Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận môn kinh tế chính trị mác leenin phân tích lý luận tiền tệ dưới góc độ kinh tế chính trị mác lê nin, vận dụng lý luận này vào chính sách tiền tệ của việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.32 KB, 30 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN

Đề tài :

Phân tích lý luận tiền tệ dưới góc độ kinh tế chính trị Mác Lê Nin, vận dụng lý luận này vào chính sách tiền tệ của
Việt Nam hiện nay.


MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ.......................................................................................................1
II. NỘI DUNG..........................................................................................................2
2.1 Lý luận tiền tệ dưới góc độ kinh tế chính trị Mác Lê Nin...................................2
2.2 Chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay........................................................12
2.3 Đề xuất giải pháp trong chính sách tiền tệ của Việt Nam.................................24
III. KẾT LUẬN......................................................................................................26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................27

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
NHNN
TCTD
NHTMCP

Nhà nước Việt Nam
Tổ chức tín dụng
Ngân hàng thương mại cổ phần


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa chính là tiền
tệ. Trong sự phát triển của nền kinh tế của các nước trên thế giới. Vấn đề tiền


tệ là vấn đề rất được xã hội quan tâm do tiền tệ ra đời làm cho việc trao đổi
hàng hóa, dịch vụ được dễ dàng, thuận tiện hơn. Tiền tệ được phát triển qua
các giai đoạn khác nhau, sự thay thế nhau của các loại tiền trong từng thời kỳ.
Ở Việt Nam cũng vậy, sự thay đổi của tiền tệ, thay đổi hình thái tiền tệ ( kim
loại, giấy, polime, thẻ...), lịch sử tiền tệ cũng chịu ảnh hưởng của lịch sử xã
hội. Sự thay đổi đi lên của tiền tệ điều đó cũng là một phần để đánh giá sự
phát triển kinh tế của một đất nước.
Chính sách lưu thơng tiền tệ hay chính sách tiền tệ (monetary policy) là
q trình quản lý cung tiền (money supply) của cơ quan quản lý tiền tệ (có thể
là ngân hàng trung ương), thường là hướng tới một lãi suất mong muốn
(targeting interest rate) để đạt được những mục đích ổn định và tăng trưởng
kinh tế - như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đối, đạt được tồn
dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thơng tiền tệ bao gồm
việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thơng
qua các nghiệp vụ thị trường mở; quy định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi
trên thị trường ngoại hối. nhiều vân đề khác
Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 quy định: “Chính sách tiền tệ quốc
gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng
chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện
mục tiêu đề ra”.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ, theo Luật Ngân hàng Nhà nước, là nhằm
ổn

1


định giá trị của đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế- xãhội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân
dân. Trên cơ sở mục tiêu chung đó, những năm qua Ngân hàng Nhà nướcViệt

Nam đã điều hành chính sách tiền tệ khá linh hoạt, thơng qua các cơng cụ
chính sách như điều tiết cung tiền, chính sách tỷ giá, lãi suất,mđặt ra hạn mức
tín dụng cho hệ thống ngân hàng thương mại, các công cụ gián tiếp như quy
định dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, thị trường mở. Tuy nhiên, cũng có những ý
kiến cho rằng chính sách tiền tệ của Việt Nam chưa có tính dài hạn, nhất qn
mà đơi khi giật cục, chạy theo tình thế, gây ảnh hưởng đến các biến số kinh tế
cũng như sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế.
Chính sự phát triển và vai trò quan trọng của tiền tệ mà em lựa chọn đề
tài “Phân tích lý luận tiền tệ dưới góc độ kinh tế chính trị Mác Lê Nin, vận
dụng lý luận này vào chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay ". Tìm hiểu
đề tài này không chỉ cho em biết thêm những kiến thức về lịch sử xuất hiện
của tiền tệ mà còn hiểu biết sâu sắc hơn chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện
nay.

II. NỘI DUNG
2.1 Lý luận tiền tệ dưới góc độ kinh tế chính trị Mác Lê Nin
2.1.1 Bản chất của tiền tệ
Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hố, là sản phẩm của q trình
phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Các nhà kinh tế trước C.Mác giải thích tiền tệ từ hình thái phát triển cao
nhất của nó và do đó đã khơng làm rõ được bản chất của nó. Trái lại, C.Mác
nghiên cứu tiền tệ từ lịch sử phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá, từ sự

