Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học "Một số giải pháp xây dựng văn hóa doanh nghiệp thời hội nhập " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.57 KB, 8 trang )

Một số giải pháp xây dựng văn hóa doanh nghiệp thời hội nhập
Kinh doanh là hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận. Kinh doanh có văn hóa là kinh
doanh có mục đích và phương thức đạt được cái thiện, cái lợi, cái đẹp. Kinh doanh
vô văn hóa là kinh doanh “chụp giật”, sẵn sàng chà đạp lên mọi giá trị không từ
bất cứ thủ đoạn nào.
I. Văn hóa doanh nghiệp là cơ sở quan trọng giúp doanh nghiệp hội nhập
thành công và có hiệu quả
Kinh doanh là hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận. Kinh doanh có văn hóa
là kinh doanh có mục đích và phương thức đạt được cái thiện, cái lợi, cái đẹp.
Kinh doanh vô văn hóa là kinh doanh “chụp giật”, sẵn sàng chà đạp lên mọi giá trị
không từ bất cứ thủ đoạn nào.
Mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng, được hình thành trong quá trình
dựng nước và giữ nước. Các nền văn hóa của thế giới được hình thành trên nền
tảng hoạt động kinh tế và tôn giáo. Sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc bắt
nguồn từ việc buôn bán và truyền đạo. Hoạt động kinh doanh trên khía cạnh chung
nhất xuất hiện cùng với hoạt động kinh tế và văn hóa. Văn hóa dân tộc và văn hóa
kinh doanh hòa quyện, đan xen vào nhau. Nếu văn hóa dân tộc đang trong quá
trình hội nhập thì văn hóa kinh doanh đang góp phần quan trọng vào sự hội nhập
đó. Tham gia hội nhập kinh tế là thừa nhận “tính nhiều chiều, nhiều khía cạnh của
sự phát triển”, chấp nhận cạnh tranh, trong đó cạnh tranh về văn hóa có vai trò
quan trọng. Nếu coi văn hóa là nền tảng tinh thần của dân tộc thì văn hóa kinh
doanh là cốt lõi của nền tảng đó. Một dân tộc muốn không bị “hòa tan” thì dân tộc
đó phải biết thích ứng, tự hoàn thiện để hợp tác, nắm bắt thời cơ, hội nhập kịp thời.
Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp nói riêng và cộng đồng doanh nghiệp nói chung cần
phải có ý thức tạo dựng cho mình một nền tảng văn hóa kinh doanh. Văn hóa kinh
doanh theo cách nói của người Việt là “cách ứng xử có văn hóa của doanh nghiệp”,
là “đạo lý của người kinh doanh”. Văn hóa kinh doanh không phải là “chất bôi
trơn” của giao tiếp mà văn hóa biểu hiện ở hành vi, tình cảm, tư duy của cả một
cộng đồng, một dân tộc.
Trong kinh doanh làm thế nào để chúng ta xây dựng được lợi thế cạnh tranh
của riêng mình? Làm thế nào để ta nổi bật lên so với thiên hạ? Văn hóa kinh


doanh Việt là cội nguồn, là đầu mối quan trọng để tạo nên sự khác biệt giữa doanh
nghiệp Việt và doanh nghiệp nước ngoài. Người Trung Quốc không uống cafe trên
đất nước họ, nhưng sang Việt Nam họ thích uống cafe. Người Thái không thích ăn
lẩu Thái bằng lẩu Việt Nam. Người Nhật khi đến Đồng bằng sông Cửu Long, họ
nói “nếu không nhậu với dân Nam bộ thì không hiểu được văn hóa Nam bộ”.
Việc phần lớn các doanh nghiệp trẻ chúng ta, đặc biệt là doanh nghiệp tư
nhân chưa chú ý tới xây dựng một nền văn hóa đặc thù cho doanh nghiệp mình là
một điều thật sự nguy hiểm.
II. Thực trạng văn hóa doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập
- Xây dựng văn hóa doanh nghiệp vừa là mục tiêu, vừa là động lực của hầu
hết các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, từ khi nước ta gia nhập WTO, doanh
nghiệp Việt Nam đứng trước cơ hội và thách thức lớn. Để vượt lên thử thách, đòi
hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải nhận thức rõ những điểm mạnh và điểm yếu của
mình. Trong xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt trên phạm vi toàn cầu, nhiều
doanh nghiệp Việt Nam đã tỏ rõ được bản lĩnh, trí tuệ của mình, một trong những
yếu tố tạo nên sự phát triển là văn hóa doanh nghiệp.
- Bước đầu có nhiều doanh nghiệp đã xây dựng được triết lý kinh doanh. Ví
dụ “khách hàng là thượng đế”, “thương trường là chiến trường”. Chẳng hạn Ngân
hàng ACB sau 15 năm tồn tại và phát triển đã xây dựng được nét văn hóa đặc
trưng, chính điều đó đã giúp cho doanh nghiệp vượt qua khó khăn vươn lên trở
thành ngân hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam. Nét đặc trưng đó là: ACB
xem sự sòng phẳng là phẩm chất căn bản, làm nền tảng cho mọi hoạt động liên
quan đến lợi ích. ACB coi trọng tính minh bạch trong hoạt động tài chính, ngân
hàng. Coi lợi ích người khác cũng như lợi ích của chính mình “anh được lợi, tôi
cũng được lợi”. ACB là ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam sử dụng kiểm toán độc lập.
- Ở Việt Nam, đạo đức kinh doanh đã được các doanh nghiệp quan tâm.
Mặc dầu nhận thức về đạo đức kinh doanh còn khác nhau. Văn phòng VCCI ở
Việt Nam có cuộc điều tra về đạo đức kinh doanh ở hai thành phố lớn là Hà Nội và
Hồ Chí Minh thì 55/60 người được hỏi cho rằng: “Đạo đức kinh doanh là tuân thủ
pháp luật”, 5/60 người được hỏi cho “Đạo đức kinh doanh là bảo vệ quyền lợi

