Ô nhiễm môi trường do chăn nuôi: Hiện trạng và giải pháp khắc phục
Việt Nam là một nước nông nghiệp với khoảng 70% số dân sống ở vùng nông
thôn. Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế - xã hội
nước ta. Những năm qua, ngành chăn nuôi phát triển khá mạnh về cả số lượng lẫn
quy mô. Tuy nhiên, việc chăn nuôi nhỏ lẻ trong nông hộ, thiếu quy hoạch, nhất là
các vùng dân cư đông đúc đã gây ra ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng. Ô
nhiễm môi trường do chăn nuôi gây nên chủ yếu từ các nguồn chất thải rắn, chất
thải lỏng, bụi, tiếng ồn, xác gia súc, gia cầm chết chôn lấp, tiêu hủy không đúng kỹ
thuật. Một kết quả kiểm tra mức độ nhiễm khuẩn trong chuồng nuôi gia súc cho
thấy, tổng số vi khuẩn trong không khí ở chuồng nuôi cao gấp 30-40
1. Đặt vấn đề
Việt Nam là một nước nông nghiệp với khoảng 70% số dân sống ở vùng nông
thôn. Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế - xã hội
nước ta. Những năm qua, ngành chăn nuôi phát triển khá mạnh về cả số lượng lẫn
quy mô. Tuy nhiên, việc chăn nuôi nhỏ lẻ trong nông hộ, thiếu quy hoạch, nhất là
các vùng dân cư đông đúc đã gây ra ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng. Ô
nhiễm môi trường do chăn nuôi gây nên chủ yếu từ các nguồn chất thải rắn, chất
thải lỏng, bụi, tiếng ồn, xác gia súc, gia cầm chết chôn lấp, tiêu hủy không đúng kỹ
thuật. Một kết quả kiểm tra mức độ nhiễm khuẩn trong chuồng nuôi gia súc cho
thấy, tổng số vi khuẩn trong không khí ở chuồng nuôi cao gấp 30-40 lần so với
không khí bên ngoài.
Đối với các cơ sở chăn nuôi, các chất thải gây ô nhiễm môi trường có ảnh
hưởng trực tiếp tới sức khỏe con người, làm giảm sức đề kháng vật nuôi, tăng tỷ lệ
mắc bệnh, các chi phí phòng trị bệnh, giảm năng suất và hiệu quả kinh tế Sức đề
kháng của gia súc, gia cầm giảm sút sẽ là nguy cơ gây nên bùng phát dịch bệnh.
Vì vậy, WHO [2005] khuyến cáo phải có các giải pháp tăng cường việc làm trong
sạch môi trường chăn nuôi, kiểm soát, xử lý chất thải, giữ vững được an toàn sinh
học, tăng cường sức khỏe các đàn giống. Các chất thải chăn nuôi gây ô nhiễm môi
trường do vi sinh vật (các mầm bệnh truyền nhiễm) là đặc biệt nguy hiểm, vì nó sẽ
làm phát sinh các loại dịch bệnh như ỉa chảy, lở mồm long móng, tai xanh, cúm
gia cầm H5N1
Theo tính toán thì lượng chất thải rắn mà các vật nuôi có thể thải ra
(kg/con/ngày) là: bò 10, trâu 15, lợn 2, gia cầm 0,2, do vậy hàng năm, đàn vật nuôi
Việt Nam thải vào môi trường khoảng 73 triệu tấn chất thải rắn (phân khô, thức ăn
thừa) và 25-30 triệu khối chất thải lỏng (phân lỏng, nước tiểu và nước rửa chuồng
trại). Trong đó, khoảng 50% lượng chất thải rắn (36,5 triệu tấn), 80% chất thải lỏng
(20-24 triệu m
3
) xả thẳng ra môi trường, hoặc sử dụng không qua xử lý sẽ gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng. Ước tính một tấn phân chuồng tươi với cách quản
lý, sử dụng như hiện nay sẽ phát thải vào không khí khoảng 0,24 tấn CO
2
quy đổi
thì với tổng khối chất thải nêu trên sẽ phát thải vào không khí 17,52 triệu tấn CO
2
.
Các nhà nghiên cứu đã ước tính được rằng chăn nuôi gây ra 18% khí gây hiệu ứng
nhà kính làm cho nhiệt độ trái đất tăng lên (biến đổi khí hậu toàn cầu), lớn hơn cả
phần do giao thông vận tải gây ra.
