Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Chế tài hủy bỏ hợp đồng trong luật thương mại 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.3 MB, 137 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

VÕ VĂN ĐẠT

CHẾ TÀI HỦY BỎ HỢP ĐỒNG TRONG
LUẬT THƢƠNG MẠI 2005

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số

: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: Pgs. Ts. Phan Huy Hồng

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Tồn bộ
nội dung trình bày và kết quả là do chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn
của PGS. TS. Phan Huy Hồng. Tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
BLDS 2005

Bộ luật Dân sự (Bộ luật số: 33/2005/QH11) ngày



Bộ nguyên tắc UNIDROIT

14/6/2005
Bộ Nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại
quốc tế 2004

CISG

Công ước của Liên hiệp quốc năm 1980 về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế

LTM 2005

Luật Thương mại (Luật số: 36/2005/QH11) ngày
14/6/2005


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ..............................................................................................................
1
Chương 1. CÁC KHÍA CẠNH PHÁP LÝ CỦA CHẾ TÀI HỦY BỎ
HỢP ĐỒNG TRONG LUẬT THƢƠNG MẠI 2005 ........................................
1.1. Khái niệm chế tài hủy bỏ hợp đồng ............................................................

6
6

1.2. Phân loại chế tài hủy bỏ hợp đồng..............................................................

1.3. Căn cứ áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng ..................................................

9
12

1.3.1. Khi xảy ra vi phạm cơ bản hợp đồng ..........................................................
1.3.2. Khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện
hủy bỏ hợp đồng ....................................................................................................
1.3.3. Bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
trong thời hạn bổ sung mà bên bị vi phạm ấn định ..............................................

12

1.3.4. Hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp vi phạm trước thời hạn ......................
1.4. Thủ tục áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng .................................................
1.4.1. Hình thức, nội dung thơng báo hủy bỏ được quy định trong
Luật Thương mại 2005 ..........................................................................................
1.4.2. Thực hiện quyền hủy bỏ hợp đồng ..............................................................
1.5. Hậu quả pháp lý của chế tài hủy bỏ hợp đồng ..........................................
1.5.1. Thời điểm hợp đồng chấm dứt hiệu lực .......................................................
1.5.2. Nghĩa vụ hoàn trả ........................................................................................
1.5.3. Bồi thường thiệt hại.....................................................................................
Kết luận Chƣơng 1. .............................................................................................

21
23

Chương 2. CÁC BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ TÀI HỦY BỎ HỢP ĐỒNG VÀ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ..............................................................................

2.1. Xác định điều kiện và thủ tục hủy bỏ hợp đồng........................................
2.1.1. Thỏa thuận hành vi vi phạm là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng ...................
2.1.2. Xác định hành vi vi phạm cơ bản ................................................................
2.1.3. Xác định nội dung và thủ tục thông báo hủy bỏ .........................................

17
19

23
26
27
27
28
30
34

35
35
35
40
49


2.1.4. Xác định luật áp dụng về chế tài hủy bỏ hợp đồng .....................................

55

2.2. Những vƣớng mắc trong việc xác định hậu quả pháp lý của
chế tài hủy bỏ hợp đồng ......................................................................................


58

2.2.1. Hồn trả lợi ích đã nhận hoặc hồn tiền tương ứng ..................................
2.2.2. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi hủy bỏ hợp đồng ...........

58
65

2.2.3. Kết hợp hủy bỏ hợp đồng với phạt vi phạm ................................................
Kết luận Chƣơng 2 ..............................................................................................

69
73

KẾT LUẬN .........................................................................................................

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua đã tạo
điều kiện cho nhiều hoạt động giao lưu, bn bán trong và ngồi nước phát triển, nhiều
hợp đồng kinh tế đã được ký kết nhằm hướng tới những lợi ích nhất định thơng qua
q trình thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà lợi ích

của các bên khơng thể đạt được và bên bị vi phạm có nguy cơ đối mặt với những tổn
thất, thiệt hại khó lường. Vấn đề đặt ra ở đây là bên bị vi phạm sẽ lựa chọn việc hủy bỏ
hay tiếp tục thực hiện đối với hợp đồng đã được ký kết? Nếu xét mục đích ban đầu của
các bên khi ký kết hợp đồng và hành vi tiếp tục thực hiện khơng cịn được đảm bảo thì
việc bên bị vi phạm nên áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng, một trong những chế tài
được xem là nặng nhất được quy định trong Luật Thương mại 2005, là việc làm cần
thiết và rất quan trọng nhằm hạn chế thấp nhất những tổn thất, những thiệt hại mà các
bên có thể gánh chịu.
So với Luật Thương mại 1997, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 thì quy định
về hủy bỏ hợp đồng trong Luật Thương mại 2005 không phải là một chế tài quá mới.
Việc kế thừa và bổ sung những quy định về hủy bỏ một phần hợp đồng; hủy bỏ hợp
đồng trong trường hợp giao hàng, cung cấp dịch vụ từng phần; bổ sung hậu quả pháp
lý của việc hủy bỏ hợp đồng… một cách khá hồn chỉnh đã góp phần hồn thiện quy
định về chế tài hủy bỏ hợp đồng nói riêng và các loại chế tài trong Luật Thương mại
2005 nói chung, tạo một khung pháp lý cơ bản làm cơ sở để ngăn chặn các hành vi vi
phạm và bảo vệ quyền lợi của bên bị vi phạm khi có hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra.
Tuy nhiên, sau 08 năm đưa vào thực tiễn áp dụng, Luật Thương mại 2005 nói
chung và chế tài hủy bỏ hợp đồng nói riêng đã bộc lộ nhiều nhược điểm khi gây khơng
ít khó khăn cho các chủ thể áp dụng trong giao lưu thương mại, cũng như trong công
tác xét xử của ngành tịa án. Cụ thể như: Quy định về việc thơng báo hủy bỏ hợp đồng
có phải là một điều kiện bắt buộc nếu bên bị vi phạm muốn hủy bỏ hợp đồng hay không
và thực tiễn xét xử của ngành tòa án trong trường hợp này như thế nào? Hay khó khăn
trong việc xác định những hành vi vi phạm nào được xem là vi phạm cơ bản để Tòa án
chấp thuận yêu cầu hủy bỏ hợp đồng? Ngoài ra, quy định về hậu quả pháp lý của việc


2

hủy bỏ hợp đồng thương mại ảnh hưởng như thế nào đối với bên thứ ba cũng là vấn đề
cần phải nghiên cứu…

