VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG CÓ SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
MỤC LỤC
Trang
PHẦN I- GIỚI THIỆU CHUNG.................................................................................
2
PHẦN II- NỘI DUNG..............................................................................................
5
1. Nhà nước và chức năng kinh tế của Nhà nước................................................
5
1.1.
Nhà
nước
.............................................................................................................................
5
1.2.
Chức
năng
của
Nhà
nước
.............................................................................................................................
6
1.3. Những quan điểm và học thuyết bàn về chức năng kinh tế của
Nhà
nước
.....................................................................................................
6
1.4.
Kết
luận
.....................................................................................................
10
2. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
ở
Việt
Nam
...............................................................................................................
11
2.1. Đặc điểm của nền kinh tế nước ta bước đổi mới
...........................................................................................................................
11
2.2. Đặc điểm của nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước
...........................................................................................................................
12
2.3. Những đặc trưng của cơ chế kinh tế chúng ta đang hướng tới
...........................................................................................................................
13
3. Các mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước ............................
15
3.1.
Mục
tiêu
...........................................................................................................................
15
3.2.
Chức
năng
quản
lý
vĩ
mô
...........................................................................................................................
16
4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vai trò quản lý
kinh tế của Nhà nước...................................................................................
17
PHẦN III- KẾT LUẬN...........................................................................................
23
2
PHẦN I
GIỚI THIỆU
Thời kỳ Pháp thuộc (1858 - 1945), Việt Nam được xếp là một trong
những quốc gia có nền kinh tế phát triển thấp kém nhất trên thế giới, đó là
một nền kinh tế què quặt, lạc hậu, sản xuất nhỏ, lẻ, và nông nghiệp là chủ
yếu. Nhưng ở thời kỳ này, với sự xuất hiện của các nhà tư bản Pháp, các
Công ty của Pháp, cùng với sự giao lưu hàng hoá giữa nước Việt Nam
thuộc địa với các nước khác thì nền kinh tế Việt Nam cũng đã được coi là
một nền kinh tế hàng hoá ở dạng sơ khai.
Cách mạng Tháng 8 (8/1945) thành công, Nhà nước Việt Nam Dân
chủ cộng hồ ra đời, nhưng khơng giống các quốc gia khác chúng ta khơng
có điều kiện để khôi phục và xây dựng kinh tế mà gần như ngay lập tức
chúng ta lại phải chịu đựng cảnh chiến tranh. Trong suốt thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954) nền kinh tế của chúng
ta khơng thể phát triển một cách tồn diện, mà đó chỉ là một nền kinh tế
khép kín, tự cung, tự cấp, lấy sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp là
chính với mục đích trước tiên là phục vụ kháng chiến. Hiệp định Giơ nevơ
về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương được ký kết, nhưng tưởng chúng ta
được sống trong hồ bình để phát triển kinh tế, nhưng không chúng ta lại
phải trải qua một cuộc chiến tranh dài 20 năm (1955- 1975) đất nước bị
chia cắt làm hai miền Bắc, Nam với hai chế độ chính trị, hai mơ hình kinh
tế khác nhau. Miền Bắc đi lên xã hội chủ nghĩa với mơ hình kinh tế quản lý
tập trung bao cấp bao cấp giống các nước xã hội chủ nghĩa khác, miền
Nam đi theo mơ hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Tuy vậy trong
điều kiện bị chi phối bởi qui luật của chiến tranh hai mơ hình này cũng
khơng mang đầy đủ đặc trưng và ý nghĩa của nó. Ở miền Bắc chúng ta
khơng thể tập trung toàn bộ sức lực cho phát triển kinh tế mà chúng ta phải
chi viện lớn về người và của cho miền Nam, hơn nữa miền Bắc cũng phải
chịu sự tấn công bằng hải quân và không quân Mỹ, trong điều kiện khó
khăn đó q trình thực hiện mục tiêu kinh tế nhiều khi không được thực
hiện đẩy đủ và đúng đắn. Cịn ở miền Nam thì đây cũng chưa thực sự là
3
một nền kinh tế thị trường phát triển vì sức sản xuất trong nước còn rất
yếu, thực chất miền Nam chỉ là thị trường tiêu thụ hàng hoá của Mỹ và các
nước ta bản khác.