Các yếu tố gây ra ô nhiễm môi trường từ chất thải chăn nuôi có nhiều, nhưng
bài viết này muốn đề cập đến hai yếu tố là NH
3
và các kim loại nặng.
2. Ô nhiễm môi trường do kim loại nặng gây ra
2.1. Qui định của Nhà nước về hàm lượng kim loại nặng trong thực phẩm
Quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hàm lượng tối đa một
số nguyên tố khoáng và kim loại nặng (tính bằng mg/kg thức ăn hoàn chỉnh cho
gia súc, gia cầm - Quyết định số 104/2001/QĐ/BNN, ngày 31/10/2001) như sau:
Hàm lượng tối đa (mg/kg thức ăn)
Gà
Số
Tên nguyên tố
Nuôi thịt Đẻ trứng
Lợn Bò
1 Kẽm (Zn) 250 250 250 250
2 Đồng (Cu) 35 35 < 4 tháng tuổi:
175
> 4 tháng tuổi:
100
50
3 Mangan (Mn) 250 250 250 250
4 Thủy ngân (Hg) 0,1 0,1 0,1 0,1
5 Cadimi (Cd) 0,5 0,5 0,5 0,5
6 Asen (As) 2 2 2 2
7 Chì (Pb) 5 5 5 5
2.2. Ô nhiễm do kim loại nặng trong chất thải chăn nuôi gây ra
Ở Việt Nam hiện nay, tổng khối lượng chất thải chăn nuôi bình quân khoảng 73
triệu tấn/năm, trong đó chất thải chăn nuôi lợn chiếm khoảng 24,38 triệu tấn/năm
tương đương 33,4% (Xuân Kỳ, Xử lý ô nhiễm môi trường, phát triển bền vững
nông nghiệp, nông thôn, Báo Nhân Dân, 08/03/2009). Đồng (Cu) và kẽm (Zn) tồn
dư trong chất thải chăn nuôi là hai trong nhiều yếu tố gây ô nhiễm kim loại nặng
đối với đất. Việc bổ sung oxit kẽm (ZnO) với hàm lượng quá cao trong thức ăn
cho lợn so với quy định để phòng ngừa tiêu chảy là nguyên nhân cơ bản dẫn đến
tình trạng này.
2.3. Nguồn kim loại nặng gây ra ô nhiễm môi trường
Kim loại nặng gây ra ô nhiễm môi trường có thể do nhiều nguồn như: chất thải
công nghiệp, chất thải chăn nuôi, phân bón, các chất hóa nông Trong đó, việc
cho thêm kẽm vào thức ăn chăn nuôi công nghiệp của vật nuôi nhằm phòng bệnh
và tăng khả năng tiêu hóa cũng được xem là yếu tố gây nên sự ô nhiễm kim loại
nặng cho môi trường cần được quan tâm. Theo ông Huỳnh Thanh Hùng (Khoa
Nông học - Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh): Phần lớn người trồng
rau đều sử dụng phân chuồng (lợn, gà), trong khi các vật nuôi này được nuôi bằng
thức ăn tổng hợp. Thức ăn dạng này có nhiều khoáng đa lượng, vi lượng. Hàm
lượng kim loại nặng trong phân của vật nuôi sẽ xâm nhập vào đất trồng rau và tồn
lưu trong các nông sản, đặc biệt là đối với các loại rau ăn lá như cải ngọt, cải xanh,
xà lách.
2.4. Ô nhiễm kẽm, tác hại của ô nhiễm kẽm
Một cuộc thăm dò được tiến hành hàng năm ở Anh và xứ Wale về chất thải có
chứa kim loại nặng từ phân gia súc đã cho thấy, mức độ kim loại nặng cao nhất
thải ra vào đất nông nghiệp là kẽm (lên đến 3,3kg/ha) và đồng (lên đến 2,2 kg/ha)
tại khu vực chăn nuôi lợn ở vùng Tây Anglia và Humberside (Chambers et al.,
1999). Lượng kẽm thải ra từ phân vật nuôi gây ô nhiễm môi trường chiếm đến
35% so với các yếu tố gây ô nhiễm kim loại nặng khác.