khách hàng”, ít có người nào cho đạo đức kinh doanh bao gồm cả hai. Điều đó
chứng tỏ khái niệm đạo đức kinh doanh ít được quan tâm.
Hành vi phi đạo đức trong kinh doanh ở Việt Nam chưa bị pháp luật xử
phạt nghiêm khắc, chưa bị dư luận xã hội lên án mạnh mẽ. Ví dụ: Công ty Vedan
xả nước thải làm ô nhiễm môi trường nhưng chưa bị xử lý nghiêm khắc. Nước
tương Việt Nam khi xuất khẩu sang Bỉ bị phát hiện có chất 3 - MCPD gây ung thư
ở động vật và người. Sự kiện này được báo chí trong nước đưa tin, lúc đó cơ quan
chức năng mới vào cuộc.
Lợi dụng yếu kém của các cơ quan chức năng và thiếu hiểu biết của người tiêu
dùng mà một số doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam đã vi phạm
quy định về môi trường như xả thải gây ô nhiễm nguồn nước, không có thiết bị
làm sạch không khí, không có thiết bị bảo hộ lao động làm cho tai nạn lao động
ngày càng gia tăng.
III. Những bất cập của doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập
Trong quá trình hội nhập không ít doanh nghiệp Việt Nam đã trưởng thành,
trụ vững và phát triển mạnh mẽ, để đạt được điều đó, một trong những nguyên
nhân chính là doanh nghiệp đã coi trọng văn hóa kinh doanh. Tuy nhiên, nhiều
doanh nghiệp do chạy theo lợi nhuận đơn thuần coi nhẹ vai trò, động lực của văn
hóa doanh nghiệp. Trong quá trình kinh doanh đã bộc lộ những tiêu cực ảnh
hưởng đến uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
- Tầm nhìn hạn hẹp, tư duy ngắn hạn, dựa vào may rủi: Phần lớn doanh
nghiệp Việt Nam xuất thân từ nền kinh tế tiểu nông, được nuôi dưỡng quá lâu
trong môi trường kinh doanh nặng về bao cấp. Chưa quen với tự chủ, tự chịu trách
nhiệm. Vì vậy, ít có khái niệm làm ăn lớn. Thiếu khát vọng và kiên nhẫn chờ thời
cơ, tâm lý “ăn xổi”. Điều đó hạn chế sự đầu tư của các doanh nghiệp tầm cỡ thế
giới. Trong khi có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đặt mục tiêu làm ăn lâu dài tại
Việt Nam thì doanh nghiệp Việt Nam chỉ tìm kiếm lợi nhuận từ các khoản đầu tư
mang tính đầu cơ như chứng khoán, đất đai, vàng bạc, lợi dụng sơ hở trong cơ chế
chính sách của nhà nước để kiếm chác, xoay xở theo kiểu “buôn chuyến ”, “nhất

