Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Những nguyên tắc cơ bản đảm bảo thực hiện chức năng xã hội của nhà nước ở Việt Nam hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.88 KB, 8 trang )

Những nguyên tắc cơ bản đảm bảo thực hiện chức năng xã hội của nhà nước
ở Việt Nam hiện nay
Bản chất giai cấp và vai trò xã hội của nhà nước được thể hiện trực tiếp ở
chức năng của nhà nước. Chức năng của nhà nước có thể xem xét dưới những
góc độ khác nhau. Khi xem xét nhà nước từ góc độ tính chất của quyền lực
chính trị, nhà nước có chức năng là công cụ thống trị chính trị của giai cấp và
chức năng xã hội. Dưới góc độ khác, với tính cách là tổ chức đại biểu chủ
quyền quốc gia, nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Giữa
các chức năng của nhà nước có sự tác động qua lại nhau. Việc thực hiện chức
năng xã hội là phương thức và điều kiện để thực hiện chức năng thống trị
chính trị của giai cấp.
Đối với nước ta trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN
cần thực hiện những nguyên tắc cơ bản sau:
1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
Đảng Cộng sản là hạt nhân lãnh đạo trong hệ thống chính trị của xã hội XHCN. Sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân và
sức mạnh của Nhà nước. Thông qua nhà nước XHCN Đảng Cộng sản thực hiện sự
lãnh đạo của mình đối với các quá trình phát triển của xã hội. Thực chất của sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là lãnh đạo chính trị mang tính định hướng.
Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bao gồm nhiều
mặt. Trước hết, Đảng vạch ra đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và phương
hướng hoạt động cho Nhà nước, Đảng lãnh đạo bằng giáo dục, thuyết phục; bằng
tổ chức, hướng dẫn kiểm tra, giám sát cơ quan nhà nước thực hiện đường lối của
Đảng. Bằng việc thông qua chương trình, kế hoạch hoạt động, bằng pháp luật và
các chế độ ban hành của Nhà nước mà biến đường lối chính trị của Đảng thành ý
chí và hành động cách mạng của quần chúng. Cán bộ, đảng viên của Đảng thông
qua sự lựa chọn và tín nhiệm của quần chúng mà đảm đương các chức vụ trong bộ
máy nhà nước.
Đảng lãnh đạo thông qua vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên và các cơ
quan của Đảng trong việc chấp hành đường lối của Đảng, pháp luật và chính sách
của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Đảng


cùng với Nhà nước tuyên truyền giáo dục, vận động, tổ chức nhân dân chấp hành
đường lối của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng
bao gồm cả giám sát, kiểm tra thực hiện đường lối, kịp thời tổng kết thực tiễn để
bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối chính sách cho phù hợp với thực tế
cuộc sống. Để làm tròn vai trò lãnh đạo Nhà nước, Đảng phải thường xuyên tự đổi
mới cả nội dung và phương thức lãnh đạo cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh
tế – xã hội. Hiệu quả quản lý của Nhà nước là tiêu chuẩn để đánh giá sự lãnh đạo
của Đảng.
Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện chức năng xã hội của
Nhà nước, Đảng phải có đường lối đúng đắn, sáng tạo. Đường lối đó phải lấy Chủ
nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận phương pháp luận,
vừa phải xuất phát từ đặc điểm kinh tế – xã hội của đất nước, bám sát thực tiễn
sinh động của sự nghiệp đổi mới. Nó là kết quả không chỉ ở sự vững vàng về bản
lĩnh chính trị mà còn là sự phát triển cao của năng lực trí tuệ và phương pháp tư
duy khoa học. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng đại này, Đảng phải nâng cao
bản lĩnh chính trị và năng lực trí tuệ, thực hiện tốt công tác chỉnh đốn Đảng làm
cho Đảng không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu.
Đội ngũ cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng nói
chung và việc thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước nói riêng.
V.I.Lênin viết: "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền
thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ
chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong
trào"(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, cán bộ là người đem chính sách của
Đảng, của chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem
tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính
sách cho đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc, huấn luyện cán bộ là
công việc gốc của Đảng. Đội ngũ cán bộ chẳng những là lực lượng tham gia xây
dựng phát triển và hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng mà còn là lực lượng
có vai trò quyết định sự thành bại của đường lối chính sách. Đảng thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ là nhiệm vụ quan