Kim loại nặng có xu hướng tích lũy trong đất, đặc biệt ở lớp đất gần bề mặt và
gây độc hại về lâu dài. Tính độc của kim loại nặng sẽ gây nên sự sụt giảm số lượng
và sự đa dạng của vi sinh vật đất, ảnh hưởng lên vi sinh vật có lợi cho đất (vi sinh
vật cải thiện sự hô hấp của đất, phân hủy chất hữu cơ, cố định nitơ ). Kim loại nặng
gián tiếp làm giảm sự phân hủy thuốc trừ sâu và những chất hữu cơ khác do việc
tiêu diệt các loại vi khuẩn và nấm mà trong điều kiện bình thường các vi sinh vật
này sẽ phân giải các chất nguy hại đó (Burton and Turner, 2003).
Sự dư thừa Zn khi Zn tích tụ quá cao trong đất cũng gây độc đối với cây trồng, gây
ra bệnh mất diệp lục. Sự tích tụ Zn trong cây, quả nhiều cũng liên quan đến mức dư
lượng Zn trong cơ thể người và góp phần tăng sự tích tụ Zn trong môi trường (Nguyễn
Thị Ngọc Ẩn và Dương Thị Bích Huệ, 2007).
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng, nếu lượng kim loại nặng trong đất quá
cao có thể gây ra sự rối loạn hệ thống enzyme trên động vật khi được nuôi ở những
vùng đó và ăn phải các loại thức ăn được sản xuất tại đó (Burton and Turner, 2003).
Zn là vi khoáng thiết yếu cho cơ thể con người, chủ yếu tích tụ trong gan. Thận
có khả năng lọc tối đa khoảng 2g Zn/ngày. Nếu thừa Zn lớn có thể gây ung thư, ngộ
độc hệ thần kinh, ảnh hưởng lên tính nhạy cảm, sinh sản, gây độc hệ miễn dịch. Sự
thiếu hụt Zn trong cơ thể có thể gây liệt dương, teo tinh hoàn, mù màu, viêm da,
bệnh về gan và một số triệu chứng khác (Nguyễn Thị Ngọc Ẩn và Dương Thị Bích
Huệ, 2007).
3. Vấn đề thải NH
3
vào không khí của chăn nuôi
Ammoniac (NH
3
) có trong khí, trước hết là từ sự phân hủy và bốc hơi của các
chất thải vật nuôi. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp (chăn nuôi, sử dụng phân
bón) đã được xác định là các nguồn lớn thải khí NH
3
ra môi trường. Số lượng của
đàn vật nuôi đã và đang tăng đáng kể, cũng tương tự là sự phát thải của NH
3
từ phân
bón nitơ (Sutton et al. 1993). Sự gia tăng mạnh nhất gây ra bởi nhóm vật nuôi lợn
và gia cầm. Trong các hoạt động chăn nuôi, sự thải NH
3
vào môi trường trước hết là
từ chuồng trại, nuôi vỗ béo mở (hở), chế biến và dự trữ phân, sử dụng phân bón trên
đất
Nitơ được thải ra ở dạng ure (động vật có vú) hoặc axit uric (chim) và NH
3
,
nitrogen hữu cơ trong phân và nước tiểu của vật nuôi. Để biến ure hoặc axit uric
thành NH
3
cần có enzyme urease. Sự biến đổi này xảy ra rất nhanh, thường là trong ít
ngày. Biến đổi các dạng phức hợp nitrogen hữu cơ trong phân xảy ra chậm hơn (hàng
tháng hoặc hàng năm). Trong cả 2 trường hợp, nitrogen được biến đổi thành
ammonium (NH4
+
) trong điều kiện pH axit hoặc trung tính hoặc thành ammoniac
(NH
3
) trong điều kiện pH cao hơn.
NH
3
thải ra ảnh hưởng lớn tới chất lượng không khí quốc gia, khu vực và toàn
cầu. Sự tích lũy NH
3
trong không khí có thể gây ra sự phì nhiêu nước mặt, do vậy
làm cho tảo độc hại tăng trưởng nhanh và sẽ làm giảm nhiều loài thủy sinh, trong đó
có các đối tượng kinh tế. Các loài cây trồng nhạy cảm như cà chua, dưa chuột và các
loại hoa quả khi được trồng gần khu vực có NH
3
thải ra lớn sẽ bị hư hại do NH
3
lắng đọng tăng (van der Eerden et al, 1998). Sự lắng đọng NH
3
trong đất với khả
nặng đệm thấp có thể gây nên axit hóa đất hoặc rút hết các cation cơ bản. Điều đáng
quan tâm đặc biệt là NH
3
trong không khí chuồng nuôi do thường xuyên được tích
tụ trong chuồng kém thông thoáng, tăng mức NH
3
sẽ ảnh hưởng xấu (-) đối với sức
khỏe và năng suất vật nuôi. Đồng thời NH
3
có thể tác động xấu (-) lên sức khỏe con
người, dù chỉ ở mức thấp cũng có thể gây sưng phổi, sưng mắt, ảnh hưởng tới hô
hấp và tim mạch.