Sau chiến thắng (1975), nước nhà thống nhất cả nước bắt tay vào xây
dựng một nèn kinh tế xã hội chủ nghĩa thống nhất trên cả nước. Cũng
chính trong thời kỳ này mơ hình kinh tế tập trung bao cấp bắt đầu bộc lộ
khiếm khuyết của nó khơng chỉ ở Việt Nam mà ở tất cả các nước xã hội
chủ nghĩa khác. Tuy rằng mơ hình này có thể tập trung được sức người, sức
của cho mục đích phát triển trong một giai đoạn nhất định nhưng vì nó
khơng đề cao tới lợi ích cá nhân cho nên sau một thời kỳ dài phát triển điều
này đã làm triệt tiêu động lực của mỗi cá nhân, tính ích kỷ của mỗi cá nhân
bắt đầu trổi dậy. Hơn nữa, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ
những qui luật của kinh tế như qui luật cung cầu, qui luật giá trị, qui luật
phân phối bị biến dạng đi, nền kinh tế hàng hoá chỉ tồn tại trên danh nghĩa,
lưu thơng hàng hố bị đình trệ. Chính vì những lý do này mà sau giai đoạn
phát triển rực rỡ (những năm 60 của thế kỷ 20) thì tới những năm cuối của
thập kỷ 70 ở những nước xã hội chủ nghĩa đã có những dấu hiệu chững lại
và đồng thời những tư tưởng về cải cách bắt đầu xuất hiện. Sự xuất hiện
những tư tưởng về cải cách là tất yếu vì trong một nền kinh tế hàng hoá
phát triển cao như vậy trên thế giới nếu vẫn giữ ngun mơ hình cũ thì các
nước xã hội chủ nghĩa sẽ bị bỏ xa trên con đường phát triển và quốc gia đi
tiên phong trong vấn đề cải cách là Trung Quốc. Đảng và Nhà nước ta đã
sớm nhận biết được xu hướng phát triển này và những tư tưởng về cải cách
kinh tế đã được đề cấp tới từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (3/1982) và
được chính thức quyết định đưa vào thực tiễn tại đại hội VI (12/1986),
trong các kỳ đại hội VII, VIII tiếp theo vấn đề cải cách tiếp tục được bổ
sung và hoàn thiện. Như vậy việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ mơ
hình kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường là một bước đi
đúng đắn, phản ánh đúng qui luật khách quan và xu thế của thời đại.
Chúng ta khẳng định rằng chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước là một tất yếu, nhưng sự quản lý của Nhà nước đối
với nền kinh tế ở mức độ nào, thơng qua những cơng cụ gì là một vấn đề
không dễ giải quyết. Trong lịch sử nhân loại có những thời kỳ Nhà nước
hầu như khơng can thiệp vào nền kinh tế - thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do
4
cạnh tranh, hoặc can thiệp rất sâu vào nền kinh tế như trong mơ hình kinh
tế tập trung ở các nước xã hội chủ nghĩa hay ở các nước tư bản chủ nghĩa
sau khủng hoảng 1929 - 1933 theo lý thuyết Keynes nhưng những thành
công do chúng mang lại chỉ mang tính lịch sử, nó khơng là một mơ hình
cho sự phát triển bền vững và tới nay các nhà kinh tế thống nhất với nhau
rằng cần thiết có sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế trong một cơ
chế thị trường đầy năng động.
Nền kinh tế luôn vận động và phát triển trong mỗi thời kỳ nó lại có
mọt só tính chất đặc trưng địi hỏi sự can thiệp của Nhà nước ở mức độ phù
hợp, chính vì vậy khi Việt Nam chúng ta khi chuyển sang nền kinh tế mới
thì vai trị của Nhà nước là quan trọng và việc nghiên cứu vấn đề quản lý
Nhà nước đối với nền kinh tế là vấn đề quan trọng ở nước ta hiện nay.
