu, ngành sản xuất chất bán dẫn của Hàn Quốc là
một ngành công nghiệp mũi nhọn đặc biệt là khi nói tới bộ nhớ động và chíp hệ thống
(SOC).
Giá trị sản lượng nông nghiệp của Hàn Quốc đã tăng gấp đôi so với 15 năm trước.
Năm 2005, mặc dù tăng trưởng về nông nghiệp chậm lại nhưng Hàn Quốc đã đạt được
mục tiêu hàng đầu là tự cung tự cấp về gạo - nguồn lương thực chủ yếu của đất nước -
với sản lượng 4,8 triệu tấn.
Là nền kinh tế lớn thứ 10 thế giới, Hàn Quốc nổi lên như một câu chuyện thành đạt
trong nhiều lĩnh vực. Với lịch sử là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh của
thế giới, Hàn Quốc đang phấn đấu trở thành đầu mối của khối kinh tế hùng mạnh châu Á
trong thế kỷ 21.
¾ Tóm lại, sự thành công của mô hình Tăng trưởng kinh tế Hàn quốc thể hiện ở hai
mô hình chính:
Mô hình “tăng truởng dựa trên xuất khẩu”
Mô hình Chaebol ( Mô hình tập đoàn kinh tế)

2.3 Singapore:
2.3.1 Tổng quan:
Singapore có diện tích xấp xỉ đảo Phú Quốc của Việt Nam nhưng Đảo Quốc Sư Tử đã
có những bước phát triển kinh tế thần kỳ.
Năm 2005 Singapore chào đón 40 năm k

ỷ niệm ngày ra đời và trở thành một quốc gia
độc lập. Trong suốt bốn thập niên vừa qua,dân số của quốc gia nhỏ bé này, nằm ở đầu
phía nam ban đảo Malay, đã đạt ở mức 4,35 triệu dân trên một quần đảo có diện tích chưa
đến 800 km
2
. Trong khi đó nền kinh tế quốc gia dựa trên tổng sản phẩm quốc nội thực
(GDP) đã tăng lên 20 lần.Tổng sản phẩm quốc nội với mứ gá ổn định đã tăng với tỷ lệ
trung bìnsh hàng năm là 8% trong suốt giai đoạn 1965-2005. Với mức tăng trưởng dân số
2,1%. Tổng sản phẩm quốc nội tính theo bình quân đầu người tăng ở mức 5,8% trung
bình hàng năm. N
ăm 2004 Tổng thu nhập quốc dân(GNI) bổ sung vào khoản thực thu
nhập nước ngoàinTổng sản phẩm quốc nội (GDP) từ các cá nhân và các công ty nước
ngoài đang hoạt động tại Singapore là 41.819 đôla Singapore tính trên bình quân đầu
người, tương ứng 24.741 đôla Mỹ.
Trong giai đoạn 1960-2000 Singapore là quốc gia duy nhất đạt được tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế trung bình hàng năm 7-7,5%.Tăng trưởng sản lượng của Singapore luôn giữ ở
mức ổ
n định qua nhiều thập niên liên tiếp. Tỷ lệ tăng trưởng dao động không đáng kể
theo từng giai đoạn. Một phần thành công của Singapore, cũng như nhiều quốc gia khác,
xuất phát từ việc đất nước này đã tránh được những thời kì tăng trưởng chậm hoặc không
tăng trưởng. Phát triển kinh tế là hệ quả của một quá trình phát triển ổn định, chỉ bị gián
23

đoạn tạm thời bởi các cuộc suy thoái ngắn kỳ diễn ra vào các năm 1985,1988,2001. Sau
mỗi kỳ suy thoái như vậy, thì mức tăng trưởng sản lượng lại khôi phục hết sức mạnh mẽ.
Singapore hiện đang giữ một vai trò mang ý nghĩa xây dựng và liên kết quốc tế. Là
một trong những thành viên sáng lập Tổ chức các quốc gia Đông Nam Á(ASEAN), đất
nước này đang đóng vai trò then chốt có tầm ảnh hưở
ng quyết định trong khu vực, đang
ra sức vun đắp cho những mối quan hệ hòa bình của khu vực châu Á. Singapore kh ông

những tán thành mạnh mẽ quyền tự do thương mại đa phương m à c òn k ý k ết nhiều
hiệp định Tự do Th ương mại song phương(FT As) từ năm 2000.
Nền kinh tế của đất nước này cũng bị tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu
Á những năm 1997-1998 làm chậm đi bước phát triể
n, nhưng mức độ thất nghiệp và lạm
phát rất thấp.Singapore là một trong những trung tâm thương mại lớn nhất thế giới với
một hải cảng lớn và hiện đại.
Singapore tự hào là một trong những quốc gia được đánh giá là có mức độ tham
nhũng thấp.Đứng thứ 5 trong số 159 quốc gia, trên cả Hoa Kỳ.