Cho đến nay, dù một số cơng trình nghiên cứu có đề cập đến chế tài hủy bỏ hợp
đồng nhưng nội dung lại được nhìn nhận ở góc độ khái quát chung. Do đó, việc nghiên
cứu về chế tài hủy bỏ hợp đồng trong Luật Thương mại 2005 nói riêng nhằm tìm ra
những giải pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả trong hoạt động thương mại là một trong
những vấn đề cấp thiết hiện nay. Đó cũng chính là lý do mà tác giả chọn đề tài “Chế
tài hủy bỏ hợp đồng trong Luật Thƣơng mại 2005” để làm luận văn tốt nghiệp cao
học luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu chế tài hủy bỏ hợp đồng đã và đang được sự quan tâm của rất
nhiều tác giả, được thể hiện trong các cơng trình cũng như các bài viết trên các tạp chí
dưới nhiều góc độ khác nhau. Cụ thể:
- Phạm Thị Trong (2006), Vi phạm hợp đồng khi chưa đến hạn thực hiện nghĩa vụ
- Sự cần thiết phải điều chỉnh trong pháp luật hợp đồng của Việt Nam, Luận văn Thạc
sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh;
- Lê Thị Diễm Phương (2009), Hoàn thiện chế định phạt vi phạm trong pháp luật
hợp đồng thương mại Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Tp.
Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Thị Việt Hà (2010), Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp
đồng trong hoạt động thương mại, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật
Tp. Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Nhật Thanh (2010), Hủy bỏ hợp đồng do vi phạm trong quá trình thực
hiện, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh;
- Bùi Thị Bích Sơn (2011), Tuyên bố hủy bỏ hợp đồng và hậu quả pháp lý của
việc hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước viên 1980 và theo pháp
luật thương mại năm 2005, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh;
- Các bài viết trên các Tạp chí chuyên ngành luật như: Cơ sở lý luận và thực tiễn
của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với vi phạm hợp đồng khi chưa đến hạn thực



3

hiện nghĩa vụ của Dương Anh Sơn đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 04 năm
2006; Một số ý kiến liên quan đến các quy định về chế tài trong thương mại theo Luật
Thương mại của Nguyễn Thị Khế, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 01 năm
2008; Hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm ở Việt Nam của Đỗ Văn Đại, đăng trên Tạp chí
Tịa án Nhân dân số 02 năm 2009; Chế tài phạt vi phạm hợp đồng theo Luật Thương
mại năm 2005 của Nguyễn Việt Khoa, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 15
(200) năm 2011,...
Kết quả đạt được từ các cơng trình nêu trên là tài liệu vơ cùng q báu giúp tác
giả có thêm thơng tin quan trọng phục vụ việc nghiên cứu luận văn. Điển hình như
Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Việt Hà về “Chế tài đình chỉ thực
hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng trong hoạt động thương mại” đã khái quát quy định
về chế tài đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng và chỉ ra những bất cập trong thực tiễn áp dụng.
Trong đó, tác giả đã nêu lên những khó khăn trong q trình thực hiện hoạt động xét
xử khi thuật ngữ “vi phạm cơ bản” vẫn còn là một khái niệm còn khá mới dẫn đến
những hạn chế trong việc xác định hành vi vi phạm; những vướng mắc trong việc xác
định chủ thể nào có quyền u cầu bồi thường thiệt hại, bên đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng
hay bên bị đình chỉ, bị hủy bỏ hợp đồng khi có hành vi vi phạm… Đồng thời, tác giả
Việt Hà cũng đã đưa ra những kiến nghị có giá trị áp dụng cao như: Đề nghị nên pháp
điển hóa căn cứ vi phạm hợp đồng trước thời hạn thực hiện làm cơ sở pháp lý cho việc
đình chỉ và mở rộng phạm vi điều chỉnh này đối với việc hủy bỏ toàn bộ hợp đồng; Đề
nghị xác định rõ phạm vi áp dụng của chế định chế tài trong thương mại theo quy định
của Luật Thương mại 2005 theo hướng sẽ được áp dụng đối với tất cả các tranh chấp
về hợp đồng phát sinh trong hoạt động thương mại, kể cả khi loại hợp đồng đó được
Bộ luật Dân sự 2005 điều chỉnh... Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều nội dung xoay quanh
chế tài hủy bỏ hợp đồng trong Luật Thương mại 2005 cần phải được nghiên cứu như:
Hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng thương mại ảnh hưởng như thế nào đối với
bên thứ ba? Những hạn chế nhất định trong việc xác định thế nào là vi phạm cơ bản
hợp đồng? Và yếu tố cơ bản được xác định theo những tiêu chí nào? Hay một số nội

dung đã được nghiên cứu nhưng vẫn cịn có nhiều luồng quan điểm chưa thống nhất và
bản thân tác giả vẫn muốn phân tích theo một vài khía cạnh khác để cho người đọc có
cái nhìn khái qt hơn, nhận diện đúng bản chất của vấn đề như: Quy định về việc


4

thơng báo hủy bỏ hợp đồng có phải là một điều kiện bắt buộc nếu bên bị vi phạm muốn
hủy bỏ hợp đồng hay không và thực tiễn xét xử của ngành tịa án trong trường hợp này
như thế nào?…
Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của mình, tác giả chỉ tập trung chuyên sâu về
chế tài hủy bỏ hợp đồng trong Luật Thương mại 2005 nhằm làm rõ những bất cập
trong thực tiễn áp dụng còn vướng phải và đưa ra những kiến nghị mới để cùng với các
công trình đã được nghiên cứu về chế tài hủy bỏ hợp đồng sẽ góp phần hồn thiện pháp
luật thương mại Việt Nam nói chung.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ những quy định trong Luật Thương mại
2005 hiện hành và thực tiễn xét xử tại các Tòa án hiện nay khi áp dụng chế tài hủy bỏ
hợp đồng trong hoạt động thương mại. Từ nội dung nghiên cứu nêu trên, tác giả phân
tích những điểm tiến bộ cũng như các vấn đề mà pháp luật vẫn còn bỏ ngõ, những bất
cập của Luật Thương mại 2005 hiện nay trong mối quan hệ so sánh với pháp luật kinh
doanh quốc tế và của một số nước trên thế giới.
Trên cơ sở kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, trong luận văn sẽ đề xuất một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về chế tài hủy bỏ hợp đồng trong Luật Thương
mại 2005, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc áp dụng pháp luật trong hoạt động
thương mại và xét xử của Tòa án.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cơ sở lý luận, thực trạng pháp luật và thực
tiễn áp dụng các quy định về chế tài hủy bỏ hợp đồng trong Luật Thương mại 2005 để
hoàn thiện về mặt lý luận, hoàn thiện các quy định về chế tài hủy bỏ hợp đồng trong

Luật Thương mại 2005 và hậu quả pháp lý của chúng.
Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật, tác giả không đi sâu nghiên
cứu tất cả các chế tài xử lý vi phạm mà chỉ nghiên cứu quy định về chế tài hủy bỏ hợp
đồng trong Luật Thương mại 2005 và những vướng mắc trong việc áp dụng chế tài xử
lý vi phạm này trong việc giải quyết một số vụ án tranh chấp cụ thể để làm rõ những
bất cập mà thực tiễn vướng phải. Ngoài ra, nhằm làm rõ nội dung trên, tác giả cũng sẽ