5
PHẦN II
NỘI DUNG
1. Nhà nước và chức năng kinh tế của Nhà nước
1.1. Nhà nước.
Nhà nước không xuất hiện cùng với con người mà chỉ khi xã hội loài
người phát triển tới một mức độ nhất định thì Nhà nước mới ra đời. Trong
suốt thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ khi mà những mối quan hệ xã hội còn ở
mức giản đơn - mối quan hệ chủ yếu dựa trên quan hệ truyền thống, trong
xã hội khơng có sự phân chia đẳng cấp, mọi người đều bình đẳng với nhau
về quuyền và nghĩa vụ thì lúc đó Nhà nước cũng không tồn tại. Đến cuối
thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ khi mà lực lượng sản xuất đã phát triển hơn
trong xã hội đã xuất hiện người giàu và người nghèo thì cũng là lúc tiền đề
cho sự xuất hiện và tồn tại của Nhà nước cũng bắt đầu nảy sinh. Theo qui
luật của tự nhiên những người nghèo sự tồn tại họ phải vay mượn, lệ thuộc
vào những người giàu do đó người nghèo sẽ bị nghèo hơn, người giàu sẽ
giàu hơn, trong xã hội hình thành hai tầng lớp người có đẳng cấp khác hẳn
nhau. Những người nghèo họ cũng không chịu đứng yên một chỗ, trong
con người họ ln có tư tưởng phản kháng lại, những người giàu để bảo vệ
lợi ích của tầng lớp mình họ cần phải có một cái gì đó đủ sức mạnh trấn áp
lại sự chống đối của tầng lớp đối kháng và cái tất yếu phải được tạo ra đấy
chính là Nhà nước. Nhà nước được định nghĩa là: "Nhà nước là một máy
cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay giai cấp thống trị, được giai cấp thống trị
tạo ra để bảo vệ lợi ích cho giai cấp mình".
Như vậy Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp mà
ngun nhân sâu xa đó chính là từ lợi ích kinh tế của mỗi giai cấp trong xã
hội. Ngay từ khi xuất hiện thì Nhà nước, kinh tế đã gắn bó mật thiết và
trong q trình phát triển của Nhà nước sau này hai mặt này không thể tách
với nhau.
1.2. Chức năng của Nhà nước.
6
Từ lý luận về Nhà nước ta đã thấy Nhà nước là công cụ của giai cấp
thống trị dùng để điều tiết các quan hệ xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của giai
cấp mình. Khi đề cập tới chức năng của Nhà nước các nhà nghiên cứu
thống nhất rằng Nhà nước có hai chức năng chính là chức năng đối nội và
chức năng đối ngoại.
- Về chức năng đối nội bao gồm hai bộ phận chính là chức năng kinh
tế và chức năng giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn áp
sự chống đối của các giai cấp khác và các âm mưu phản động. Trong hai
chức năng này thì chức năng kinh tế được đưa lên hàng đầu vì nó là cái để
cho một Nhà nước có thể tồn tại và phát triển.
- Chức năng đối ngoại của Nhà nước cũng bao gồm hai chức năng
chính là chức năng bảo vệ tổ quốc và chức năng củng cố mở rộng quan hệ
hợp tác hữu nghị với các nước khác. Trong điều kiện ngay nay chức năng
đối ngoại có vị trí đặc biệt quan trọng.
1.3. Những quan điểm và học thuyết bàn về chức năng kinh tế (vai
trò kinh tế) của Nhà nước.