2.3.2 Phân tích thành công mô hình tăng trưởng Singapore:
2.3.2.1 Giai đoạn 1959 – 1970:
 Thực tr
ạng
Năm 1959, người Anh đã dần nhượng bộ quyền kiểm soát phần lớn các hoạt động cai
trị thuộc địa, từng được áp đặt ở Singapore.
Từ năm 1963- 1965, Singapore là một phần lãnh thổ của Liên bang Malaysia. Chính
quyền Singapore lên tuyên bố nhậm chức để điều hành đất nước, chủ yếu là vì lý do kinh
tế.
Bất bình ngày càng leo thang đã dẫn đến cuộc bạo động chủng tộc diễ
n ra qui mô vào
năm 1964. Đặt một nền móng khởi đầu cho việc tách Singapore ra khỏi Malaysia .Đánh
dấu sự ra đời hết sức gian truân của một quốc gia.
Tuy nhiên chi phí quốc phòng xem như là điều kiện bắt buộc, cho dù mức ngân sách
thu nhập không đáng kể. Singapore phải lệ thuộc các nước bên ngoài về nguồn lương
thực, chất đốt và nguồn nước sạch.
Sự tác động vào việc tăng giá nhập khẩu hàng hóa
được cảm nhận rõ rệt. Đất nước
không hề có nguyên liệu công nghiệp và nông nghiệp. Không có thị trường nội địa rộng
lớn. Trong khi đất nước đang áp dụng chủ nghĩa dân tộc trong các vấn đề kinh tế với mô

hình “trục trọng tâm - nan hoa” – một mô hình thương mại trung chuyển truyền thống.
Nội tình đất nước luôn tiềm tàng mối đe dọa của chủ nghĩa đối lập và các liên minh
quân đội. T
ỷ lệ thất nghiệp ít nhất là 10%, vấn đề nhà ở diễn ra hết sức quan trọng.Bộ
máy chính quyền mới thành lập và ít kinh nghiệm phải đối mặt với một trọng trách to lớn
trong việc cố gắng tạo dựng một sự nhận thức đúng đắn về thế chế quốc gia đối với dòng
người nhập cư đa thành phần.Trình độ dân trí hết sức nghèo nàn.

 Các biện pháp thực hiện và thành quả đạt được.
24

Đảng nhân dân Hành động (PAP) giành thắng lợi trong cuộc bầu cử vào năm 1959 và
lãnh đạo Singapore từ đó đến nay. Ông Lý Quang Diệu trở thành vị thủ tướng đầu tiên
của đất nước.
Bộ máy quản lý then chốt nắm giữ vai trò trọng tâm của thành tựu kinh tế Singapore
như Ủy ban phát triển Kinh tế (EDB), Ủy ban phát triển chương trình nhà ở (HDB) được
thành lập ngay trong năm 1961, qua việc chuyển đổi các cơ cấu ban ngành chưa hoàn
thiệ
n chức năng hoạt động đã tồn tại từ giai đoạn thuộc địa trước đây.
Vị trí chiến lược thuận lợi và hải cảng đã mang lại hoàn cảnh phát triển mang tính
quyết định vào thời điểm năm 1965. Với vị trí địa lý giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình
Dương, nằm trên lộ trình thương mại Đông- Tây nổi tiếng trên thế giới, Singapore đ
ã trở
thành một trung tâm gia công chế biến các hàng hóa nhập khẩu như cao su, thiếc và dầu
cọ nhằm mục đích tái xuất khẩu sau này.
Là một quốc gia độc lập có chủ quyền, Singapore có thể thiết lập các chính sách riêng
để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Và đối phó nhanh với những thách thức mới và tôi luyện
ý chí.
Các chính sách tự do thương mại đã tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước trở
thành

một trung tâm buôn bán trung chuyển với qui mô hoạt đọng rất sầm uất.
Liên minh kinh tế và chính trị với với Malaysia đã làm gia tăng gấp hai lần quy mô thị
trường, tính theo Tổng sản phẩm quốc nội. Qui mô thị trường ngày càng mở rộng hơn đã
tạo điều kiện thuận lợi cho Singapore trong việc tiết giảm chi phí sản xuất ra các mặt
hàng cho đến thời điểm đó vẫn còn phả
i nhập khẩu.Bên cạnh đó còn có thêm một nguyên
nhân hỗ trợ nữa là nguồn nguyên liệu hết sức dồi dào.
Thu nhập bình quân tính trên đầu người vào năm 1965 gấp 2,5 lần so với Malaysia-
mức cao nhất đứng thứ 2 trong khu vực hiện nay.
2.3.2.2 Giai đoạn 1970 – 1990:
 Thực trạng:
Thời kỳ 1973 – 1984 nhắm đến việc tái cơ cấu lại kinh tế nhằm mục đích bắt kịp tiến
bộ
về kỹ thuật.Những trung tâm đào tạo công nghiệp được trợ cấp bởi Nhà nước.
Tỷ lệ đầu tư của Singapore đã tăng hơn gấp đôi, từ 20% Tổng thu nhập quốc dân vào
năm 1963 đến hơn 40% vào đầu thập niên 1980.
Tỷ lệ dự trữ tăng cao trong giai đoạn 1970 – 1983. Tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư
và tăng trưởng.
Từ năm 1981, Singapore đã theo chính sách tiền tệ lấy tỷ giá hối đoái làm trọng tâm.
Đến năm 1985 đầu tư quốc nội của Singapore đã vượt quá dự trữ quốc gia. Tài khoản
vãng lai của cán cân thanh toán ở mức thâm hụt ngân sách. Nguồn vốn tài chính từ nước
ngoài đổ vào đã bổ sung vào dự trữ quốc nội với mục đích tài trợ cho đầu tư quốc nội.
Nguồn vốn chả
y vào đó được thực hiện chủ yếu theo hình thức đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài của các tập đoàn đa quốc gia.
Khi tập đoàn đa quốc gia tới, tình trạng thất nghiệp nhanh chóng được giảm. Do qui
mô hoạt động đã thu hút tỷ lệ 10% nguồn lực lao động vào năm 1973.
25