4. Các giải pháp để làm giảm thiểu ô nhiễm do chất thải chăn nuôi
Việc bổ sung kẽm ôxit trong thức ăn công nghiệp cho vật nuôi thường là không
thể thiếu và lượng bổ sung tùy thuộc vào từng giai đoạn. Trên thực tế, lượng kẽm
hữu dụng chỉ chiếm khoảng 5-20% trên tổng lượng kẽm bổ sung, phần còn lại (80-
95%) được thải qua phân vào môi trường (Burton and Turner, 2003).
Sự ô nhiễm Zn do chất thải chăn nuôi có thể được khắc phục tốt hơn nếu sử dụng
sản phẩm ZnO bổ sung trong thức ăn công nghiệp có tỷ lệ hữu dụng cao trong khi
vẫn đảm bảo việc phòng ngừa tiêu chảy trên lợn con. Như vậy, vấn đề ô nhiễm môi
trường đất bởi kim loại nặng sẽ được khắc phục từng bước nhờ giảm tối đa lượng
kẽm phân thải ra môi trường.
Theo ông Hoàng Kim Giao (Cục trưởng Cục chăn nuôi Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn): “Có 3 nhóm biện pháp cơ bản hạn chế ô nhiễm do chăn nuôi. (I)
Cần quy hoạch lại, đưa chăn nuôi ra xa đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp và nhất
thiết phải thực hiện quy định chăn nuôi an toàn gắn với bảo vệ môi trường. (II) Sử
dụng kỹ thuật cho vào thức ăn và chất thải chăn nuôi các men, các chế phẩm sinh
học nhằm hạn chế khí độc hại và vi sinh vật có hại. (III) Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật
thân thiện với môi trường. Tùy điều kiện cụ thể từng nơi để lựa chọn một trong 3
quy trình xử lý chất thải như: bể lắng - hầm biogas - ao sinh học, hầm biogas - ao
sinh học và hầm biogas - thùng sục khí - ao sinh học; trong đó trọng tâm là chăn
nuôi theo mô hình VAC và sử dụng hầm biogas”.
4.1.Quy hoạch, xây dựng chuồng, trại
Lựa chọn vị trí xây dựng chuồng trại, diện tích chuồng nuôi, mật độ và bố trí, sắp
xếp các dãy chuồng nuôi, xây dựng công trình xử lý chất thải, vệ sinh chuồng trại
Xung quanh khu vực chăn nuôi tiến hành trồng cây xanh như: nhãn, vải, keo dậu,
muồng để tạo bóng mát và chắn được gió lạnh, gió nóng. Ngoài ra, cây xanh còn
quang hợp hút khí CO
2
và thải khí O
2
rất tốt cho môi trường chăn nuôi.
4.2. Xây dựng hệ thống hầm biogas
Hai biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường được đánh giá có nhiều ưu điểm, là sử
dụng công nghệ khí sinh học (biogas) và sử dụng chế phẩm sinh học EM. Việc xây
dựng các hầm biogas để xử lý chất thải từ chăn nuôi là một biện pháp mang lại tác
dụng lớn. Nguồn phân thải sau khi đưa vào bể chứa được phân hủy hết, giảm mùi
hôi, ruồi nhặng và tiêu diệt kí sinh trùng hầu như bị. Bên cạnh đó, sử dụng hầm
biogas còn có thể tái tạo được nguồn năng lượng sạch từ phế thải chăn nuôi, tạo ra
khí CH
4
phục vụ việc đun nấu, thắp sáng.