Ở phần lý luận về Nhà nước chúng ta đã thấy chức năng kinh tế là
một trong những chức năng quan trọng của Nhà nước. Vậy chức năng này
được quan tâm ở mức độ nào trong lịch sử. Sự thực trong thời kỳ chiếm
hữu nơ lệ thì những học thuyết bàn về kinh tế và chức năng kinh tế của nó
hầu như khơng có, nhưng Nhà nước được giai cấp chủ nơ sử dụng một cách
trực tiếp để can thiệp vào xã hội, phục vụ lợi ích của giai cấp mình. Sang
thời kỳ xã hội phong kiến do có sự khác nhau về cách thức tổ chức xã hội
và phân chia ruộng đất mà giữa phương Đông và phương Tây, những quan
điểm về quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế cũng khác nhau. Ở phương Tây
với sự phân chia lãnh thổ quốc gia thành các lãnh địa riêng biệt do các lãnh
chúa cai quản với phương thức sản xuất khép kín, tự cung, tự cấp trong
từng lãnh địa đã làm cho vai trị của Nhà nước hồn tồn bị lu mờ. Trái lại
ở phương Đơng với quan niệm tồn bộ đất đai thuộc về nhà Vua cho nên
mối quan hệ giữa Nhà nước mà người đại diện là Vua với vấn đề kinh tế
trở nên khăng khít hơn. Chính vì vậy trong giai đoạn này ở phương Đơng
đã có một số quan điểm về vai trò kinh tế của Nhà nước khá độc đáo.
7
Bàn về vấn đề này, ngay từ thời chiến quốc (476-221 TCN) ở Trung
Quốc, trong học thuyết "bình dân kinh tế chủ nghĩa" Mạnh Tử cho rằng:
chính sách kinh tế của Nhà nước phải hướng đến làm giàu cho dân. Dân
giàu thì nước mạnh, khơng có nước nào dân giàu mà nước lại nghèo, ngược
lại có thể có nước giàu, của cải chất đầy kho mà dân lại nghèo. Về cơ bản
tương tưởng kinh tế của Mạnh Tử là: bản chất lợi ích của cá nhân thống
nhất với lợi ích tồn xã hội, mọi người khi làm giàu cho mình thì cũng làm
giàu cho tồn xã hội. Từ đó đặt lên vai trị của Nhà nước phải điều hồ, sắp
xếp các quan hệ lợi ích sao cho sự xung đột lợi ích cá nhân khơng làm thủ
tiêu lợi ích xã hội mà phải thúc đẩy lợi ích xã hội. Như vậy ta thấy, từ thời
Mạnh Tử Nhà nước đã can thiệp vào nền kinh tế đặc biệt trong lĩnh vực
phân phối sản phẩm mà trước hết là khâu phân phối tư liệu sản xuất.
Ở Việt Nam tư tưởng Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế xuất hiện
rất sớm. Trên thực tế Nhà nước đã can thiệp vào nền kinh tế và đã thu được
những thành công cũng như không thành công. Sự xuất hiện sớm nhất về
can thiệp Nhà nước vào nền kinh tế bắt đầu từ thời nhà Lý. Chế độ phong
cấp ruộng đất của nhà Lý cho các quan lại đã dẫn tới sự hình thành các thái
ấp, nhưng chỉ có rất ít ruộng đất biến thành ruộng đất tư mà phần lớn các
ruộng đất vẫn là ruộng đất công thuộc quyền sở hữu của nhà Vua, người
được phong đất chỉ có quyền chiếm giữ và sử dụng, việc bóc lột của chủ
thái ấp vẫn chịu sự không chế cảu Nhà nước Trung ương. Bên cạnh Nhà
nước trung ương đã huy động sức dân tiến hành khai hoang, đắp đê. Như
vậy ngoài đặc điểm chung với các Nhà nước phong kiến phương Tây, Nhà
nước phong kiến Việt Nam ngay từ đầu đã nhận thức rất rõ về quyền sở
hữu và quyền sử dụng ruộng đất nói riêng và của cải nói chung. Do đó, một
mặt Nhà nước trao quyền sử dụng cho quan lại, mặt khác Nhà nước áp
dụng các biện pháp để củng cố quyền sở hữu và kiểm soát được hoạt động
của quan lại. Tuy đã có ý thức kiểm sốt hoạt động trong các thái ấp nhưng
trên thực tế Nhà nước trung ương không thể kiểm sốt được tồn bộ hoạt
động của họ.
Năm 1397 Hồ Quý Ly ban hành chính sách "hạn điền" và "hạn nô" với
nội dung là hạn chế ruộng đất cấp cho quan lại và số nơ tì mà các quan có
thể có nhằm tránh lãng phí, tập trung sức mạnh kinh tế cho Nhà nước.