2


phát triển của các hình thái giá trị hàng hố, do đó đã tìm thấy nguồn gốc và
bản chất của tiền tệ.
Mỗi hàng hoá là sự thống nhất của hai mặt giá trị sử dụng và giá trị. Nếu
giá trị sử dụng của hàng hố có thể được nhận biết bằng các giác quan, thì giá

trị của hàng hố lại chỉ nhận biết được qua giá trị trao đổi, tức là ở các hình
thái giá trị. Trong lịch sử phát triển của trao đổi hàng hố, hình thái của giá trị
cũng phát triển từ thấp đến cao, từ hình thái giản đơn ngẫu nhiên, tới hình thái
mở rộng, hình thái chung, hình thái tiền tệ.
a) Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị
Thí dụ: 1 hàng hố A = 5 hàng hố Bhay 1 hàng hố A có giá trị bằng 5
hàng hố B. Hình thái này xuất hiện khi xã hội cộng đồng nguyên thuỷ tan rã,
trao đổi lúc đầu mang tính chất ngẫu nhiên và trực tiếp. Ở đây, giá trị hàng
hoá A được biểu hiện ở hàng hố B, cịn hàng hố B dùng làm hình thái biểu
hiện giá trị của hàng hố A. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá này trở
thành hình thức biểu hiện giá trị của hàng hố kia. Hàng hố (A) mà giá trị
của nó chỉ được biểu hiện ở hàng hố khác (B) thì ở vào hình thái giá trị
tương đối. Cịn hàng hố (B) mà giá trị sử dụng của nó biểu hiện giá trị của
hàng hố khác (A) thì ở vào hình thái vật ngang giá. Hình thái giản đơn hay
ngẫu nhiên của giá trị là mầm mống phơi thai của hình thái tiền; và hàng hố
đóng vai trị vật ngang giá là hình thái phơi thai của tiền tệ.
b) Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng
Lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hơn đưa đến
kết quả: năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư nhiều hơn, do đó,
trao đổi trở nên đều đặn và thường xun hơn. Giá trị có hình thái đầy đủ hay
mở rộng.

3


Ở đây, giá trị của một hàng hoá được biểu hiện ở giá trị sử dụng của
nhiều hàng hoá khác nhau có tác dụng làm vật ngang giá. Hình thái biểu hiện
giá trị của một hàng hoá đã được mở rộng.
c) Hình thái chung của giá trị
Lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội tiếp tục phát triển cao

hơn, trao đổi hàng hoá trở nên thường xuyên và mở rộng hơn nữa. Hình thái
trao đổi trực tiếp hàng hoá A lấy các hàng hoá B, C, D... khơng cịn thích hợp,
gây trở ngại cho việc trao đổi. Bởi có thể người có hàng hố A cần hàng hố
B, nhưng người có hàng hố B lại khơng cần hàng hố A, mà cần một hàng
hố khác. Khi đó việc trao đổi hàng hố A với B sẽ khơng thực hiện được.
Khắc phục trở ngại đó, trong q trình trao đổi, đã xuất hiện một hàng hoá
được mọi người thừa nhận là đại biểu cho giá trị có thể dùng để đổi lấy mọi
hàng hố khác. Hình thái chung của giá trị ra đời.
Ở đây, các hàng hoá đều biểu hiện giá trị của mình ở giá trị sử dụng của
một thứ hàng hố đặc biệt đóng vai trị vật ngang giá chung. Các hàng hoá A,
B, C... đều đem đổi lấy hàng hoá X, rồi dùng hàng hoá X đổi lấy thứ hàng hoá
cần dùng. Lúc đầu, vật ngang giá chung chưa ổn định ở một hàng hoá nào, có
nơi dùng súc vật, có nơi dùng da, lơng thú.
d) Hình thái tiền tệ
Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển cao hơn
nữa, sản xuất hàng hoá và thị trường ngày càng mở rộng, thì tình trạng có
nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi khó khăn, do đó cần thiết phải
hình thành vật ngang giá chung thống nhất.
Khi vật ngang giá chung được cố định lại ở một hàng hoá độc tơn và phổ
biến thì hình thái tiền tệ của giá trị xuất hiện.
Vật ngang giá chung trở thành tiền tệ. Lúc đầu, có nhiều loại hàng hố
đóng vai trị tiền tệ, nhưng về sau được cố định lại ở kim loại quý: bạc, vàng,
4


và cuối cùng là vàng. Bạc và vàng là những hàng hố có những đặc điểm
thích hợp nhất với vai trị tiền tệ như thuần nhất, dễ chia nhỏ, khơng hư hỏng,
dễ bảo quản, với một lượng và một thể tích nhỏ nhưng có giá trị cao. Như
vậy, tiền tệ xuất hiện là kết quả của sự giải quyết liên tục những mâu thuẫn
trong quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và sản xuất hàng hoá. Tiền tệ