Giai đoạn suy thoái 1985 – 1986, lần đầu tiên kể từ năm 1964, đã làm bùng nổ những

thay đổi chủ yếu trong nền kinh tế Singapore, một nền kinh tế hướng đến sự tăng trưởng
dựa trên chất lượng.
Nền kinh tế của đảo quốc bị tổn thương khi mức cầu giảm sút ở Hoa Kỳ, cùng những
tác động dây chuyền của nó trên toàn cầu. Tập đoàn đa quốc gia chuy
ển địa bàn hoạt
động từ Singapore sang các quốc gia có chi phí đầu tư thấp hơn trong khu vực.
Tập đoàn đa quốc gia vẫn duy trì trụ sở chính và cơ sở vật chất dành cho bộ phân
nghiên cứu và phát triển tại Singapore.
Từ vị thế là một nước thuần sử dụng vốn dự trữ từ nước ngoài, Singapore đã chuyển
sang vị thế là một nước thuần cung ứng vốn.
Khi th
ặng dư tài khoản vãng lai (MSA) và ngân hàng trung ương đã tích lũy được một
cách đáng kể nguồn dự trữ ngoại hối chính thức hàng năm.

 Các biện pháp thực hiện và thành quả đạt được:
Chính sách về tài chính, tiền tệ và tỷ giá hối đoái đã đảm bảo sự bình ổn cho nền kinh
tế vĩ mô. Lạm phát thấp và giá trị đồng đôla Singapore ổn định đem lại lòng tin cho cư
dân và nhà đầu tư nước ngoài. Chỉ tăng giá hàng tiêu dùng trung bình là 3%, giai đoạn
tăng cao đột biến là 1973 – 1974 khi chịu cuộc khủng hoảng giá dầu.
Chính phủ chuyển hướng nền công nghiệp của đất nước mình ra khỏi cung cách làm
việc theo kiểu dây chuyền lắp ráp và nâng cấp nó thành một nền công nghiệp giá trị gia
tăng. Ngân hàng và những bộ phận cung cấp dịch vụ khác được ưu tiên phát triển.Giáo
dục và công nghệ đỉnh cao trở nên ngày càng quan trọ
ng.
Trong suốt những năm 1967 – 1973, Singapore đã ủng hộ cho việc công nghiệp hóa
hướng về xuất khẩu. Tập trung vào sản xuất các sản phẩm gia công và có giá trị thấp như
dệt may, bàn ghế, sửa chữa tàu, Tiếp đó tăng vốn với sự đầu tư vào công nghệ lọc dầu
và hóa chất.
Việc gia tăng nhanh chóng nguồn vốn vật chất của Singapore cho thấy nguồn vốn bổ
sung d

ồi dào hàng năm thông qua mức thực đầu tư rất cao.
Singapore chủ trương mở cửa thị trường và hòa nhập nguồn vốn cũng như hoạt động
thương mại vào nền kinh tế toàn cầu.Chào đón FDI ngay cả khi mà nó bị từ chối ở quốc
gia khác.
FDI đạt gần 30% tổng vốn cố định gộp của Singapore trong những năm 1985 – 1989.
Năm 1985 là thời điểm then chốt. Sau hậu qu
ả suy thoái tạm thời trong năm, chính
phủ đã đưa ra một quyết định mang tính chiến lược khuyến khích mọi cư dân( cả thành
phần kinh tế Nhà nước lẫn tư nhân) tham gia đầu tư ra nước ngoài. Hạ mức thuế khuyến
khích đầu tư, đã mở ra cơ hội vàng cho việc đầu tư ra nước ngoài ở những quốc gia đang
khan hiếm vốn. Tạo ra nguồn thu nhập bổ sung dồ
i dào cho Singapore. Thặng dư tài
khoản vãng lai tăng nhanh bổ sung vào ngân sách.
Chính phủ thông qua các tổng công ty như Tập đoàn Đầu tư Nhà nước
Singapore(GIC), tiến hành đầu tư một phần thặng dư ngân sách chính phủ vào các dự án
nước ngoài.
FDI vào Singapore vẫn tăng mạnh vì nước này đã xây dựng thành công một nền khoa
học phát triển cao với nhiều tiềm năng đổi mới.

×