5

nghiên cứu thêm các quy định về chế tài hủy bỏ hợp đồng trong mối quan hệ so sánh
với một số văn bản pháp luật có liên quan khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích án
nhằm hỗ trợ làm rõ các bất cập mà quy định về chế tài hủy bỏ hợp đồng trong Luật
Thương mại 2005 cịn vướng phải.
Ngồi ra, trong nội dung của chương 1, tác giả áp dụng phương pháp so sánh
pháp luật và phân tích một số vụ án điển hình về hủy bỏ hợp đồng trong hoạt động
thương mại của một số quốc gia trên thế giới nhằm hỗ trợ cho người đọc có thể đánh
giá khái quát hơn về tầm quan trọng của chế tài này, cũng như việc thống nhất quan
điểm về sự điều chỉnh pháp luật như thế nào cho phù hợp với hoạt động thực tiễn hiện
nay.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Với việc nghiên cứu một cách có hệ thống những quy định pháp luật về chế tài
hủy bỏ hợp đồng trong Luật Thương mại 2005 và phân tích những bất cập, thiếu sót,
những vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật hiện hành nhằm tìm ra hướng hồn
thiện pháp luật về chế tài hủy bỏ hợp đồng trong Luật Thương mại 2005 nói riêng và
hồn thiện các chế tài trong thương mại nói chung, Luận văn sẽ góp phần làm phong
phú các tài liệu học tập của sinh viên và là tài liệu tham khảo cho các tổ chức, cá nhân
đã, đang và sẽ tham gia hoạt động kinh doanh thương mại hoặc giải quyết các tranh

chấp liên quan đến chế tài hủy bỏ hợp đồng.
7. Bố cục của luận văn nhƣ sau
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận
văn gồm 2 chương:
Chương 1. Các khía cạnh pháp lý của chế tài hủy bỏ hợp đồng trong Luật
Thương mại 2005
Chương 2. Các bất cập trong quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng chế tài hủy
bỏ hợp đồng và kiến nghị hoàn thiện


6

CHƢƠNG 1. CÁC KHÍA CẠNH PHÁP LÝ CỦA CHẾ TÀI HỦY BỎ HỢP
ĐỒNG TRONG LUẬT THƢƠNG MẠI 2005
1.1. Khái niệm hủy bỏ hợp đồng
Trên cơ sở kế thừa Luật Thương mại 1997 và tham khảo pháp luật kinh doanh
quốc tế, Ban soạn thảo Luật Thương mại sửa đổi năm 2005 đã xây dựng một chế tài
hủy bỏ hợp đồng khá hoàn chỉnh và phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam hiện
nay.
Tuy nhiên, trước khi nêu khái niệm của chế tài hủy bỏ hợp đồng trong LTM
2005, tác giả muốn tìm hiểu, liệu luật thực định của Việt Nam (không bao gồm LTM
2005), luật thực định của một số quốc gia có nền lập pháp lâu đời và pháp luật kinh
doanh quốc tế1 (international business law) đã và đang quy định về chế tài hủy bỏ hợp
đồng như thế nào?
Trước hết, chế tài hủy bỏ hợp đồng trong luật thực định Việt Nam được tìm thấy
trong một số luật, pháp lệnh trước đây và cả trong BLDS 2005 hiện hành. Cụ thể: Căn
cứ khoản 3 Điều 28 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 (PLHĐKT): “Các bên phải cùng
nhau thanh lý hợp đồng kinh tế trong trường hợp hợp đồng kinh tế bị đình chỉ thực
hiện hoặc hủy bỏ”.
Có thể thấy, quy định về hủy bỏ hợp đồng trong PLHĐKT chỉ được nêu lên như

một nguyên nhân dẫn đến việc thanh lý hợp đồng nhằm đạt được mục đích giải phóng
quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thực hiện đối với bên kia, tránh các tranh chấp về sau
có thể xảy ra đối với các phần quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thực hiện chứ chưa
quy định cụ thể những trường hợp nào các bên được hủy bỏ hợp đồng.
Luật Thương mại 1997 (LTM 1997) đã tìm cách khắc phục hạn chế của
PLHĐKT thơng qua nội dung được quy định tại Điều 235: “Bên có quyền lợi bị vi
phạm tuyên bố hủy hợp đồng nếu việc vi phạm của bên kia là điều kiện để hủy hợp
đồng mà các bên đã thỏa thuận”. Như vậy, thay vì định nghĩa về hủy bỏ hợp đồng,
LTM 1997 chỉ liệt kê điều kiện mà bên bị vi phạm có thể căn cứ để yêu cầu hủy bỏ.
1

Nguyễn Thị Mơ (Chủ biên) (2005), Sửa đổi Luật Thương mại Việt Nam phù hợp với pháp luật và tập quán
thương mại quốc tế, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 58.


7

Điểm bất cập của quy định này là nếu các bên khơng có thỏa thuận trước về điều kiện
hủy bỏ thì bên bị vi phạm sẽ khơng có căn cứ để hủy bỏ hợp đồng và sẽ phải chờ cho
đến khi hết thời hạn hợp đồng mới chấm dứt các quyền và nghĩa vụ với nhau. Ngoài ra,
LTM 1997 cũng đã không đề cập đến hậu quả pháp lý đối với các thỏa thuận liên quan
đến các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và liên quan đến việc giải quyết
tranh chấp, không đề cập đến cách thức giải quyết nếu một hoặc các bên khơng thể
hồn trả bằng chính lợi ích đã nhận khi hủy bỏ hợp đồng... Đây cũng là một trong
những nội dung đã được Ban soạn thảo Luật Thương mại sửa đổi tham khảo và bổ
sung trong LTM 2005.
BLDS 2005 cũng quy định chế tài này và cũng chỉ thể hiện dưới dạng điều kiện
bị hủy bỏ, kèm theo đó là hậu quả pháp lý từ việc hủy bỏ hợp đồng. Cụ thể quy định tại
khoản 1 Điều 425 BLDS 2005: “Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và khơng phải bồi
thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa

thuận hoặc pháp luật có quy định” và “Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng khơng có
hiệu lực từ thời điểm giao kết” (khoản 3 Điều 425 BLDS 2005).
Như vậy, chế tài hủy bỏ hợp đồng trong luật thực định Việt Nam không được
xác định bằng ngôn ngữ nhất định những đặc trưng cơ bản tạo thành nội dung của khái
niệm hủy bỏ hợp đồng mà chỉ được thể hiện dưới dạng liệt kê các điều kiện hủy bỏ.
Tiếp đến, khoản 1 Điều 64 và khoản 1 Điều 49 của CISG cũng quy định về hủy
bỏ hợp đồng: Khi một bên có sự vi phạm cơ bản hợp đồng hoặc khi một bên không thực
hiện hợp đồng trong thời gian đã được gia hạn thêm.
Ngoài ra, Điều 25 CISG quy định về vi phạm cơ bản: “Một sự vi phạm hợp
đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt
hại mà người bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ
đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi phạm khơng tiên liệu được hậu quả đó và một
người có lý trí minh mẫn cũng sẽ khơng thể tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn
cảnh tương tự”2. Tuy nhiên, giải thích này cũng rất khó xác định như thế nào là vi
phạm cơ bản và vi phạm thơng thường. Vấn đề này thường là do Tịa án hay Trọng tài
sẽ tự quyết định.