4.3. Ủ phân bằng phương pháp sinh học cùng với việc che phủ kín
Phân chuồng sau khi được lấy ra khỏi chuồng nuôi cần đánh thành đống. Trong
quá trình đánh đống, phân được rải từng lớp một (mỗi lớp khoảng 20cm) rồi rải
thêm một ít (một lớp mỏng) tro bếp hoặc vôi bột, cứ làm như vậy cho đến hết lượng
phân có được. Sau cùng, sử dụng bùn ao hoặc nhào đất mịn với nước tạo thành bùn
để trát kín, đều lên toàn bộ bề mặt của đống phân. Cũng có thể sử dụng các tấm
(nilon, bạt ) phủ kín đống phân để giảm thiểu các loại khí sinh ra (CO
2
, NH
3
,
CH
4
) thoát ra môi trường. Đồng thời, trong quá trình ủ đống phân sẽ có hiện tượng
sinh nhiệt, do vậy các mầm bệnh (trứng, ấu trùng, vi khuẩn, nấm ) sẽ bị tiêu diệt,
hạn chế phát tán, lây lan các mầm bệnh.
4.4. Xử lý nước thải bằng cây thủy sinh
Nước thải từ các trại chăn nuôi chứa rất nhiều nitrogen, phosphorus và những
hợp chất vô cơ có thể hòa tan được. Rất khó tách những chất thải này khỏi nước
bằng cách quét rửa hay lọc thông thường. Tuy nhiên một số loại cây thủy sinh như
bèo lục bình, cỏ muỗi nước có thể xử lý nước thải, vừa ít tốn kinh phí lại thân thiện
với môi trường. Cây muỗi nước (còn gọi cây cần tây nước), cây bèo lục bình (bèo
Nhật Bản) là các loại bản địa của vùng Đông Nam Á, thân và lá có thể ăn sống hoặc
ăn chín như một loại rau. Nó sinh sản theo cách phân chia rễ và sinh trưởng tốt
trong môi trường nước nông cho tới 20cm. Cây bèo lục bình (bèo Nhật Bản) có
nguồn gốc Nam Mỹ, sinh trưởng và phát triển nhanh, khỏe và nổi trên mặt nước.
Nước thải từ các chuồng gia súc trước tiên cho chảy vào bể lắng, để chất thải rắn
lắng xuống đáy. Sau vài ngày cho nước thải trong bể lắng chảy vào bể mở có bèo
lục bình hoặc cỏ muỗi nước. Mặt nước trong bể được cây che phủ (mật độ khoảng
400 cây/bể). Nếu là bèo lục bình, bể có thể làm sâu tùy ý, đối với cỏ muỗi nước thì
để nước nông một chút, độ sâu bể xử lý khoảng 30cm. Cỏ muỗi nước cần thời tiết
mát mẻ, còn bèo lục bình phù hợp với thời tiết ấm. Kích cỡ của bể tùy thuộc vào
lượng nước thải cần được xử lý. Ví dụ, chất thải của 10 con gia súc vào khoảng 456
lít, sẽ cần bể mỗi cạnh 6m, sâu 0,5m. Bể phải có tổng khối lượng 18m
3
và diện tích
bề mặt 36m
2
. Bể có thể chứa nước thải chuồng nuôi khoảng 30 ngày. Nước thải
được giữ trong bể xử lý 10 ngày. Trong thời gian này, lượng phospho trong nước
giảm khoảng 57-58%, trong khi 44% lượng nitơ được loại bỏ BOD
5
(là phương
pháp xác định mức độ vật chất hữu cơ trong nước). Trong thời gian giảm xử lý 10
ngày, BOD
5
giảm khoảng 80-90%. Những biện pháp xử lý nước thải theo cách này
đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu. Nước thải ra sông hồ, suối một cách an toàn mà không
cần xử lý thêm. Ngoài ra, các cây thủy sinh này có thể thu hoạch và dùng làm phân
hữu cơ. Bản thân chúng có thể trực tiếp làm phân xanh hoặc phân trộn.