xuất hiện thì thế giới hàng hố phân làm hai cực: một cực là những hàng hố
thơng thường đại biểu cho những giá trị sử dụng; cực khác là hàng hoá đóng
vai trị tiền tệ, đại biểu cho giá trị.
Tiền tệ là hàng hoá đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất
cả hàng hố, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những
người sản xuất hàng hố. Đó là bản chất của tiền tệ.
Với tính cách là hàng hố thơng thường, vàng, bạc cũng có hai thuộc tính
là giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng của hàng hoá này thể hiện ở chỗ,
nó được dùng làm nguyên liệu trong công nghiệp và làm đồ trang sức. Giá trị
của hàng hoá vàng, bạc cũng do lao động xã hội trừu tượng, giản đơn của
người khai thác, sản xuất vàng, bạc kết tinh trong nó quyết định và cũng được
đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để khai thác, sản xuất vàng, bạc.
Khi đóng vai trị tiền tệ, vàng, bạc, có giá trị sử dụng đặc biệt - là vật
ngang giá chung, đo lường được giá trị của hàng hoá khác do chức năng xã
hội riêng của nó sản sinh ra. Và cũng từ đây nảy sinh tệ sùng bái tiền, vì tiền
được coi là có quyền lực vạn năng.
2.1.2. Chức năng của tiền tệ
Bản chất của tiền tệ được biểu hiện ở các chức năng của nó. Trong điều
kiện kinh tế hàng hố phát triển, tiền tệ có 5 chức năng sau đây:
a) Thước đo giá trị
Là thước đo giá trị, tiền được dùng để biểu hiện và do lường giá trị của
các hàng hoá. Tiền cũng có giá trị nên nó làm được chức năng thước đo giá
5


trị. Khi tiền làm chức năng thước đo giá trị thì khơng cần phải có tiền mặt
trong tay, mà chỉ cần tiền trong tưởng tượng. Sở dĩ có thể làm được như vậy,
vì trong thực tế giá trị của vàng và giá trị của hàng hố đã có một tỷ lệ nhất
định. Cơ sở khoa học của tỷ lệ đó là thời gian lao động xã hội cần thiết phải
hao phí để sản xuất ra chúng.

Giá trị hàng hoả được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá, nên giá
cả là hình thức tiền hay biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả hàng
hoá do các nhân tố sau đây quyết định:
- Giá trị hàng hoá.
- Giá trị tiền tệ.
- Quan hệ cung - cầu hàng hoá.
Giá cả hàng hoá thay đổi tỷ lệ thuận với giá trị của hàng hoá và tỷ lệ
nghịch với giá trị của tiền tệ.
Quan hệ cung - cầu hàng hoá làm giá cả lên xuống chung quanh giá trị.
Cung lớn hơn cầu làm giá cả xuống thấp hơn giá trị; còn ngược lại, cung nhỏ
hơn cầu sẽ làm giá cả lên cao hơn giá trị hàng hoa.
Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo
lường. Do đó, phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là một khối lượng
nhất định của kim loại dùng làm tiền tệ. Ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên
gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả.
Tác dụng của tiền khi dùng làm tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng
của nó khi dùng làm thước đo giá trị, Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá
trị các hàng hoá khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường số lượng của bản
thân kim loại dùng làm tiền tệ. Sự thay đổi giá trị của hàng hố tiền tệ (vàng)
khơng ảnh hưởng đến chức năng thước đo giá trị và chức năng tiêu chuẩn giá
cả của nó.

6


b) Phương tiện lưu thông
Làm chức năng phương tiện lưu thông, tiền tệ là mối giới trong việc trao
đổi hàng hố. Lưu thơng hàng hố là sự trao đổi hàng hố thơng qua tiền tệ
làm mơi giới. Cơng thức lưu thơng hàng hố là H - T - H (hàng - tiền - hàng).
Ở đây, khi hàng chuyển từ tay người bán sang tay người mua thì tiền chuyển

từ tay người mua sang tay người bán, do đó, địi hỏi nhất thiết phải có tiền.
Thực hiện chức năng này, lúc đầu tiền tệ xuất hiện trực tiếp dưới hình
thức vàng thoi, bạc nén. Điều đó gây nên một số khó khăn: phải chia nó thành
nhiều mảnh nhỏ, phải xác định số lượng, độ nguyên chất... Tiền tệ bằng vàng
thoi, bạc nén dần dần được thay thế bằng tiền đúc. Tiền đúc là khối kim loại
đúc có hình thức, trọng lượng và giá trị nhất định, nó được dùng làm phương
tiện lưu thơng. Trong q trình lưu thơng, tiền đúc mịn dẫn và mất một phần
giá trị của nó, và do đó xuất hiện tình trạng tiền đúc khơng cịn đủ giá trị ban
đầu của nó. Nhưng, trong thực tiễn lưu thơng, những ‘ đồng tiền bị mịn,
khơng đủ giá trị đó vẫn được chấp nhận làm phương tiện lưu thơng như tiền
đúc đủ giá trị. Giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Có tình
trạng này là vì tiền làm phương tiện lưu thơng chỉ có tác dụng trong chốc lát.
Thơng thường, người bán đổi hàng lấy tiền, rồi dùng tiền ấy mua hàng hoá
khác. Tiền đúc bị hao mịn và khơng đủ giá trị mà vẫn lưu thơng như thường
lệ. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy khơng có
giá trị, mà chỉ là ký hiệu của giá trị. Nhà nước phát hành và buộc xã hội cơng
nhận.
Khi mua - bán xong thì hàng hố ra khỏi lưu thông để đi vào lĩnh vực
tiêu dùng (tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho cá nhân), còn tiền tệ dừng
lại trong lưu thông. Thông thường, khối lượng tiền làm chức năng phương
tiện lưu thông bằng tổng số giá cả hàng hố chia cho số vịng quay của những
đồng tiền cùng một tên gọi. Có thể minh họa lượng tiền cần thiết cho lưu
thông theo công thức sau:
7


M = P.Q V
Trong đó:
- M là lượng tiền cần thiết cho lưu thông.
-- P là mức giá cả.

