Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học " THỤ LÝ VỤ ÁN KINH TẾ NHỮNG BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.49 KB, 8 trang )


49
THỤ LÝ VỤ ÁN KINH TẾ
NHỮNG BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
Đoàn
Đức Lương
Trường Đại học khoa
học, Đại học Huế

Việc giải quyết các vụ án kinh tế, dân sự, hành chính, lao động nói chung
và vụ án kinh tế nói riêng phải tuân theo những trình tự, thủ tục nhất định. Giải
quyết vụ án kinh tế tại Tòa án trên cơ sở Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế năm 1996, theo đó việc khởi kiện và thụ lý vụ án được quy định từ Điều
31 đến Điều 33. Thụ lý vụ án kinh tế có ý nghĩa quan trọng vì nó đặt trách nhiệm
của Tòa án phải giải quyết vụ án trong thời hạn nhất định kể từ thời điểm thụ lý
vụ án; đồng thời kể từ thời điểm này Tòa án mới tiến hành các hoạt động tố tụng
để giải quyết vụ án. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về
thụ lý vụ án kinh tế còn gặp nhiều vướng mắc do pháp luật thiếu thống nhất,
thiếu cụ thể. Vì vậy, trong bài viết này chúng tôi phân tích các quy định của pháp
luật về những bất cập của thụ lý vụ án kinh tế và đưa ra nhưng giải pháp trong
quá trình xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự.
1. Pháp luật hiện hành về thụ lý vụ án kinh tế.
Theo quy định tại Điều 1 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế năm 1994 thì cá nhân, pháp nhân theo thủ tục do pháp luật quy định có quyền
khởi kiện vụ án kinh tế để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

50
mình. Quyền khởi kiện vụ án kinh tế là cơ sở pháp lý đầu tiên để các chủ thể
tham gia vào quan hệ tố tụng, thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự. Tuy
nhiên, không phải bất kỳ chủ thể nào khởi kiện vụ án kinh tế Tòa án cũng thụ lý
giải quyết, việc giải quyết của Tòa án khi đảm bảo các điều kiện sau:


Thứ nhất , chủ thể khởi kiện phải có tư cách pháp lý. Đối với cá nhân thực
hiện quyền khởi kiện bằng việc trực tiếp ký vào đơn khởi kiện hoặc thông qua
người đại diện theo ủy quyền. Đối với năng lực hành vi tố tụng của cá nhân trong
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 quy định cụ thể, việc
khởi kiện vụ án kinh tế thì những chủ thể kinh doanh luôn luôn phải đảm bảo
năng lực hành vi đầy đủ mới được tiến hành các hoạt động kinh doanh nên trong
Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế không đề cập đến năng lực hành vi tố
tụng. Đối với pháp nhân thực hiện quyền khởi kiện thông qua người đại diện
bằng văn bản. Trong tố tụng dân sự thì Viện kiểm sát có quyền khởi tố, tổ chức
xã hội có quyền khởi kiện vì lợi ích chung trong những trường hợp nhất định liên
quan đến người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự Trong tố
tụng kinh tế pháp luật không quy định quyền khởi tố của Viện kiểm sát, quyền
khởi kiện của tổ chức xã hội vì công việc kinh doanh là vấn đề riêng tư của các
chủ thể, các cá nhân hoặc pháp nhân có đủ khả năng cân nhắc có nên khởi kiện
tại Tòa án hay lựa chọn những phương thức giải quyết khác phù hợp hơn.
Thứ hai, việc khởi kiện vụ án kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án nhân dân. Việc xác định vụ án có phải là vụ án kinh tế và thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân hay không thông qua việc nghiên cứu đơn khởi
kiện, các tài liệu do nguyên đơn cung cấp và đối chiếu với Điều 12 của Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994:
- Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa
pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.