trọng bậc nhất của Đảng. Đảng là người định hướng chính trị, là nơi đào tạo và
tiến cử nhân tài, là người cung cấp cán bộ cho các cơ quan nhà nước. Đây vừa là
nội dung vừa là phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước.
Cùng với việc hoạch định đường lối, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công tác
kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước là một
trong những nội dung và là phương thức quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng.
Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa, để thực hiện tốt chức năng xã hội
của Nhà nước không thể không thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát. Văn kiện
Đại hội X chỉ rõ: "Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát với nhận thức và yêu
cầu mới; công tác kiểm tra, giám sát phải góp phần phát hiện và khắc phục được
những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha; bên cạnh việc tiếp tục thực hiện
kiểm tra tổ chức và cá nhân đảng viên có dấu hiệu vi phạm, phải tăng cường chủ
động giám sát, kiểm tra về phẩm chất đạo đức và kết quả thực hiện nhiệm vụ của
tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, về nhận thức và chấp hành Điều lệ Đảng, đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Coi trọng kiểm tra,
phát hiện nhân tố tích cực”(2)
2. Bảo đảm ổn định chính trị
Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, song chính trị không đóng vai trò
thụ động mà tác động trở lại đối với kinh tế. V.I.Lênin nhiều lần khẳng định chính
trị chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế. Thắng lợi hay thất bại về chính trị trực
tiếp đe dọa sự sống còn của một chế độ xã hội nhất định. Chính trị của một giai
cấp cầm quyền có vai trò to lớn chỉ đạo, định hướng hoạt động kinh tế của toàn xã
hội, bảo đảm những lợi ích cơ bản, lâu dài của giai cấp đó. V.I Lênin khẳng định,
không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không
thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể nào hoàn
thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất. Chính trị không chỉ tác
động trở lại, mạnh mẽ đối với kinh tế mà còn chi phối mọi lĩnh vực hoạt động của
đời sống xã hội.
Quán triệt nguyên tắc thống nhất biện chứng giữa kinh tế và chính trị, cũng như
vai trò của chính trị đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, Đảng ta khi chủ

trương đồng thời đổi mới kinh tế và chính trị thì đối với lĩnh vực chính trị cần thận
trọng, cân nhắc từng bước một sao cho đổi mới mà không dẫn đến, mất ổn định.
Trong chiến lược 10 năm 2001- 2010, Đảng ta chỉ rõ, giữ vững ổn định chính trị
và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và
an ninh quốc gia.
Bảo đảm sự ổn định chính trị sở dĩ là nguyên tắc thực hiện thắng lợi chức năng xã
hội của Nhà nước vì:
- Sự ổn định chính trị tạo ra tiền đề, điều kiện cho sự phát triển kinh tế – xã hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan để tận dụng về nguồn vốn, thành
tựu khoa học công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý kinh tế và mở rộng thị
trường để phát triển kinh tế xã hội. Nếu không có được sự ổn định về chính trị thì
không thể tiến hành hội nhập thắng lợi.
- Sự ổn định chính trị vừa là kết quả vừa là nguyên nhân để tăng cường quốc
phòng an ninh, bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Bởi vậy đấu tranh
chống âm mưu "Diễn biến hòa bình" và bạo loạn lật đổ, ban hành và thực hiện các
chủ trương chính sách đúng đắn để phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định
chính trị là nhiệm vụ có ý nghĩa rất quan trọng trong thực hiện chức năng xã hội
của Nhà nước.
- Sự ổn định chính trị là điều kiện quan trọng để thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
Những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ổn định chính trị, sự nghiệp
đổi mới đất nước thu được những thành tựu to lớn đáng tự hào. Chính sự ổn định
chính trị là một trong những tiền đề, điều kiện quan trọng cho những thành tựu của
hơn 20 năm đổi mới đất nước. Sự nghiệp đổi mới đất nước đi vào chiều sâu, nhiều
vấn đề mới mẻ và phức tạp nảy sinh. Thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước
cũng đứng trước những yêu cầu mới cao hơn, càng đòi hỏi phải đảm bảo sự ổn
định chính trị.
3. Giữ vững định hướng XHCN
Mục tiêu lý tưởng XHCN mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là hoàn
toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử xã hội, với xu thế của