- Q là khối lượng hàng hoá và dịch vụ đem ra lưu thơng. - V là số vịng
lưu thơng của đồng tiền.
Công thức trên chỉ đúng khi giả định tiền là vàng và giá trị của vàng
không thay đổi. Nếu bỏ giả định trên, thì “với một tổng số giá trị hàng hóa
nhất định và với một tốc độ trung bình nhất định của những sự biến đổi hình
thái của các hàng hóa, thì số lượng tiền hay vật liệu tiền đang lưu thông sẽ
phụ thuộc vào bản thân giá trị của vật liệu này”.
Tiền làm chức năng phương tiện lưu thơng làm cho việc lưu thơng, trao
đổi hàng hố trở nên thuận lợi. Nhưng, đồng thời nó cũng làm cho việc mua bán có thể tách rời nhau cả về khơng gian và thời gian. Do đó, đã bao hàm cả
khả năng khủng hoảng.
c) Phương tiện cất trữ
Làm phương tiện cất trữ, tiền được rút khỏi lưu thông và được cất trữ.
Cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải, cất trữ giá trị.
Chỉ có tiền, vàng, bạc, tiền đủ giá trị mới làm chức năng cất trữ. Khi
đồng tiền vàng hoặc đồng tiền bạc được dùng làm tiền tệ, thì số lượng của
đồng tiền đó thích ứng một cách tự phát với nhu cầu của lưu thông hàng hố.
Nếu sản xuất hàng hố giảm sút thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông và
được cất trữ. Ngược lại, nếu sản xuất hàng hoá tăng lên thi những đồng tiền
đó lại quay trở vào lưu thơng. Do đó, cất trữ tiền là dự trữ cho lưu thơng tiền
tệ.
d) Phương tiện thanh toán
8


Kinh tế hàng hố phát triển đến một trình độ nào đó, tất yếu sẽ nảy sinh
việc mua - bán chịu, và do đó tiền có chức năng phương tiện thanh toán.
Tiền làm phương tiện thanh toán, tức là được dùng để chi trả sau khi
công việc giao dịch, mua - bán đã hồn thành. Thí dụ, trả tiền mua hàng chịu,
trả nợ, nộp thuế... Phương tiện thanh toán của tiền tệ gắn liền với chế độ tín
dụng, trong đó có tín dụng thương mại là mua – bán chịu hàng hố.

Trong hình thức mua - bán chịu, trước tiên, tiền làm chức năng thước đo
giá trị, nhưng vì mua - bán chịu, nên đến kỳ hạn trả tiền mới được đưa vào
lưu thơng để làm phương tiện thanh tốn. Sự phát triển hình thức mua - bán
chịu, một mặt, tạo khả năng trang trải nợ nần bằng cách khấu trừ thanh tốn
lẫn nhau khơng dùng tiền mặt, nên giảm được lượng tiền mặt phát hành cần
thiết cho lưu thông. Mặt khác, trong việc mua - bán chịu, người mua biến
thành con nợ, người bán biến thành chủ nợ; khi hệ thống con nợ và chủ nợ
phát triển rộng rãi, nếu một khâu nào đó khơng thanh tốn được sẽ ảnh hưởng
đến các khâu khác và phá vỡ hệ thống. Điều đó cắt nghĩa vì sao khả năng
khủng hoảng khi tiền làm chức năng phương tiện lưu thông lại tăng lên khi
tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện thanh tốn.
Trong q trình thực hiện chức năng phương tiện thanh tốn xuất hiện
một loại tiền mới - tiền tín dụng, dưới các hình thức như giấy bạc ngân hàng,
tiền ghi sổ, tài khoản có thể phát hành séc, tiền điện tử, thẻ (card) thanh tốn...
Tiền tín dụng phát sinh từ chức năng phương tiện thanh toán của tiền.
Mặt khác, tiền tín dụng phát triển thì chức năng phương tiện thanh tốn của
tiền càng mở rộng và các hình thức của tiền cũng phát triển. Khi tiền làm cả
chức năng phương tiện thanh tốn thì khối lượng tiền cần thiết trong lưu
thông sẽ là:
M

1-(2+3)+4
5
9


Trong đó:
- M là số lượng các loại tiền cần thiết cho lưu thông.
- 1 là tổng giá trị hàng hố, dịch vụ đem lưu thơng,
- 2 là tổng giá cả hàng hoá bán chịu,