2

Bản dịch của Nhóm nghiên cứu về CISG - thuộc Ủy ban Tư vấn về Chính sách Thương mại Quốc tế – VCCI


8

Bộ luật Dân sự Nhật Bản (lần sửa đổi 2006) (Sau đây gọi là “BLDS Nhật Bản”)
cũng có cách quy định chế tài hủy bỏ hợp đồng giống như BLDS 2005 khi liệt kê các
điều kiện để được hủy bỏ. Cụ thể, Điều 540.1 BLDS Nhật Bản quy định: “Nếu một
trong các bên có quyền hủy bỏ hợp đồng theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp
luật thì việc hủy bỏ sẽ được thực hiện bởi hành vi tuyên bố ý chí [của bên hủy bỏ] tới
bên kia” và Điều 545.1 BLDS Nhật Bản quy định: “Nếu một bên thực hiện quyền hủy

bỏ thì bên kia có trách nhiệm hồn trả bên hủy bỏ trở lại vị trí ban đầu. Tuy nhiên, việc
hủy bỏ này không được ảnh hưởng đến các quyền của bên thứ ba”.
Như vậy, pháp luật kinh doanh quốc tế và pháp luật của một số nước có nền lập
pháp lâu đời cũng chỉ dừng lại ở việc liệt kê các điều kiện để bên bị vi phạm áp dụng
nhằm làm cơ sở pháp lý để yêu cầu hủy bỏ hợp đồng chứ không được đúc kết thành
ngôn ngữ nhất định những đặc trưng cơ bản tạo thành nội dung của khái niệm hủy bỏ
hợp đồng.
Liệu cách thức thể hiện của chế tài hủy bỏ hợp đồng trong LTM 2005 có gì khác
hơn so với pháp luật kinh doanh quốc tế, luật thực định của một số quốc gia đã được đề
cập hay không?
Căn cứ Điều 312 LTM 2005 quy định: Hủy bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn
bộ hợp đồng, hủy bỏ một phần hợp đồng và căn cứ áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng là
khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện hủy bỏ hợp đồng hay
một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Như vậy, so với việc không đưa ra định
nghĩa hủy bỏ hợp đồng trong luật thực định của Việt Nam (không bao gồm LTM
2005), luật thực định của một số quốc gia có nền lập pháp lâu đời và pháp luật kinh
doanh quốc tế đã được phân tích nêu trên, LTM 2005 lại có một cách tiếp cận khác khi
phân loại hủy bỏ hợp đồng thành hủy bỏ toàn bộ và hủy bỏ một phần hợp đồng. Đồng
thời, đưa ra định nghĩa của từng loại hủy bỏ hợp đồng3, liệt kê các căn cứ để hủy bỏ
hợp đồng, bổ sung các thủ tục áp dụng, hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng
(Điều 314, Điều 315 LTM 2005).
3

Khoản 2 Điều 312 LTM 2005: “Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các
nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng”.
Khoản 3 Điều 312 LTM 2005: “Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp
đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn có hiệu lực”.


9


Nhìn chung, quy định về hủy bỏ hợp đồng trong LTM 2005 nói riêng đã có sự
tương thích với pháp luật kinh doanh quốc tế khi đưa hủy bỏ hợp đồng trở thành một
trong những chế tài không thể thiếu trong việc giải quyết tranh chấp thương mại. Theo
tinh thần Điều 312 LTM 2005, tác giả đề xuất khái niệm hủy bỏ hợp đồng như sau:
Hủy bỏ hợp đồng là một trong những hình thức chế tài trong thương mại, theo đó bên
bị vi phạm có quyền bãi bỏ hồn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ trong toàn bộ
hợp đồng hoặc bãi bỏ thực hiện một phần hợp đồng đã có hiệu lực và làm cho hợp
đồng hoặc một phần hợp đồng khơng có hiệu lực từ thời điểm giao kết nếu bên vi phạm
có hành vi vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng hoặc có hành vi vi phạm mà các bên đã
thỏa thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng, trừ trường hợp miễn trách nhiệm được
quy định tại Điều 294 LTM 2005.
1.2. Phân loại chế tài hủy bỏ hợp đồng
Căn cứ Điều 312 LTM 2005 thì hủy bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp
đồng và hủy bỏ một phần hợp đồng.
Trong đó, “hủy bỏ tồn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất
cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng” (khoản 2 Điều 312 LTM 2005)
còn “hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng,
các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực” (khoản 3 Điều 312 LTM 2005).
Mục đích từ việc phân loại như trên là nhằm đảm bảo được bản chất của chế tài
hủy bỏ hợp đồng, đảm bảo ý nguyện của các bên trong việc xác định là hủy bỏ một
phần hợp đồng và tiếp tục thực hiện phần cịn lại hay hủy bỏ tồn bộ hợp đồng. Việc
ghi nhận hình thức hủy bỏ một phần hợp đồng trong luật thực định Việt Nam là một
trong những bước tiến mới trong việc điều chỉnh pháp luật quốc gia ngày càng tương
thích với pháp luật kinh doanh quốc tế, tạo một hành lang pháp lý cho các bên trong
việc giải phóng một phần nghĩa vụ mà các bên không phải thực hiện khi xảy ra vi
phạm, phần cịn lại khơng bị hủy bỏ vẫn có hiệu lực và buộc các bên vẫn tiếp tục thực
hiện.



10

Ví dụ 01:
Liên quan đến yêu cầu hủy bỏ hợp đồng số 04/HĐKT/2008 ngày 02/6/2008 của
Công ty Như Quyền đối với Cơng ty Lê An4.
Tóm tắt vụ án: Cơng ty Như Quyền có ký kết hợp đồng cung ứng dịch vụ từng
phần, bao gồm:
Phần thứ nhất: Lập thiết kế sơ bộ kiến trúc xây dựng cơng trình (theo “Bảng
tính tốn” – tài liệu đính kèm hợp đồng – thì phần cơng việc này có giá trị là
177.265.000 đồng);
Phần thứ hai: Lập thủ tục xin ý kiến chỉ tiêu quy hoạch kiến trúc xây dựng cơng
trình, được Sở Quy hoạch Kiến trúc đồng ý (theo “Bảng tính tốn” – tài liệu đính kèm
hợp đồng – thì phần cơng việc này có giá trị là 165.000.000 đồng).
Theo thỏa thuận thì Cơng ty Lê An có nghĩa vụ giao cho Cơng ty Như Quyền
văn bản của Sở Quy hoạch Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh về chỉ tiêu quy hoạch
kiến trúc trong thời hạn 2,5 tháng sau khi ký hợp đồng (thời hạn sau cùng để thực hiện
là ngày 17/8/2008) và tại Mục 7.2 Điều 7 của hợp đồng, các bên có quy định: Một
trong các bên có quyền hủy bỏ hợp đồng khi bên kia vi phạm hợp đồng; bên hủy bỏ
phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ; khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp
đồng khơng có hiệu lực từ thời điểm bị hủy bỏ, các bên có trách nhiệm cùng xử lý giải
quyết các vấn đề tồn tại và thực hiện thanh lý hợp đồng.
Tuy nhiên, cho đến ngày 27/11/2008 (ngày Công ty Như Quyền có văn bản
thơng báo chấm dứt hợp đồng gửi cho Công ty Lê An), Công ty Lê An vẫn chưa hồn
thành cơng việc này. Do vậy, Cơng ty Như Quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng đã ký kết.
Phán quyết của Tòa án: Tòa án nhân dân Quận 11, Tp. Hồ Chí Minh ban hành
Bản án số 02/2010/KDTM-ST ngày 12/01/2010 với nội dung chỉ chấp thuận hủy một
phần hợp đồng liên quan đến việc lập thủ tục xin ý kiến chỉ tiêu quy hoạch kiến trúc
xây dựng cơng trình, được Sở Quy hoạch Kiến trúc đồng ý.
Lập luận: Công ty Lê An đã thực hiện xong việc lập hồ sơ thiết kế sơ bộ kiến
trúc xây dựng cơng trình; đồng thời đã thực hiện việc giao hồ sơ cho Công ty Như

Quyền vào ngày 13/8/2008. Trong thời gian từ ngày 13/8/2008 đến thời điểm trước khi
4

Đỗ Văn Đại (2013), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án, tập 2, tái bản lần thứ tư, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội, tr. 571-613.