4.5. Sử dụng Zeolit,dung dịch điện hoạt hóa Anolit, các chế phẩm sinh học
(EM)
- Zeolit là loại vật liệu không gây độc đối với người và vật nuôi có ứng dụng hiệu
quả trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, nông nghiệp, chăn nuôi, bảo vệ môi trường
được nghiên cứu và sản xuất thành công bởi các chuyên gia bộ môn Hóa hữu cơ,
Khoa Công nghệ Hóa học, Đại học Bách khoa Hà Nội. Zeolit được sản xuất dưới
dạng bột hoặc dạng viên xốp từ cao lanh tự nhiên sẵn có ở Việt Nam. Nhờ cấu trúc
của cao lanh bị phá vỡ hoàn toàn và tự chúng sắp xếp lại tạo thành lỗ rỗng, nên nó
có khả năng hấp phụ các ion kim loại, amoni, chất hữu cơ độc hại lơ lửng trong
nước và tự chìm xuống đáy. Khi cải tạo ao, đầm, người sản xuất có thể khai thác
chúng để tái chế làm phân bón phục vụ cho việc trồng trọt. Ngoài ra, người ta còn
có thể dùng loại sản phẩm này trộn lẫn với phân bón để tạo ra một loại phân bón
phân hủy chậm, vừa có tác dụng tiết kiệm lượng phân bón, giữ độ ẩm mà còn có tác
dụng điều hòa độ pH cho đất. Chế phẩm zeolite làm phụ gia thức ăn cho lợn và gà
vì khi được trộn vào thức ăn chế phẩm sẽ hấp thụ các chất độc trong cơ thể vật nuôi,
tăng khả năng kháng bệnh, kích thích tiêu hóa và tăng trưởng.
- Sử dụng dung dịch điện hoạt hóa Anôlit: Viện Công nghệ Môi trường phối hợp
với Trung tâm Chẩn đoán Thú y Trung ương, Cục Thú y, Trung tâm kiểm tra vệ
sinh Thú y TW1, Viện Chăn nuôi quốc gia đã nghiên cứu và khảo nghiệm thành
công khả năng sử dụng dung dịch hoạt hóa điện hóa Anôlit làm chất khử trùng trong
chăn nuôi. Dung dịch hoạt hóa điện hóa Anôlit đã được áp dụng tại nhiều nước tiên
tiến như một chất khử trùng hiệu quả cao và "thân thiện với môi trường". Dung dịch
này có khả năng khử trùng nước sinh hoạt, bảo quản nông sản, chế biến thủy sản,
sản xuất tôm giống, khử trùng trong các cơ sở y tế, chăn nuôi Ngoài ra, dung dịch
hoạt hóa điện hóa Anôlit có tác dụng diệt virus H5N1 an toàn, không gây độc đối
với sinh vật cấp cao, có thể được sử dụng làm dung dịch phun tiêu độc cho các cơ
sở chăn nuôi. Các kết quả nghiên cứu hiệu quả khử trùng của Anôlit trên hiện
trường sản xuất, chăn nuôi gia cầm (tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy
Phương) cũng đã cho nhận xét: Phương pháp khử trùng nền chuồng bằng Anôlit, có
thể áp dụng có hiệu quả đối với chuồng nuôi vừa xuất lứa hoặc đang chuẩn bị đưa
vào nuôi lứa mới. Với Anôlit 250ml/m
2
, mật độ tổng vi khuẩn hiếu khí giảm trung
bình 2-3 bậc, trong khi Coliforms và Salmonella thực tế được loại hoàn toàn. Các
thí nghiệm tương tự thực hiện với chất khử trùng Virkon-S 0,5% cũng cho kết quả
tương tự như khi khử trùng bằng Anôlit, song giá thành đắt hơn tới 6 lần so với việc
sử dụng Anôlit.
- Sử dụng chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu EM trong chăn nuôi sẽ làm cho chất thải
nhanh phân hủy, khử mùi tốt và giảm quần thể côn trùng ruồi muỗi, giảm nguy cơ
lây lan dịch bệnh. Cho gia súc, gia cầm uống hoặc ăn thức ăn thô có trộn chế phẩm
EM còn giảm được nguy cơ mắc bệnh đường ruột.
4.6. Chăn nuôi trên nền đệm lót sinh thái
Trong vài năm gần đây, một số nước cũng như ở Việt Nam đang phát triển một
hình thức chăn nuôi mới, đó là chăn nuôi trên nền chuồng đệm lót với các vi sinh
vật có ích. Hình thức chăn nuôi này còn được gọi là chăn nuôi với đệm lót sinh thái
hay chăn nuôi đệm lót lên men. Thay vì nuôi các vật nuôi trên nền xi măng hoặc
gạch cứng, người ta đã nuôi các con vật nền chuồng bằng đất nện, sâu hơn mặt đất
(-, âm), trên nền chuồng rải một lớp đệm lót dày 60cm và trên bề mặt đệm lót có
phun một dung dịch men (hỗn hợp các vi sinh vật có ích). Đệm lót thường là các
nguyên liệu thực vật như mùn cưa, trấu, thân cây ngô và lõi bắp ngô khô nghiền
nhỏ Bình thường, đệm lót sinh thái có thể sử dụng được trong 4 năm. Ngoài ra,
trong quá trình hoạt động trong chuồng nuôi đệm lót sinh thái, vật nuôi có thể ăn
men vi sinh vật có trong đệm lót sẽ giúp tiêu hóa thức ăn tốt hơn, làm tăng khả năng
hấp thu axit amin, qua đó tăng độ mềm, vị ngọt tự nhiên cho thịt so với sản phẩm
làm ra từ chăn nuôi thông thường, đồng thời người chăn nuôi có thể tiết kiệm được
80% nước, 60% nhân lực, 10% chi phí thức ăn, thuốc thú y phòng trừ dịch bệnh.