- 3 là tổng giá cả hàng hoá khấu trừ cho nhau,
- 4 là tổng giá cả hàng hoá đến thời hạn thanh toán,
- 5 là số vịng chu chuyển trung bình của đồng tiền.
Đây là quy luật lưu thơng tiền tệ. Quy luật này có ý nghĩa chung cho mọi
hình thái kinh tế - xã hội có sản xuất và lưu thơng hàng hố.
e) Tiền tệ thế giới
Khi trao đổi hàng hoá mở rộng ra bên ngồi biên giới quốc gia và hình
thành quan hệ bn bán giữa các nước thì tiền tệ làm chức năng tiền tệ thế
giới. Chức năng tiền tệ thế giới là dùng tiền làm cơng cụ mua và thanh tốn
quốc tế, cơng cụ tín dụng, di chuyển của cải từ nước này sang nước khác.
Làm chức năng tiền tệ thế giới thì phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được
cơng nhận là phương tiện thanh tốn quốc tế.
Việc đổi tiền của nước này ra tiền của nước khác được tiến hành theo tỷ
giá hối đối - đó là giá cả đồng tiền của quốc gia này được tính bằng đồng
tiền của quốc gia khác.
Tóm lại, tiền tệ có năm chức năng, những chức năng này ra đời với sự
phát triển của sản xuất và lưu thơng hàng hố. Năm chức năng đó quan hệ
mật thiết với nhau, thơng thường tiền làm nhiều chức năng cùng một lúc.
2.1.3. Lạm phát và nguyên nhân, hậu quả của lạm phát
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế phổ biến ở nhiều nước trên thế giới.
Có nhiều quan niệm khác nhau về lạm phát, nhưng đều nhất trí rằng, biểu
10


hiện của "lạm phát là tình trạng mức giá chung của toàn bộ nền kinh tế tăng
lên trong một thời gian nhất định". Thường thì khi giá tăng từ vài tháng trở
lên được xem như có lạm phát.
Lạm phát làm giá cả hàng hoá tăng lên, nhưng giá cả hàng hố khác nhau
lại khơng tăng lên theo cùng một tỷ lệ, điều đó phá hoại các quan hệ kinh tế,
phá hủy quan hệ hạch toán kinh tế, người sản xuất khó bảo tồn vốn kinh

doanh, khơng muốn bỏ vốn đầu tư. Lạm phát dẫn đến phân phối lại thu nhập
và tài sản có lợi cho người nắm giữ hàng hố, thiệt hại cho người có thu nhập
và nắm giữ tài sản bằng tiền, có lợi cho người đi vay, thiệt hại cho người. cho
vay, khuyến khích đầu cơ hàng hố, cản trở sản xuất - kinh doanh.
Lạm phát có nhiều loại, dựa vào tốc độ tăng giá có thể chia lạm phát
thành các loại: lạm phát một con số (dưới 10% một năm), lạm phát hai con số
(dưới 100% một năm), lạm phát phi mã (gia tăng trên 100% một năm) và siêu
lạm phát - khi tỷ lệ lạm phát rất cao. Cịn có các loại lạm phát tăng dần đều,
có thể dự đốn trước và lạm phát đột biến, khơng dự đốn trước được. Tỷ lệ
lạm phát càng cao, càng có tính chất đột biến, khơng dự báo trước được thì
tác hại của nó càng lớn. Lạm phát là một hiện tượng khủng hoảng tiền tệ,
nhưng nó là sự phản ánh và thể hiện trạng thái chung của toàn bộ nền kinh tế.
Lạm phát ban đầu gắn với việc lưu thơng tiền giấy. Tiền giấy bản thân nó
khơng có giá trị nội tại, chỉ là ký hiệu của giá trị, thay thế tiền vàng trong
chức năng phương tiện lưu thơng. Bởi vậy, giá trị của nó là do số lượng của
nó trong lưu thơng quyết định. Khi lượng tiền giấy được phát hành quá nhiều,
vượt quá lượng vàng cần thiết cho lưu thông mà tiền giấy là đại biểu, nếu tiền
giấy bị mất giá trị thì giá cả hàng hoá tăng lên, gây ra lạm phát. Bởi vậy, việc
nhà nước phát hành tiền cho chi tiêu, bù đắp thâm hụt ngân sách là một căn
bệnh, một nguyên nhân dẫn tới lạm phát.
Với sự phát triển của quan hệ tín dụng, làm công cụ cho lưu thông và
trao đổi không phải chỉ có tiền giấy, mà cịn có các cơng cụ tín dụng, các loại
11


tiền tín dụng khác như séc, các thẻ tín dụng dưới nhiều hình thức... Tiền tín
dụng gắn với khả năng tạo tiền của các ngân hàng thương mại làm tăng lượng
tiền trong lưu thông vượt quá lượng cần thiết, làm tiền mất giá, càng dẫn tới
lạm phát. Đó là lạm phát do mở rộng tín dụng quá mức.
Nguyên nhân khác dẫn tới mất cân đối hàng và tiền cũng dẫn tới lạm