11

Tịa án nhân dân Quận 11, Tp. Hồ Chí Minh mở phiên tịa là gần 17 tháng, Cơng ty
Như Quyền khơng có bất kỳ khiếu nại, thắc mắc gì về việc này nên yêu cầu hủy phần
thứ nhất của hợp đồng là khơng có cơ sở.
Liên quan phần thứ hai của hợp đồng thì rõ ràng Cơng ty Lê An đã vi phạm thời
hạn hồn thành cơng việc như thỏa thuận nên căn cứ vào Mục 7.2 Điều 7 của hợp đồng
và khoản 1 Điều 313 LTM 2005, Tòa án chấp nhận hủy một phần hợp đồng số
04/HĐKT/2008 ngày 02/6/2008.
Như vậy, việc chấp nhận hủy bỏ một phần hợp đồng theo quy định LTM 2005
đã đảm bảo không chỉ quyền lợi của Công ty Như Quyền khi buộc bên vi phạm phải
hoàn số tiền đã nhận tương ứng với phần hợp đồng bị hủy bỏ mà còn đảm bảo quyền
lợi của Công ty Lê An khi vẫn nhận được khoản phí sau khi đã hồn thành nghĩa vụ
thực hiện phần cơng việc của mình trước đó.
Cùng điều chỉnh về vấn đề này, Ðiều 51 CISG quy định: “Nếu người bán chỉ
giao một phần hàng hóa hoặc nếu chỉ một phần hàng hóa đã giao phù hợp với hợp
đồng thì các Điều 46 đến 50 sẽ được áp dụng đối với phần hàng hóa thiếu hoặc phần
hàng khơng phù hợp với hợp đồng” và “Người mua chỉ được tuyên bố hủy bỏ tồn bộ
hợp đồng, nếu việc khơng thực hiện hợp đồng hoặc một phần hàng giao không phù hợp
với hợp đồng cấu thành một sự vi phạm cơ bản hợp đồng”.
Ví dụ 02:
Cơng ty A và Cơng ty B ký hợp đồng mua bán sắt (giả thiết là các quốc gia nơi

mà hai pháp nhân đặt trụ sở đều là thành viên của CISG). Trong đó, Cơng ty A là bên
cung cấp sắt theo đơn đặt hàng của Công ty B. Theo yêu cầu từ Công ty B (giả thiết là
Cơng ty A cũng đã có thư phúc đáp cam kết đảm bảo số lượng và tiêu chuẩn do Công
ty B yêu cầu), Công ty A đã giao đủ 09 tấn sắt vào ngày 03/4/2013 (đợt 1) và sẽ phải
giao đủ 10 tấn sắt với tiêu chuẩn không thay đổi như đợt 1 vào ngày 05/4/2013 (đợt 2).
Tuy nhiên, đến ngày 05/4/2013, ngày giao hàng đợt 2, Công ty A mới giao cho Công ty
B được 02 tấn so với đơn đặt hàng. Căn cứ quy định của CISG, Công ty B được quyền
hủy bỏ 08 tấn sắt còn lại và u cầu bồi thường nhưng khơng được hủy tồn bộ hợp
đồng.
Bộ luật Dân sự Pháp khơng có quy định về hủy bỏ một phần hợp đồng nhưng
thực tiễn đã chấp nhận khả năng hủy bỏ một phần hợp đồng và một tiền Dự thảo sửa


12

đổi Bộ luật Dân sự Pháp đã ghi nhận khả năng này như sau: “hủy bỏ hợp đồng có thể
được tiến hành chỉ đối với một phần của hợp đồng khi việc thực hiện hợp đồng có thể
phân chia được”5.
Đối chiếu với quy định về chế tài hủy bỏ hợp đồng được quy định tại BLDS
2005, việc không điều chỉnh hủy bỏ một phần hợp đồng trong BLDS 2005 đã và đang
gây ra những khó khăn khơng nhỏ trong q trình áp dụng. Hậu quả là nhiều bản án,
quyết định của Tòa án được ban hành với nội dung là hủy một phần hợp đồng đã ký kết
nhưng lại không có căn cứ pháp lý để áp dụng.
Như vậy, sự tương thích giữa các quy định về hủy bỏ hợp đồng trong LTM
2005 với pháp luật kinh doanh quốc tế, luật thực định của của số nước có nền lập pháp
lâu đời đủ để thấy được bước tiến trong kỹ thuật lập pháp của Ban soạn thảo Luật
Thương mại sửa đổi như thế nào.
1.3. Căn cứ áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng
1.3.1. Khi xảy ra vi phạm cơ bản hợp đồng
Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 312 LTM 2005, chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp

dụng trong trường hợp một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng, “là sự vi phạm hợp
đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia khơng đạt được
mục đích của việc giao kết hợp đồng” (khoản 13 Điều 3 LTM 2005). Đây là một khái
niệm mới được đưa vào trong LTM 2005 nhằm phân biệt với các vi phạm không cơ
bản để từ đó quy định cách thức xử lý hành vi vi phạm tương ứng với mức độ vi phạm.
Như vậy, dấu hiệu để xác định một hành vi có vi phạm cơ bản hợp đồng hay
không phải dựa vào các yếu tố sau:
1. Phải có sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng;
2. Sự vi phạm nghĩa vụ đó phải dẫn đến hậu quả là bên cịn lại khơng đạt được
mục đích của việc giao kết hợp đồng.
Đây là một quy định mang tính mở rộng, khái quát cao khi cho phép các bên có
cơ sở pháp lý để yêu cầu hủy bỏ hợp đồng ngay cả khi hợp đồng đó không phải là hợp
đồng thương mại thông dụng cũng như tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan giải quyết
tranh chấp về hợp đồng.
5

Đỗ Văn Đại, tlđd 4, tr. 601.