thời”.
- Thiếu tính hợp tác và liên kết cộng đồng: Trong lý thuyết kinh doanh,
cạnh tranh lành mạnh là cạnh tranh đi đôi với hợp tác, cạnh tranh đúng pháp luật.
Ở Việt Nam, đây lại là khái niệm mù mờ. Cạnh tranh theo kiểu ăn chặn , “ghen ăn
tức ở” dẫn đến triệt hạ bằng được đối thủ, làm mất khả năng kinh doanh.
- Nặng về “quan hệ”, “chạy chọt”, “dựa dẫm”: Ở Việt Nam chúng ta coi
trọng quan hệ cá nhân, xu hướng dùng quan hệ cá nhân để ứng xử trong kinh
doanh. Xây dựng lòng tin bằng quan hệ cá nhân là chủ yếu. Xem thường chữ “tín”
trong làm ăn. Một xu hướng khác là dựa dẫm vào nhà nước bằng cách “chạy chọt”,
“nhờ vả”.
- Hiếu thắng, tự cao, không chịu học hỏi: Người Trung Quốc rất chú ý học
hỏi, bắt chước kinh nghiệm của người khác. Khi cần họ có thể chịu nhường nhịn
để học hỏi. Người Nhật tôn vinh sự hài hòa trong ứng xử, “biết mình, biết người”.
Người Mỹ tôn trọng nguyên tắc trong quan hệ. Doanh nhân Việt Nam rất hiếu
thắng, chưa giàu đã tập lối ăn chơi xa xỉ, coi thường thiên hạ. Một bộ phận chủ
doanh nghiệp thiếu đức tính “căn cơ”, “cần cù” trong kinh doanh. Có một xu
hướng thích khoe khoang, hợm hĩnh bằng thứ danh hiệu rởm, đánh bóng thương
hiệu. Khi sản phẩm có thương hiệu rồi thì làm dối, làm hàng giả, hàng nhái. Từ đó
mất uy tín với khách hàng. Khách hàng quay lưng lại với doanh nghiệp.
- Ngoài những bất cập, trở ngại trên, trong văn hóa doanh nghiệp nhiều thói
quen, cung cách làm ăn cũ, lạc hậu, tuỳ tiện đang tồn tại. Doanh nghiệp chưa định
hình được phong cách làm việc chuyên nghiệp, chưa có tính sáng tạo và sẵn sàng
hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm. Sự gian dối trong kinh doanh vẫn tồn tại, không ít
doanh nhân có tư tưởng “buôn gian bán lận”, “thật thà là cha thằng dại”. Vì thế, họ
tìm cách lách luật để làm ăn. Nhiều doanh nghiệp đã bị trả giá về sự gian dối song
vẫn chưa chấm dứt.
IV. Một số giải pháp xây dựng văn hóa doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng yêu
cầu hội nhập
1. Thích ứng với tập quán kinh doanh quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải thực hiện các cam kết quốc tế. Thị

trường thế giới được điều tiết bởi luật chơi khắt khe, tiêu chuẩn rõ ràng. Ngoài
những tiêu chuẩn mang tính ràng buộc của doanh nghiệp còn phải thích ứng với
thông lệ quốc tế. Các thông lệ này như tài sản chung của loài người. Chúng cấu
thành một phần không thể thiếu của văn hóa kinh doanh. Khi hội nhập văn hóa
doanh nghiệp phải “thích ứng”. Sự “ thích ứng” này không phải dễ dàng. Nhìn
chung các doanh nghiệp Việt Nam còn rất bỡ ngỡ với các tiêu chuẩn hội nhập như:
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, an toàn vệ sinh lao động và hệ thống quản
lý môi trường. Văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp phải thấm nhuần tư tưởng
hợp tác đôi bên cùng có lợi thay vì chỉ nghĩ đến quyền lợi của bản thân mình. Làm
giàu phải được coi trọng. Người tài giỏi phải được tôn vinh. Chữ “tín” phải đưa
lên hàng đầu thay cho lối làm ăn thiển cận, chụp giật, đánh quả.
2. Nâng cao tố chất của doanh nhân Việt Nam
Doanh nghiệp như con tàu thì doanh nhân là người cầm lái con tàu đó.
Doanh nhân Việt Nam phải có dũng khí, khát khao làm giàu cho mình, cho doanh
nghiệp và cho tổ quốc. Doanh nhân Việt Nam phải có bản lĩnh, tự tin trước đối thủ
nước ngoài; Làm việc hết mình, bền bỉ theo đuổi, kiên trì chịu đựng để vượt qua
thử thách; Biết nhìn xa trông rộng, dám nghĩ dám làm. Văn hóa doanh nhân Việt
Nam thể hiện tính nguyên tắc trong đàm phán, ký kết hợp đồng, tính mềm dẻo,
lịch lãm trong giao tiếp. Muốn có được các tố chất đó cần phải rèn luyện trong thử
thách, đào tạo trong các nhà trường. Ví dụ, nguời Việt Nam có đức tính hài hước,
nếu biết sử dụng nó sẽ là món đòn lợi hại để mê hoặc đối phương - nghĩa là doanh
nghiệp Việt Nam phải biết tạo dựng giá trị cho doanh nghiệp mình. Nếu có thương
hiệu khách hàng sẽ tìm đến với doanh nghiệp mình.
3. Doanh nghiệp phải có tư duy và tầm nhìn toàn cầu
Doanh nghiệp Việt Nam phải khắc phục tư duy của người tiểu nông, nghĩ
ngắn, giản đơn, nặng về tâm lý chủ quan. Làm việc với đối tác, nhất là nước ngoài
phải có bản lĩnh, trí tuệ cao, giàu lý trí, có tính nguyên tắc chứ không thể “chín bỏ
làm mười”, “dĩ hòa vi quý”. Thiếu vốn, thiếu công nghệ có thể mua được, nhưng
thiếu tầm nhìn, thiếu bản lĩnh thì không thể mua được. Trường hợp ông Nguyễn
Xuân Vui - vua xuất khẩu lao động sang Trung Đông đã tâm sự: Làm xuất khẩu