51
- Các tranh chấp giữa các thành viên trong công ty với nhau và các thành
viên công ty với công ty liên quan đến quá trình thành lập, hoạt động và giải thể
công ty.
- Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
Khi đã xác định vụ án kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân cũng cần lưu ý các bên có thỏa thuận trọng tài hay không. Theo Điều 1,

Điều 3 và Điều 5 của Pháp lệnh trọng tài Thương mại năm 2003 và Nghị quyết
05/2003/NĐ - HĐTP Tòa án nhân dân tối cao thì trọng tài thương mại có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh tronh hoạt động thương mại nếu trước
hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, cũng
có trường hợp thỏa thuận trọng tài nhưng thỏa thuận bị vô hiệu theo Điều 10 của
Pháp lệnh trọng tài thương mại, có quyết định của Tòa án hủy quyết định của
trọng tài (nếu các bên không có thỏa thuận khác thì Tòa án vẫn thụ lý giải quyết).
Thứ ba. thủ tục khởi kiện chỉ được khởi kiện đối với những việc còn thời
hiệu khởi kiện. Việc xác định thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp kinh tế
có ý nghĩa quan trọng để Tòa án thụ lý giải quyết hay không. Thời hiệu khởi kiện
vụ án kinh tế là 06 tháng kể từ ngày phát sinh tranh chấp, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác. Ngoài ra trong một số trường hợp luật chuyên ngành có
quy định thời hiệu khởi kiện riêng " thời hiệu tố tụng áp dụng cho tất cả các hành
vi thương mại là 02 năm kể từ thời điểm phát sinh quyền khiếu nại" (Điêu 242
của Luật Thương mại).
Thứ tư, chủ thể khởi kiện chỉ được khởi kiện những việc trước đó Tòa án
chưa giải quyết bằng bản án hay quyết định có hiệu lực của Tòa án hay của cơ
quan có thẩm quyền khác.

52
Việc giải quyết các tranh chấp kinh tế thường thông qua các hình thức
thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc Tòa án. Trong trường hợp vụ án kinh tế đã
được gải quyết bằng quyết định, bản án của Tòa án hoặc quyết định trọng tài đã
có hiệu lực pháp luật thì Tòa án không thụ lý giải quyết nữa mà trả lại đơn cho
đương sự theo khoản 03 Điều 32 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế.
Sau khi nghiên cứu đơn kiện và các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp
thấy đủ các điều kiện nêu trên và vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp mình
thì thông báo ngay cho nguyên đơn biết. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận
được thông báo nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp

luật và Tòa án vào sổ thụ lý vụ án kể từ ngày nguyên đơn xuất trình chứng cứ về
việc nộp tiền tạm ứng án phí.
2. Những bất cập của pháp luật về thụ lý vụ án kinh tế và giải pháp.
Điều 33 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định " Nếu
Tòa án xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình thì phải thông báo ngay cho
nguyên đơn biết". Thời gian từ khi Tòa án nhận đơn khởi kiện đến khi thông báo
cho nguyên đơn biết được xác định là bao nhiêu được hiểu một cách trừu tượng
"thông báo ngay" nên dẫn đến việc kéo dài việc xem xét đơn khởi kiện và thụ lý
vụ án. Theo pháp luật hiện hành thì thụ lý vụ án kinh tế, dân sự, lao động được
quy định trong ba pháp lệnh khác nhau. Theo Điều 37 của Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự thì trong thời hạn một tháng hoặc tối đa là hai tháng kể từ
ngày Tòa án nhận đơn, đương sự phải nộp tạm ứng án phí thì Tòa án không thụ
lý vụ án. Việc thụ lý vụ án lao động theo Điều 35 của Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các tranh chấp lao động năm 1996 thì thời hạn bảy ngày kể từ ngày nộp
đơn nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí. Như vậy, thời hạn và thời điểm
tiến hành thủ tục thụ lý vụ án không thống nhất mà không thể lý giải được các

53
quy định này dựa trên cơ sở khoa học nào. Đối với vụ án kinh tế thời hạn nộp
tạm ứng án phí là một hoặc hai tháng kể từ ngày nhận đơn. Theo chúng tôi khi
xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự nên quy định về thụ lý vụ án kinh tế, lao động,
dân sự thống nhất về thời điểm: người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí
trong thời hạn hai mươi ngày kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc
nộp tiền tạm ứng án phí.
Trong trường hợp không đủ điều kiện thụ lý thì Tòa án trả lại đơn kiện
cho người khởi kiện. Điều 32 của Pháp lệnh quy định việc trả lại đơn kiện:
Người khởi kiện không có quyền khởi kiện, thời hiệu khởi kiện đã hết, sự việc đã
được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.Khi trả lại đơn kiện thẩm phán có phải ra một
quyết định về việc trả lại đơn kiện hay không. Pháp luật hiện hành mới chỉ quy