13

Ví dụ 01 sau sẽ giúp chúng ta xác định được đâu là vi phạm cơ bản để làm căn
cứ tuyên bố hủy bỏ hợp đồng.
Tóm tắt vụ án: Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 009/HDMB/DDT
ngày 02/8/2006 giữa Cơng ty TNHH Cơ khí Sói Đất và Cơng ty TNHH Đông Đô
Thành6. Nội dung cụ thể như sau:
Ngày 02/8/2006, Cơng ty TNHH Cơ khí Sói Đất ký hợp đồng mua 01 chiếc xe ô
tô loại Matiz Se Color 05 chỗ, mới 100% từ Công ty TNHH Đông Đô Thành.
Ngày 08/8/2006, Công ty TNHH Đông Đô Thành giao xe nhưng không đúng
quy cách, quy định trong hợp đồng. Cụ thể: Xe ôtô Công ty TNHH Đông Đô

Thành giao là xe ôtô được lắp ráp tại Việt Nam năm 2005. Năm lắp ráp là 2005, đã
được nhà sản xuất Công ty Daewoo Việt Nam xác nhận và chất lượng xe cũng khơng
tốt, như có nhiều vết han rỉ, sơn bị phồng rộp nhiều chỗ. Cơng ty TNHH Cơ khí Sói
Đất từ chối nhận xe và có khiếu nại yêu cầu Công ty TNHH Đông Đô Thành giao xe
theo đúng hợp đồng là loại được lắp ráp tại Việt Nam năm 2006. Nhưng Công ty
TNHH Đông Đô Thành không giải quyết khiếu nại trên của Cơng ty TNHH Cơ khí Sói
Đất. Ngày 08/9/2006, Cơng ty TNHH Cơ khí Sói Đất có văn bản số 139/CV-AA gởi
Công ty TNHH Đông Đô Thành thông báo hủy bỏ hợp đồng, yêu cầu Công ty TNHH
Đông Đô Thành trả lại số tiền 13.000 USD nhưng Công ty TNHH Đông Đô Thành
không đáp ứng yêu cầu của Cơng ty TNHH Cơ khí Sói Đất.
Phán quyết của Tòa án: Căn cứ khoản 1, 2, 3 Điều 314, Điều 319 LTM 2005,
ngày 20/9/2007 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh ban hành Bản án số
1743/2007/KDTM-ST với nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH
Cơ khí Sói Đất về hủy hợp đồng mua bán số 009/HDMB/DDT ngày 02/8/2006 giữa
Cơng ty TNHH Cơ khí Sói Đất với Cơng ty TNHH Đơng Đơ Thành.
Lập luận: Tịa án cho rằng theo văn bản không số ngày 25/8/2006 của
VIDAMCO và các bên ký kết hợp đồng đều thừa nhận Công ty TNHH Đông Đô
Thành giao xe ôtô theo hợp đồng trên cho Cơng ty TNHH Cơ khí Sói Đất là ôtô Matiz
Color, màu ghi, số khung VVAMMH08055, số máy F8CV375201KA2, là xe mới, sản

6

/>
oto-va-buoc-Cong-ty.aspx; truy cập ngày 11/6/2014.


14

xuất lắp ráp tại xưởng ngày 09/12/2005. Đây cũng là mẫu xe mới nhất trên thị trường
Việt Nam.

Như vậy Công ty TNHH Cơ khí Sói Đất đã khiếu nại và khởi kiện Công
ty TNHH Đông Đô Thành giao hàng không đúng với nội dung Điều 1 của hợp đồng về
quy cách hàng hóa là “Lắp ráp tại Việt Nam năm 2006” được quy định tại Hợp đồng
số 009/HDMB/DDT ngày 02/8/2006 là có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 4
Điều 312 LTM 2005 và hành vi giao hàng không đúng quy cách được xem là một
trong những hành vi vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng.
Sau khi nghiên cứu một cách tổng thể thì khái niệm vi phạm cơ bản trong LTM
2005 có vẻ như đã rõ ràng, cụ thể nhưng khó khăn lớn nhất trong q trình áp dụng là
việc xác định mục đích của việc giao kết hợp đồng là gì? Một hành vi vi phạm đến
mức nào thì được xem là vi phạm cơ bản hợp đồng? Yếu tố cơ bản được xác định theo
tiêu chí nào? Cho đến nay vẫn chưa có bất cứ một văn bản hướng dẫn, giải thích rõ nội
hàm của khái niệm vi phạm cơ bản nói trên.
So với pháp luật kinh doanh quốc tế thì thuật ngữ pháp lý này không phải là quá
mới với các chuyên gia nghiên cứu luật pháp cũng như những người hoạt động trong
lĩnh vực pháp luật, thậm chí với các bên trong giao dịch. CISG cũng xác định vi phạm
cơ bản hợp đồng là một trong những căn cứ dẫn đến việc hủy bỏ hợp đồng nhưng
vướng mắc trong việc xác định đâu là vi phạm cơ bản trong việc giải quyết các vụ án
về tranh chấp kinh doanh quốc tế cũng là một trong những trở ngại. Cụ thể, khái niệm
vi phạm cơ bản hợp đồng được quy định tại Điều 25 CISG: “Một sự vi phạm hợp đồng
do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà
người bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi
trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi phạm không tiên liệu được hậu quả đó và một
người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh
tương tự”. Từ quy định trên ta có thể xác định một hành vi là vi phạm cơ bản trong
CISG phải thỏa mãn:
1. Phải có sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng;
2. Sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đó phải dẫn đến hậu quả là một bên mất đi
điều mà họ chờ đợi từ hợp đồng;
3. Bên vi phạm không thể tiên liệu được hậu quả đó.



15

Ví dụ 02:
Tranh chấp giữa Cơng ty Diversitel Communications Inc. (Canada) và Công ty
Glacier Bay Inc. (Mỹ) về việc người bán Mỹ chậm giao hàng theo quy định trong hợp
đồng7.
Tóm tắt vụ án: Người mua Canada và người bán Mỹ đã ký kết một hợp đồng
mua bán hệ thống cách điện chân không. Để đáp ứng những thỏa thuận đã tồn tại từ
trước tới nay đến Bộ Quốc phòng Canada về chất lượng thiết bị và quá trình lắp đặt hệ
thống tại một nhà máy ở Bắc Cực, người mua đã cố định một lịch trình giao hàng cụ
thể.
Người mua đã thanh toán theo giá hợp đồng nhưng người bán không giao hàng
trong thời gian đã thỏa thuận. Người mua đã kiện người bán ra Tòa án Tư pháp tối cao
bang Ontario yêu cầu hủy hợp đồng. Người bán không đồng ý, cho rằng người mua
không đủ căn cứ để hủy hợp đồng.
Phán quyết của Tòa án: Căn cứ khoản 1 Điều 49 CISG, Tòa Tư pháp tối cao
tại Ontario (Ontario Supreme Court of Justice) tuyên bố người mua có quyền hủy hợp
đồng.
Lập luận: Tịa án cho rằng lịch trình giao hàng đã ấn định trong hợp đồng và
đây là yếu tố vô cùng quan trọng đối với người mua vì thiết bị do người bán cung cấp
phải được lắp đặt trong một thời gian ngắn tại Bắc Cực. Mùa hè ở Bắc Cực rất ngắn
nên nếu người bán giao hàng chậm, người mua sẽ không lắp đặt được thiết bị theo thỏa
thuận với Bộ Quốc phòng Canada và như vậy, người mua sẽ khơng đạt được mục đích
của mình khi giao kết hợp đồng với người bán. Người bán cũng biết về tầm quan trọng
đó vì trên thực tế, người bán đã biết rằng những thiết bị do người bán cung cấp sẽ được
lắp đặt tại Bắc Cực tuân theo những thỏa thuận có trước giữa người mua với Bộ Quốc
phịng Canada. Do vậy, hành vi giao hàng khơng đúng thời hạn được xem như người
bán đã vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng.