lao động là: “Đem chuông đi đánh xứ người”. Công ty của ông thành công nhờ
phát hiện ra thị trường giàu tiềm năng. Ở Trung Đông dầu mỏ nhiều, dân rất giàu
có, họ thích làm những công việc nhẹ nhàng. Lao động Việt Nam cần cù, chịu khó,
nếu biết tổ chức xuất khẩu lao động chắc sẽ thành công.
4. Mạnh dạn đổi mới, dám làm, chấp nhận mạo hiểm, rủi ro
Dám làm, dám chịu là một tố chất cần có của doanh nghiệp Việt Nam khi
hội nhập. Từ ý tưởng sáng tạo đến hành động đổi mới, nắm bắt công nghệ và thị
trường tạo ra những sản phẩm mang tầm cỡ quốc tế là một quá trình đầy khó khăn.
Sáng tạo có nghĩa là không lặp lại người khác, tìm ra con đường mà chưa ai đi,
làm những việc chưa ai làm, dám chấp nhận rủi ro, càng rủi ro càng mạo hiểm thì
lợi ích càng lớn.
5. Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh ở Việt Nam trong thời gian qua đã được cải thiện
nhiều song vẫn còn những hạn chế nhất định. Hạn chế bắt nguồn từ thể chế chính
trị, quản lý nhà nước và bản thân doanh nghiệp, doanh nhân. Hội nhập, phát triển
cần có một môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch. Môi trường kinh
doanh ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa kinh doanh. Muốn xây dựng một văn hóa
kinh doanh đòi hỏi doanh nhân phải nêu cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp
luật. Doanh nhân Việt Nam cần sự hỗ trợ của nhà nước trong việc cải thiện môi
trường kinh doanh ngày càng phát triển, thuận lợi cho hoạt động doanh nghiệp
như: Cơ sở hạ tầng, hệ thống pháp luật, các chính sách chế độ liên quan, hệ thống
thông tin quốc gia. Nhà nước cần có chính sách, chiến lược phát triển kinh tế phù
hợp, nhất quán, đặc biệt là chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hợp lý, linh hoạt.
Chính phủ cần mở rộng quan hệ ngoại giao thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển,
tạo cơ hội cho doanh nghiệp. Nhiệm vụ quan trọng nhất của các cơ quan nhà nước
là hết lòng chăm lo doanh nghiệp, không để doanh nghiệp “đơn thương độc mã”
trong cuộc chiến. Nhà nước tăng cường kiểm tra, thanh tra việc thực thi pháp luật
của doanh nghiệp để làm sạch môi trường kinh doanh. Hệ thống pháp luật và
chính sách của nhà nước phải nhất quán, dân chủ, công khai, minh bạch, khả thi.
Đẩy mạnh cải cách hành chính để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp nhất là

doanh nghiệp nước ngoài. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp xúc, trao đổi với
doanh nghiệp nước ngoài bằng những cuộc tham quan, hội thảo, du lịch.
Tóm lại, bản sắc văn hóa đã được thấm sâu vào hoạt động kinh doanh. Quốc gia
giàu bản sắc văn hóa sẽ được biểu hiện qua hoạt động kinh doanh. Người chủ
doanh nghiệp sống có văn hóa thì doanh nghiệp của họ làm ăn sẽ có văn hóa. Việt
Nam đang trên đường hội nhập, ngoài việc nỗ lực vượt qua các thử thách trên
thương trường, cần phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, thích ứng với văn hóa thế
giới. Văn hóa doanh nghiệp vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để hội nhập kinh
tế quốc tế thành công và hiệu quả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, David H.Maister, Bản sắc văn hóa doanh nghiệp, Nxb Thống kê, H 2005, 301
trang
2, Dương Thị Liễu, Vai trò văn hóa trong phát triển kinh tế, Tạp chí Triết học, số 6,
2004, trang 55 - 60.
3, Đào Duy Quát (Chủ biên), Văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân trong
quá trình hội nhập, Nxb Chính trị Quốc gia, H 2007, 347 trang.
4, Nguyễn Hoàng Ánh, Văn hóa kinh doanh Việt Nam trên đường phát triển và hội
nhập, Tạp chí Hoạt động khoa học, Hà Nội số 3, 2005, tr 57-59

×