Đặc biệt, trong đệm lót chứa các vi sinh vật có lợi nên sẽ rất hiệu quả trong việc
phòng chống các bệnh dịch có hại như lở mồm long móng, tai xanh, cúm
4.7. Điều chỉnh thành phần trong khẩu phần ăn
Một nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm 3 công thức phối trộn. Với các kết quả thu
được quả thử nghiệm, họ đã chọn bài thuốc (ký hiệu là CP2) cho hiệu quả tốt nhất
có thành phần như sau: mạch nha (25%), sơn trà (15%), thần khúc (20%), sử quân
(5%), xa tiền (5%), ngưu tất (30%). Sử dụng chế phẩm CP2 với liều lượng 1.000g
CP2/1 tấn thức ăn hỗn hợp cho nuôi lợn thịt sẽ cho khối lượng tăng trọng/ngày cao
hơn đối chứng là 4,42%, tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng thấp hơn 9,58%, chi phí thức
ăn/kg tăng trọng giảm 7,89%. Đối với chăn nuôi lợn nái nuôi con, sử dụng CP2 với
liều lượng như trên cho kết quả: góp phần làm giảm đáng kể mùi hôi của chuồng
nuôi; ở chuồng nuôi lợn thịt, hàm lượng NH
3
giảm 41,30% và hàm lượng H
2
S giảm
44,44% so với lô đối chứng; ở chuồng nuôi lợn nái sinh sản, NH
3
giảm 45,26%, H
2
S
giảm 43,90% so với lô đối chứng./.
Tài liệu tham khảo
1. Hồ Kim Hoa, Lê Thanh Hiền, Trần Thị Dân, 2005, Tình hình quản lý chất
thải chăn nuôi ở một số huyện ở TP Hồ Chí Minh và ba tỉnh lân cận, Tạp chí
Chăn nuôi số 1-2005.
2. Cục Chăn nuôi 2006, Báo cáo tổng kết chăn nuôi trang trại tập trung giai
đoạn 2001-2006, định hướng và giải pháp phát triển giai đoạn 2000-2015.
3. Tiêu chuẩn ngành 10 TCN 679-2006, Tiêu chuẩn vệ sinh không khí chuồng
nuôi. Tiêu chuẩn, quy định ngành thú y (Vệ sinh thú y và vệ sinh an toàn thực
phẩm), Nxb Nông nghiệp, 2007.
4. Tiêu chuẩn ngành 10 TCN 6678-2006, Tiêu chuẩn vệ sinh nước thải trong
chăn nuôi. Tiêu chuẩn, quy trình ngành thú y (vệ sinh thú y và vệ sinh an toàn
thực phẩm), Nxb Nông nghiệp, 2007.
5. Battye, R., W. Battye, C. Overcash, and S. Fudge. 1994, Development and
Selection of Ammonia Emission Factors. EPA/600/R-94/190. Final report
prepared for U.S.
6. Becker, J.G., and R.E. Graves. 2004. Ammonia emissions and animal
agriculture. In Proceedings Mid-Atlantic Agricultural Ammonia Forum.
Woodstock, Va. March 16.
7. Meisinger, J.J., and W.E. Jokela. 2000. Ammonia losses from manure.
Proceedings 62
nd
Cornell Nutrition Conference for Feed Manufacturers, 109-
116. Ithaca, N.Y.
8. Van der Eerden, L.J.M., P.H.B. de Visser, and C.J. Van Dijk. 1998. Risk of
damage to crops in the direct neighbourhood of ammonia sources.
Environmental Pollution 102(S1): 49-53.
9. WHO, 2005. Avian influenza: assessing the pandemic threat, 64 pages.
■ PGS.TS. Nguyễn Kim Đường