7

Nguyễn Minh Hằng, Hủy hợp đồng do chậm giao hàng, />
hop-dong-do-cham-giao-hang.htm; truy cập ngày 06/4/2014.


16

Điểm khác biệt giữa việc xác định có vi phạm cơ bản hay không trong LTM
2005 và CISG là dù hành vi vi phạm hợp đồng dẫn đến thiệt hại cho bên bị vi phạm
nhưng hành vi vi phạm hợp đồng đó sẽ khơng bị coi là vi phạm cơ bản hợp đồng trong
CISG nếu “bên vi phạm không thể tiên liệu được hậu quả trước đó và một người có lí
trí minh mẫn cũng sẽ khơng tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự”.
Nội dung quy định trên trong CISG thể hiện rằng khả năng nhìn thấy trước hậu quả của
hành vi vi phạm hợp đồng là yếu tố cần thiết để xác định hành vi đó có phải là một sự
vi phạm cơ bản hay khơng bên cạnh những yếu tố khác như có hành vi vi phạm và hậu
quả phát sinh. So với quy định của LTM 2005, phương diện tiếp cận của CISG mang
tính khách quan, khái quát hơn và đảm bảo quyền lợi cho cả bên vi phạm và bên bị vi
phạm. Bởi lẽ, việc quy định một hành vi được xem là vi phạm cơ bản phải kèm theo
điều kiện là bên vi phạm phải thấy trước hậu quả của hành vi mà mình thực hiện và
việc nhìn thấy trước được hay khơng sẽ phụ thuộc vào trình độ chun mơn, kinh
nghiệm thực tế, hồn cảnh xảy ra hành vi…
Ngồi thuật ngữ “vi phạm cơ bản” được quy định trong LTM 2005 và CISG,
thì “vi phạm nghiêm trọng” cũng là một trong những thuật ngữ được thể hiện nhiều
trong pháp luật kinh doanh quốc tế và dấu hiệu nhận biết một hành vi có vi phạm
nghiêm trọng hay khơng bằng cách tham khảo các tiêu chí ngay trong điều luật như
một cơ sở nhằm xác định có dấu hiệu để hủy bỏ hợp đồng hay không. Cụ thể:
Điều 7.3.1 Bộ Nguyên tắc UNIDROIT quy định các căn cứ xác định vi phạm
nghĩa vụ của một bên là vi phạm nghiêm trọng khi:
“a. Việc không thực hiện làm mất đi chủ yếu những gì người có quyền được

mong đợi từ hợp đồng, trừ trường hợp bên có nghĩa vụ đã khơng thể dự tính trước
hoặc đã khơng thể dự tính trước một cách hợp lý hậu quả này;
b. Việc thực hiện nghiêm ngặt nghĩa vụ là bản chất của hợp đồng;
c. Việc khơng thực hiện là cố ý hoặc khơng tính đến hậu quả;
d. Việc không thực hiện khiến cho bên có quyền tin rằng khơng thể tin cậy vào
việc thực hiện hợp đồng trong tương lai;
e. Trong trường hợp hủy hợp đồng, bên có nghĩa vụ có thể sẽ phải chịu những
tổn thất quá mức do sự chuẩn bị hoặc việc thực hiện hợp đồng”.


17

Thiết nghĩ, việc liệt kê các hành vi được xem là vi phạm nghiên trọng trong Bộ
Nguyên tắc UNIDROIT là một hướng đi có thể giúp chúng ta giải quyết được những
khó khăn trước mắt trong việc xác định đâu là vi phạm cơ bản.
Tương tự như cách tiếp cận của Bộ Nguyên tắc UNIDROIT, luật thực định của
Nhật Bản cũng quy định về chế tài hủy bỏ hợp đồng có thể được áp dụng nếu các bên
có thỏa thuận hoặc khi pháp luật có quy định8. Tuy nhiên, khác với LTM 2005, BLDS
Nhật Bản có một loạt các điều khoản được liệt kê từ Điều 541 đến Điều 543 để hướng
dẫn cho trường hợp pháp luật có quy định về chế tài hủy bỏ hợp đồng thông qua các
căn cứ chung nhằm cho phép hủy bỏ hợp đồng và được phép áp dụng cho tất cả các
loại hợp đồng. Các căn cứ này bao gồm: Hủy bỏ vì lý do không thực hiện; quá hạn và
không thể thực hiện9. Và như vậy, các căn cứ chung cho phép hủy bỏ hợp đồng được
quy định trong BLDS Nhật Bản cũng là một cách tiếp cận mà các nhà làm luật của Việt
Nam nên tham khảo để hướng dẫn cách xác định những hành vi nào được xem là vi
phạm cơ bản.
1.3.2. Khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện hủy bỏ hợp
đồng
Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 312 LTM 2005 quy định, chế tài hủy bỏ hợp đồng
được áp dụng trong trường hợp “Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là

8

Điều 540.1 BLDS Nhật Bản quy định: “Nếu một trong các bên có quyền hủy bỏ hợp đồng theo thỏa thuận hay

theo quy định của pháp luật thì việc hủy bỏ sẽ được thực hiện bởi hành vi tuyên bố ý chí [của bên hủy bỏ] tới bên
kia”.
9
“Điều 541. Hủy bỏ vì lý do khơng thực hiện
Nếu một bên khơng thực hiện trái vụ của mình thì bên kia có quyền định ra một thời gian hợp lý và yêu cầu bên
kia thực hiện [trái vụ trong thời hạn này]. Bên yêu cầu có quyền hủy bỏ hợp đồng nếu bên kia không thực hiện
trái vụ trong thời gian đã định.
Điều 542. Hủy bỏ vì quá hạn
Căn cứ vào bản chất của hợp đồng hoặc ý chí của các bên, nếu đối tượng của hợp đồng khơng thể đạt được trừ
khi nó được thực hiện tại một thời điểm hoặc trong một thời hạn định trước, thì nếu một bên hợp đồng đã để thời
điểm hoặc thời hạn này trôi qua mà không thực hiện trái vụ của mình, bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng ngay
lập tức mà không cần đưa ra một thời hạn [bổ sung] nêu tại Điều trên.
Điều 543. Hủy vì không thể thực hiện
Nếu việc thực hiện trái vụ trở nên khơng thể vì lý do bên thụ trái chịu trách nhiệm một phần hoặc tồn bộ, trái
chủ có quyền hủy bỏ hợp đồng”.