phát. Chẳng hạn như hiện tượng đầu tư quá mức vào những cơng trình lớn,
địi hỏi vốn đầu tư lớn, thời hạn đầu tư dài, tình trạng bỏ tiền trong nước ra
mua một lượng lớn ngoại tệ chuyển vào trong nước, bằng con đường kiều hối
hoặc chi tiêu của khách du lịch, nhưng khơng có lượng hàng hố tăng thêm
cân bằng với lượng tiền đưa ra...
Ngày nay, lý thuyết kinh tế học hiện đại ở nhiều nước cho rằng, cịn có
các loại lạm phát do cầu kéo và do chi phí đẩy. Khi cầu của xã hội tăng mạnh,
ban đầu sự tăng lên của cầu dẫn tới sự tăng lên của cung, nhưng khi cung đã
đạt tới giới hạn, tới sản lượng tiềm năng, khi có sự tăng lên của cầu không
dẫn tới sự tăng thêm của sản lượng, mà chỉ dẫn tới sự tăng giá, dẫn tới lạm
phát. Đó là lạm phát do cầu kéo. Cịn khi có cú sốc về phía cung, giá cả các
yếu tố sản xuất tăng vọt (như cuộc khủng hoảng dầu lửa thế giới năm 1973),
làm chi phí sản xuất và giá cả hàng hoá tăng vọt. Đây được xem là lạm phát
do chỉ phí đẩy. Lạm phát là hiện tượng gây nhiều tác động tiêu cực tới kinh tế
và xã hội, bởi vậy chống lạm phát dược xem là một trong những mục tiêu
hàng đầu của các nước trên thế giới. Để ổn định kinh tế vĩ mô, để chống lạm
phát, cần phải tìm hiểu đúng nguyên nhân dẫn tới lạm phát, đánh giá đúng
dạng lạm phát để có cách xử lý tốt hơn.
2.2 Chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ, theo Luật Ngân hàng Nhà nước, là nhằm
ổn
định giá trị của đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế- xãhội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân
12


dân. Trên cơ sở mục tiêu chung đó, những năm qua Ngân hàng Nhà nướcViệt
Nam đã điều hành chính sách tiền tệ khá linh hoạt, thơng qua các cơng cụ
chính sách như điều tiết cung tiền, chính sách tỷ giá, lãi suất,mđặt ra hạn mức
tín dụng cho hệ thống ngân hàng thương mại, các công cụ gián tiếp như quy

định dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, thị trường mở. Trải qua 70 năm xây dựng,
củng cố và phát triển (1951 - 2021), hệ thống ngân hàng Việt Nam đã không
ngừng lớn mạnh và đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp phần tích
cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong mỗi giai đoạn, sự đổi
mới, phát triển của hoạt động ngân hàng đều gắn liền với vận mệnh của dân
tộc, đồng thời kế thừa và phát huy truyền thống phát triển của Ngành. Đáng
chú ý là, bước tiến quan trọng được ghi nhận từ năm 1986, khi Việt Nam bắt
đầu thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế trước những khó khăn chồng
chất của đất nước và diễn biến ngày càng phức tạp trên chính trường quốc tế.
Giai đoạn 1986 - 1989
Đây là thời kỳ Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới thực sự, trong bối
cảnh nền kinh tế phải đối mặt với hàng loạt khó khăn thách thức, sản xuất
đình trệ, đời sống Nhân dân cực kỳ khó khăn, lạm phát tăng phi mã (năm
1986 lên đến 774,7%), ngân sách thâm hụt trầm trọng,… Nguyên nhân chủ
yếu của những khó khăn và yếu kém trên đây là do cơ chế tập trung, quan
liêu, bao cấp trong nền kinh tế đã triệt tiêu các động lực phát triển; cấm đoán
tự do sản xuất và lưu thơng hàng hóa; giá cả khơng phản ánh cung cầu; in tiền
bù đắp bội chi ngân sách và làm vốn tín dụng; đầu tư thiên về cơng nghiệp
nặng và doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả; các hiện tượng như
lãi suất không theo quy luật và thấp xa tỉ lệ lạm phát, tiền thành “hòn than
nóng”, cơ chế tỉ giá cố định cứng nhắc, vàng và ngoại tệ lên ngôi.
Thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để theo Nghị
quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986 và các Nghị quyết Đại hội Đảng
sau đó, cơng cuộc đổi mới đất nước được triển khai mạnh mẽ, nền kinh tế
13


được chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống ngân hàng cũng từng bước đổi mới và phát
triển, hồn thiện về mơ hình tổ chức, thể chế pháp lý, công nghệ và dịch vụ