định những căn cứ mà chưa quy định trình tự thủ tục trả lại đơn kiện. Trong thực
tế nhiều trường hợp do nhận thức khác nhau về điều kiện thụ lý (như Tòa án cho
rằng đã hết thời hiệu khởi kiện, người khởi kiện lại chứng minh rằng còn thời
hiệu khởi kiện và việc trả lại đơn kiện không có cơ sở), người khởi kiện không
thể khiếu nại việc không thụ lý của Tòa án vì không có văn bản. Vấn đề này hiện
nay có ý kiến cho rằng Tòa án phải ra quyết định thụ lý vụ án hoặc quyết định
không thụ lý vụ án và trả lại đơn kiện. Trong trường hợp này người khởi kiện có
quyền khiếu nại quyết định không thụ lý của Tòa án. Theo chúng tôi để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện thì Tòa án khi trả lại đơn khởi
kiện không qua văn bản trả lại đơn kiện (chẳng hạn thông báo về việc trả lại đơn
kiện) trong đó có nêu rõ lý do. Trong trường hợp người khởi kiện không thống
nhất với văn bản trả lại đơn khởi kiện do thẩm phán ký có quyền khiếu nại với
chánh án Tòa án có thẩm quyền. Nếu theo quan điểm thẩm phán ra quyết định
không thụ lý vụ án kinh tế là chưa phù hợp vì từ thời điểm thụ lý vụ án mới xác
định trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết vụ án và ra các quyết định theo
pháp luật tố tụng, thẩm phán không thể ra các quyết định trước khi thụ lý vụ án.

54
Trong các quy định của pháp luật phải xác định rõ thời gian mà không nên
quy định chung chung "thông báo ngay" dẫn đến việc áp dụng không thống nhất.
Trên thực tế có những vụ án thời hạn một tuần kể từ ngày nộp đơn đã có thông
báo nộp tạm ứng án phí, ngược lại có những vụ án nguyên đơn nộp đơn một vài
tháng mà không được thông báo. Do vậy, đối với các vụ án dân sự, kinh tế, lao
động nói chung và án kinh tế nói riêng liên quan đến lợi ích của các chủ thể nên
cần xác định thời gian xem xét đơn khởi kiện cụ thể. Hiện nay trong dự thảo Bộ
luật tố tụng dân sự (lần thứ 11) tại Điều 172 vẫn giữ nguyên quy định của các
pháp lệnh là "Tòa án thông báo ngay cho người khởi kiện" là chưa hợp lý. Đối
với quy định này theo chúng tôi có thể quy định theo hướng: Trong thời hạn 20
ngày kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện Tòa án phải thông báo cho người khởi
kiện biết để làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các văn bản pháp luật về tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, hành
chính và thi hành án, nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội (2001).
2. Phạm Thanh Phấn, Nguyễn Huy Anh. Những nội dung cơ bản trong
Luật Thương mại nước CHXHCN Việt Nam, nxb Đồng Nai (1997).
3. Phan Hữu Thư. Xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự. Những vấn đề lý
luận và thực tiễn. NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội (2001).
4. Ủy ban thường vụ Quốc hội. Pháp lệnh trọng tài thương mại năm
(2003).
TÓM TẮT
Thụ lý vụ án kinh tế là công việc dầu tiên của Tòa án, là bước mở đầu của
quá trình tố tụng. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành về thụ lý vụ

55
án kinh tế còn khái quát, nhiều điểm bất hợp lý. Trong bài viết này chúng tôi
phân tích các quy định của pháp luật, những bất cập và đưa ra những giải pháp
về thụ lý vụ án kinh tế trong quá trình xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự.


56
THE ENROLMENT OF ECONOMIC CASE - THE DRAWBACKS
AND SOLUTIONS TO PERFECT
Doan
Duc Luong
College of Sciences, Hue
University
SUMMARY
The enrolment of economic case is first activity of the Court and it is also
the first step of legal procedure.The legal provisions of the enrolment of
economic case, however, are quite general and some of them are irritional. In

this writing, we would like to analyse the current legal provisions, their
drawbacks and propose the solutions to perfect them in the process of building
the Vietnamese Civil Procedure Code.

×