18

điều kiện để hủy bỏ hợp đồng”. Đây là một điều khoản hợp lý bởi lẽ bản chất của hợp
đồng là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hay
chấm dứt quyền và nghĩa vụ trên cơ sở tự do, tự nguyện và bình đẳng10.
Xin dẫn chứng trường hợp xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận
trong hợp đồng như sau:
Ví dụ:
Tóm tắt vụ án: Trong vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 0709/HĐKT ngày 17/3/2009 giữa nguyên đơn là Công ty Cổ phần An Sơn và bị đơn là

Công ty TNHH Thang máy Á Châu11, Tịa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh đã xác định
có hành vi vi phạm trong quá trình thực hiện hợp đồng của cả hai bên. Cụ thể:
- Công ty TNHH Thang máy Á Châu vận chuyển thiết bị đến cơng trình chậm 41
ngày; khi giao thiết bị đến cơng trình, Cơng ty TNHH Thang máy Á Châu không bàn
giao cụ thể chứng từ liên quan theo quy định của hợp đồng.
- Công ty Cổ phần An Sơn đã thanh tốn khơng đầy đủ số tiền đợt 1 như đã cam
kết; Công ty Cổ phần An Sơn không bàn giao hố thang máy cho Công ty TNHH
Thang máy Á Châu thi công sau khi đã xây xong…
Theo nội dung “Biên bản lắp đặt cầu thang máy” ngày 24/3/2010 (BL 129), các
bên đã thỏa thuận hủy bỏ hợp đồng số 07-09/HĐKT ngày 17/3/2009 và đây là ý chí tự
nguyện giữa các bên nên có giá trị pháp lý thi hành.
Phán quyết: Căn cứ Điều 312 LTM 2005, Bản án sơ thẩm của Tịa án nhân dân
Quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh và Bản án phúc thẩm của Tịa án nhân dân Tp. Hồ
Chí Minh đã tun hủy bỏ hợp đồng mua bán số 07-09/HĐKT ngày 17/3/2009.
Liên quan đến quy định về hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều
kiện hủy bỏ hợp đồng nêu trên, BLDS 2005 và pháp luật kinh doanh quốc tế cũng xác
định hành vi vi phạm do các bên thỏa thuận là căn cứ để hủy bỏ hợp đồng. Cụ thể:

10

Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt

Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 109.
11
Bản án số: 618/2012/KDTM-PT ngày 01/6/2012 về “V/v tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” của Tịa án
nhân dân Tp. Hồ Chí Minh (do bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 23/2011/KDTM-ST ngày 05/9/2011
của Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh bị kháng cáo).


19


Căn cứ khoản 1 Điều 425 BLDS 2005: “Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và
khơng phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà
các bên đã thỏa thuận”. Như vậy, các bên có quyền thỏa thuận với nhau về điều kiện
hủy bỏ hợp đồng tuy nhiên nội dung của thỏa thuận này không được trái với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam hoặc vi phạm đạo đức xã hội, thuần phong
mỹ tục.
Đối với CISG, khơng có điều khoản quy định trực tiếp thỏa thuận của các bên là
điều kiện để hủy bỏ hợp đồng và cũng khơng có điều khoản nào bác bỏ nội dung trên
nên các bên vẫn có quyền thỏa thuận trước các điều khoản vi phạm nào làm cho hợp
đồng bị hủy bỏ khi ký kết. Điểm quan trọng ở đây là CISG cịn quy định thêm “Một
hợp đồng có thể được sửa đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa thuận đơn thuần giữa các
bên” (khoản 1 Điều 29 CISG). Đây được xem như là một quy định linh hoạt được hình
thành trong quá trình thực hiện hợp đồng nhằm quyết định việc chấm dứt thực hiện
hợp đồng nếu một bên nhận thấy bên kia có hành vi vi phạm hợp đồng.
Tuy nhiên, vấn đề quan tâm hiện nay liên quan đến quy định về hành vi vi phạm
mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện hủy bỏ hợp đồng được điều chỉnh trong LTM
2005 là một số trường hợp nội dung thỏa thuận không rõ ràng dẫn đến các bên phải
thông qua việc giải thích hợp đồng mới xác định ý chí các bên khi xảy ra tranh chấp
hoặc việc Tòa án có chấp nhận cho hủy bỏ hợp đồng hay khơng nếu một trong các bên
chứng minh được sự tồn tại thỏa thuận ngầm hay thỏa thuận gián tiếp giữa các bên về
hành vi vi phạm là điều kiện hủy bỏ hợp đồng? Vấn đề này sẽ được đề cập cụ thể trong
chương 2.
1.3.3. Bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời
hạn bổ sung mà bên bị vi phạm ấn định
Căn cứ khoản 2 Điều 299 LTM 2005: “Trường hợp bên vi phạm không thực
hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định,
bên bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của
mình”. Cho đến nay, có rất nhiều quan điểm cho rằng, nên xem khoản 2 Điều 299



20

LTM 2005 là trường hợp ngoại lệ của chế tài hủy bỏ hợp đồng12. Bởi lẽ, cụm từ “các
chế tài khác” theo quy định được hiểu là bao gồm chế tài tạm ngưng thực hiện hợp
đồng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng. Các quan điểm nêu trên đã được tác giả Nguyễn
Thị Việt Hà đề cập, làm rõ từng vấn đề trong Luận văn của mình và bản thân tác giả
cũng đồng ý với các quan điểm nêu trên nên việc xác định khoản 2 Điều 299 LTM
2005 có phải là trường hợp ngoại lệ của chế tài hủy bỏ hợp đồng sẽ không được bàn
luận thêm nữa.
Vấn đề đáng quan tâm ở đây là chế tài hủy bỏ hợp đồng được quy định tại
khoản 2 Điều 299 LTM 2005 nêu trên có được áp dụng cho cả những vi phạm khơng
cơ bản hay khơng? Vì nếu được áp dụng cho cả vi phạm khơng cơ bản thì sẽ mâu thuẫn
với Điều 293 LTM 2005: “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên bị vi phạm không
được áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc
hủy bỏ hợp đồng đối với vi phạm không cơ bản”.
Theo quan điểm của một số tác giả thì: Khi việc áp dụng chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng không phát huy được tác dụng thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền áp
dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi của mình kể cả đối với các vi phạm khơng
cơ bản. Bởi lẽ, trong trường hợp này thể hiện bên vi phạm hợp đồng khơng có thiện chí
khắc phục vi phạm và để tránh trường hợp mâu thuẫn giữa các điều luật trong một văn
bản, một vài kiến nghị điều chỉnh Điều 293 LTM 2005 đã được hình thành. Điển hình
như: Trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 299 của luật này hoặc trừ trường hợp
có thỏa thuận khác, bên bị vi phạm không được áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện
hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng đối với vi phạm không
cơ bản13.
Thiết nghĩ, nội dung kiến nghị điều chỉnh Điều 293 LTM 2005 nêu trên là hợp
lý, bởi lẽ, nội dung đã được sửa đổi đảm bảo bốn tiêu chí đánh giá của một văn bản
luật, bao gồm tính hợp lý, tính minh bạch, tính khả thi và tính thống nhất. Trong đó,
tính minh bạch là một trong những tiêu chí quan trọng nên việc làm rõ nội dung điều


12

Nguyễn Thị Việt Hà (2010), Chế tài đình chỉ hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng trong hoạt động thương mại, Luận

văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 25.
13

Nguyễn Thị Việt Hà, tlđd 12, tr. 135-139.


×