ngân hàng. Đáng chú ý là, ngày 26/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Nghị định số 53/HĐBT về tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
mơ hình ngân hàng một cấp được chuyển thành mơ hình ngân hàng hai cấp,
tách bạch dần chức năng quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam (NHNN) với chức năng kinh doanh của các tổ chức tín dụng (TCTD).
Tổ chức, bộ máy của NHNN được kiện toàn, sắp xếp lại để thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, đồng thời làm chức năng ngân
hàng của các ngân hàng; các ngân hàng chuyên doanh thực hiện nhiệm vụ
kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng.
Trong thời kỳ này, bốn ngân hàng chuyên doanh được thành lập trên cơ
sở chuyển và tách ra từ NHNN, bao gồm: Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam, Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam, Ngân hàng Công thương
Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam.
Nhờ đường lối đổi mới cơ chế, chính sách theo hướng xóa bỏ bao cấp,
giải phóng sức sản xuất, tự do hóa sản xuất lưu thơng hàng hóa, từng bước tự
do hóa giá cả, những khó khăn kinh tế đã được khắc phục đáng kể. Về điều
hành chính sách tiền tệ, NHNN chuyển sang cơ chế lãi suất thực dương đã thu
hút tiền gửi vào hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định tiền tệ và thị trường,
thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Đây là giải pháp có tính đột phá và quyết định
sự thành cơng trong giai đoạn này. Nhờ đó, lạm phát phi mã được đẩy lùi và
đến năm 1989 chỉ tăng 35%...
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, chính sách tiền tệ chưa được định hình rõ
ràng, NHNN vẫn thực hiện cung ứng tiền theo chỉ đạo của Chính phủ. Nhìn
tổng qt trong những năm đầu đổi mới vẫn là chế độ quản lý tiền mặt theo ý

14


chí, mệnh lệnh, chứ chưa theo các quy luật kinh tế hàng hóa và lưu thơng tiền
tệ.

Giai đoạn 1990 - 1996
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã đẩy
kinh tế Việt Nam lâm vào tình cảnh khó khăn gay gắt hơn, lạm phát trong thời
kỳ này tuy đã được kiềm chế nhưng vẫn trên dưới 10%/năm. Đảng và Chính
phủ quyết tâm từ bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, chuyển sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhưng chưa thể vận hành hoàn toàn và
đầy đủ theo cơ chế thị trường.
Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước thơng qua hai Pháp lệnh về Ngân
hàng. Nhờ đó, hệ thống ngân hàng bắt đầu quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, căn
bản và toàn diện, phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Số lượng ngân hàng tăng nhanh
nhưng quy mơ nhỏ, trình độ quản trị cịn yếu kém nên tiềm ẩn nhiều rủi ro,
nhất là rủi ro tín dụng. Đến cuối năm 1996, tồn hệ thống có 52 ngân hàng
thương mại cổ phần (NHTMCP), trong đó 32 NHTMCP đơ thị, 20 NHTMCP
nơng thơn.
Về điều hành chính sách tiền tệ, NHNN tiếp tục thực hiện chính sách lãi
suất thực dương, kết hợp sử dụng các công cụ gián tiếp với cơng cụ kiểm sốt
trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ; hình thành các thị trường tiền tệ;
bước đầu hiện đại hóa cơng nghệ và tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho
việc vận hành hệ thống ngân hàng mới. Vốn tín dụng được mở rộng cho mọi
thành phần kinh tế và hàng năm đạt mức tăng trưởng bình qn 36%/năm,
góp phần chuyển dịch cơ cấu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm
sau. Tuy nhiên, những dấu hiệu phát triển nóng cũng bộc lộ, nhất là thị trường
bất động sản. Hoạt động cho vay bất cẩn ngày càng tăng; nhiều chủ ngân
hàng lợi dụng vốn ngân hàng để đầu tư cho công ty “sân sau”, lừa đảo tín

15


dụng gia tăng… dẫn tới đổ vỡ hợp tác xã tín dụng và sự suy yếu của nhiều

NHTM.
Về quan hệ đối ngoại, từ tháng 10/1993, Việt Nam đã chính thức nối lại
quan hệ tín dụng với ba tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế là Quỹ Tiền tệ quốc
tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).
Giai đoạn 1997 - 2005
Khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á năm 1997 - 1998 tác động tiêu
cực đến tình hình kinh tế trong nước, tăng trưởng kinh tế chững lại, hoạt động
xuất nhập khẩu giảm thấp, đầu tư nước ngoài ngưng trệ, hệ thống ngân hàng
đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức. Các yếu kém vốn có của hệ thống ngân
hàng trở nên trầm trọng hơn do tác động của cuộc khủng hoảng nêu trên.
Sức ép phá giá VND lên cao và liên tục; bất động sản sụt giảm và đóng
băng. Hàng loạt NHTMCP rơi vào tình trạng kiểm sốt đặc biệt, phải sáp
nhập vào NHTM Nhà nước (17/53 NHTMCP bị xóa tên trong giai đoạn này).
Năm 1997, Quốc hội thông qua Luật NHNN và Luật Các TCTD, tạo nền
tảng pháp lý cơ bản cho hệ thống ngân hàng tiếp tục đổi mới hoạt động, phù
hợp với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
Về các biện pháp ứng phó với khủng hoảng tài chính - tiền tệ, NHNN đã
thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt và thận trọng, góp phần giảm thiểu tác
động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997; tiếp tục
hồn thiện cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là cơ chế điều hành lãi
suất; ban hành các quy định và thiết chế an toàn để tăng cường khả năng ngăn
ngừa biến động xấu của TCTD; áp dụng trích lập dự phòng rủi ro theo hướng
tăng dần; thành lập Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam, tách tín dụng chính sách ra
khỏi tín dụng thương mại và thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội.
Nhờ những giải pháp nêu trên, VND chỉ giảm giá tổng cộng xấp xỉ 12%
trong vòng 8 năm; lãi suất được thả nổi hoàn toàn từ năm 2002 - 2008; lạm
16