thời đại và nguyện vọng thiết tha của nhân dân trong suốt mấy chục năm qua. Độc
lập dân tộc gắn với CNXH là quy luật của cách mạng XHCN là sự lựa chọn đúng
đắn của Đảng và nhân dân ta. Tuy nhiên trong bối cảnh quốc tế và trong nước có
nhiều phức tạp, việc giữ vững định hướng XHCN rất khó khăn. Đó là cuộc đấu
tranh quyết liệt và phức tạp giữa định hướng XHCN với các thế lực cản trở và
những nguy cơ, thách thức. Cuộc đấu tranh đó diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hóa, đối ngoại, an ninh quốc phòng…
Giữ vững định hướng XHCN vừa là mục tiêu vừa là, điều kiện, động lực của sự
nghiệp đổi mới. Không quan tâm đúng mức để gây ra sự chệch hướng dù bất cứ
một lĩnh vực nào cũng làm tổn hại đến sự nghiệp đổi mới, thậm chí đe dọa đến
phát triển của dân tộc. Trong hơn 20 năm đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp nhằm giữ vững định hướng XHCN. Tuy
nhiên, Đảng cũng chỉ rõ, trong quá trình thực hiện đã phạm một số khuyết điểm,
lệch lạc kéo dài, dẫn đến chệch hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ
này, mức độ khác. Nếu không được khắc phục có hiệu quả thì những khuyết điểm
lệch lạc đó sẽ làm suy yếu Đảng, làm mục ruỗng bộ máy nhà nước, biến chất chế
độ, đưa đất nước đi chệch con đường XHCN. Hiện nay đất nước ta đã gia nhập
WTO, vận hội mới cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước đã mở. Tuy
nhiên, những thách thức to lớn, nghiệt ngã đã xuất hiện đặt ra yêu cầu rất cao và
có tính nguyên tắc của vấn đề giữ vững định hướng XHCN.
4. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có những đặc trưng cơ bản là: Nhà nước
của dân, do dân, vì dân, quyền lực Nhà nước thống nhất không phân chia nhưng có
sự phân công, phối hợp giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là công cụ của các tầng lớp nhân dân Việt
Nam dùng để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội XHCN, công cụ để tiến hành sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, để thực hiện có hiệu quả chức năng xã
hội của Nhà nước, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là một nguyên tắc

cơ bản vì:
- Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong quan hệ biện chứng giữa kinh
tế và chính trị thì kinh tế quyết định chính trị. V.I.ênin cho rằng, chính trị là sự
biểu hiện tập trung của kinh tế. Với kinh tế thị trường thì nhà nước tương ứng với
cơ sở kinh tế ấy phải là nhà nước pháp quyền. Chúng ta chủ trương thực hiện kinh
tế thị trường định hướng XHCN (nhằm mục đích quá độ lên CNXH) thì nhà nước
tương ứng với cơ sở kinh tế đó phải là Nhà nước pháp quyền XHCN. Trong nền
kinh tế thị trường tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau (nhất là khác nhau về
sở hữu tư liệu sản xuất) do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế khác nhau. Các chủ thể
kinh tế này độc lập tự chủ về vốn, về sản xuất kinh doanh, về thị trường, công
nghệ, lao động và tiêu thụ sản phẩm. Quyền tự chủ về kinh tế được thể hiện ở
quyền thành lập doanh nghiệp, quyền tự do ký kết các hợp đồng kinh tế… Kinh tế
thị trường đặt ra yêu cầu rất cao đối với tính tự chịu trách nhiệm, tính chủ động
sáng tạo và nỗ lực cá nhân. Để khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng kinh tế – xã
hội và tính chủ động sáng tạo của các chủ thể kinh tế, của mọi thành phần kinh tế
cũng như mỗi con người, phải xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Trong những năm qua, bên cạnh những thành tựu xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam XHCN, góp phần quan trọng tạo nên những thành tựu to lớn đáng tự
hào của sự nghiệp đổi mới đất nước, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam cũng tồn tại nhiều yếu kém, bất cập, nổi lên là: Bộ máy nhà nước còn
cồng kềnh, quan liêu, hiệu lực không cao, cơ chế vận hành còn chồng chéo, pháp
luật kỷ cương không nghiêm, một bộ phận không nhỏ cán bộ, viên chức nhà nước
thoái hóa biến chất…
Để bảo đảm thực hiện có hiệu quả chức năng xã hội của nhà nước cần đẩy mạnh
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
5. Bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân
Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ là khát vọng, là mục tiêu mà con
người vươn tới, đồng thời là động lực to lớn thúc đẩy con người hành động. Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định dân chủ có nghĩa dân là chủ và dân làm chủ. Một
khi nhân dân là chủ, làm chủ mọi quyền lực xã hội sẽ khơi dậy được sức sáng tạo

của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Để phát huy những thuận lợi các
nguồn lực trong nước, tranh thủ những nguồn lực từ bên ngoài đòi hỏi phải thực
hiện dân chủ.
Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu
vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện môi
quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân”(3). Trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN, để thực hiện có hiệu quả chức năng xã hội của Nhà
nước tất yếu phải thực hiện và phát huy dân chủ XHCN.
Thực tế những năm đổi mới đất nước cho thấy ở đâu không thực hiện tốt dân chủ
hay dân chủ hình thức thì ở đó có không ít cán bộ nhà nước độc đoán, chuyên
quyền, quan liêu, tham nhũng… làm cho người dân bất bình tạo nên những điểm
nóng, kinh tế – xã hội của địa phương không phát triển.
___
(1) V.I.Lênin toàn tập, NXB Tiến bộ, M.1974, tập 4, tr.473.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X, NXBCTQG,
H.2006, tr.302.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX, NXBCTQG,
H.2001, tr.134.

×