phát được giữ ở mức một con số từ năm 1996 (4,5%) đến năm 2006 (6,6%);

cao nhất là 9,5% vào năm 2004, thấp nhất (0,1 - 3%) vào năm 2000 - 2003;
tăng trưởng GDP bình quân 7% (1996 - 2000), 6,9% (2000 - 2005).
Hệ thống các TCTD được chấn chỉnh, củng cố, từng bước xử lý nợ tồn
đọng và nâng cao năng lực tài chính. Cơng nghệ ngân hàng có bước phát triển
mạnh mẽ, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng được đưa vào vận hành
chính thức từ tháng 5/2002. Các mơ hình dịch vụ ngân hàng điện tử xuất hiện
như E-Banking, Internet Banking. NHNN cũng tích cực tham gia đàm phán
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đồng thời chủ động triển khai
các cam kết về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.
Tuy nhiên, giai đoạn này cũng tồn đọng và ẩn chứa nhiều hệ lụy khi gặp
cú sốc từ bên ngồi. Mơ hình tăng trưởng dựa vào tăng đầu tư; tín dụng ngân
hàng tăng bình quân hàng năm 25 - 30%/năm, kỷ luật ngân sách lỏng lẻo đã
xói mịn tính bền vững của nền tảng vĩ mô, dẫn đến lạm phát cao trở lại (từ
2007 - 2011) và tỉ giá biến động mạnh.
Giai đoạn 2006 - 2010
Trong giai đoạn này, tình hình chính trị và kinh tế thế giới diễn biến
phức tạp, cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu 2008 - 2009 và suy thối kinh
tế sau đó đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam, trong bối cảnh Việt
Nam vừa mới gia nhập WTO (ngày 11/01/2007) và đã hội nhập sâu vào nền
kinh tế thế giới, đặt hệ thống tài chính - tiền tệ Việt Nam trước nhiều khó
khăn và thách thức. Trong khi đó, số lượng các ngân hàng tăng nhanh (các
NHTMCP nông thôn được nâng cấp lên thành NHTMCP đô thị, thành lập
mới 3 NHTMCP, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài). Mức vốn điều lệ tăng
cao trong một thời gian ngắn, dẫn đến tình trạng các ngân hàng hút vốn bằng
nhiều cách, tình trạng sở hữu chéo tăng nhanh.

17


Trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế trong nước và thế

giới, chính sách tiền tệ giai đoạn này được điều hành linh hoạt theo từng thời
kỳ: (i) Từ năm 2006 đến tháng 10/2008: Tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, hạn chế tăng trưởng nóng; (ii) Từ tháng 11/2008 đến cuối năm
2010: Nới lỏng để ngăn chặn đà suy giảm kinh tế.
NHNN u cầu các TCTD mở rộng tín dụng có hiệu quả, phù hợp với
quy định của pháp luật; xử lý kịp thời các vướng mắc về nợ vay và tiếp cận
tín dụng của khách hàng; tập trung triển khai có hiệu quả việc thực hiện các
cơ chế cho vay hỗ trợ lãi suất; kiểm sốt chặt chẽ chất lượng tín dụng, đi đơi
với mở rộng tín dụng theo hướng tập trung vốn cho các nhu cầu vay vốn để
sản xuất - kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa, lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn và các dự án lớn, trọng điểm của Nhà nước; kiểm soát chặt chẽ cho vay
kinh doanh bất động sản, cho vay kinh doanh chứng khoán và cho vay tiêu
dùng.
Điều hành chính sách của NHNN trong giai đoạn này đã góp phần tích
cực vào việc kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, ngăn chặn suy giảm
kinh tế trước những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thối kinh tế tồn cầu. Hệ thống ngân hàng đã tích cực hiện đại hóa, đổi mới
cơng nghệ, dịch vụ, hồn thiện thể chế, chính sách, đẩy mạnh hội nhập quốc
tế.
Những biện pháp của Chính phủ về đối phó với cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thối kinh tế tồn cầu được NHNN thực hiện trong giai đoạn
2006 - 2010 đã góp phần kiềm chế lạm phát năm 2007 ở mức 12,63%; năm
2008 là 19,9% và năm 2010 là 11,75%, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và
ngăn chặn đà suy giảm tăng trưởng kinh tế. Kinh tế của Việt Nam trong các
năm 2008 - 2010 vẫn tăng trưởng dương (riêng năm 2010 tăng trưởng đạt
6,78%, vượt mục tiêu 6,5% đề ra). Tuy nhiên, việc điều hành chính sách tài
khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với các nguyên nhân khách
18




×