8
Năm 1429, sau khi đánh thắng giặc minh, nhà Lê ban hành chế độ
quân điền và năm 1477 ban hành chế độ lộc điền. Thực chất đây là chính
sách xố bỏ kinh tế điền trang thái ấp hình thành từ thời nhà Lý. Chế độ
Lộc điền là hình thức cấp lương cho quan lại bằng quyền sử dụng một diện
tích ruộng đất nào đó tuỳ theo cấp bậc, cịn Qn điền là chế độ phân phối
ruộng đất cho dân tuỳ theo cấp bậc, còn Quân điền là chế độ phân phối
ruộng đất cho dân tuỳ theo thứ bậc trong xã hội.
Sự suy tàn của Nhà nước phong kiến ở phương Tây (thế kỷ XV) gắn
liền với sự hình thành Nhà nước tư sản, q trình tích luỹ tư bản được bắt
đầu thực hiện - nền kinh tế thị trường cũng bắt đầu được hình thành. Trong
thời kỳ này để cho nền kinh tế phát triển nhanh giai cấp tư sản cần phải có
sự trợ giúp của "bà đỡ" tức là cần có sự giúp đỡ của Nhà nước. Chính vì
vậy vai trò quản lý của Nhà nước được xác lập và nâng cao. điều này được
thể hiện trong tư tưởng kinh tế của những người theo trường phái trọng
thưonưg. Cụ thể Nhà nước dùng chính sách tiền tệ nghiêm ngặt, tìm mọi
cách để tích luỹ tiền tệ (tiền vàng), khơng cho tiền tệ chảy ra nước ngồi,
họ cũng có những qui định nghiêm ngặt đối với các thương gia. Trong
chính sách ngoại thương họ đẩy mạnh xuất khẩu thành phẩm, không xuất
khẩu sản phẩm dở dang, nguyên liệu thô, trợ giá giúp đỡ cho xuất khẩu
trong khi đó lại dùng hàng rào thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu để hạn chế
nhập khẩu. cũng nhờ những chính sách này của Nhà nước mà trong giai
đoạn tích luỹ nguyên thuỷ Nhà nước tư sản đã tích luỹ được một lượng của
cải rất lớn.
Xã hội phát triển lên cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất mới thì kiểu mua rẻ, bán đắt, nền kinh tế quá chú trọng
vào thương nghiệp khơng cịn phù hợp nữa. Một quốc gia muốn phát triển
thì phải tăng cường sức sản xuất trong nước thông qua tăng năng suất lao
động, xã hội lúc này cần một môi trường kinh tế tự do hơn giúp các nhà
sản xuất có thể phát huy hết khả năng của mình. Ở thời kỳ đó đã dâng lên
một làn sóng ủng hộ tự do cạnh tranh mà người tiêu biểu nhất là nhà kinh
tế học cổ điển Anh - Adam Smít (1723 - 1790) với học thuyết "bàn tay vơ
hình" và ngun lý"Nhà nước khơng can thiệp" vào hoạt động của nền kinh
tế. Ông rằng việc tổ chức nền kinh tế hàng hoá cần theo nguyên tắc tự do.
Sự hoạt động của nền kinh tế là do các qui luật khách quan tự phát chi
9
phối, sự vận động trên thị trường là do quan hệ cung - cầu và sự biến đổi tự
phát của giá cả hàng hoá trên thị trường quyết định quan hệ giữa người với
người là quan hệ lợi ích kinh tế. Con người hoạt động chỉ nhằm lợi nhuận
siêu ngạch. Song do "bàn tay vơ hình" chi phối buộc người ta phải tuân
theo tỷ suất lợi nhuận bình quân. Để cho nền kinh tế hoạt động đạt hiệu
quả Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế thị trường và hoạt động
doanh nghiệp. Nhà nước chỉ nên can thiệp vào những vấn đề, những mặt
mà sức của một doanh nghiệp không thể với tới như xây dựng đường xá,
bến cảng.... Sự thực trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh, nền kinh tế
đã vận hành một cách năng động và đạt hiệu quả cao. Nhưng sự phát triển
của tự do cạnh tranh đã dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc quyền làm
giảm hiệu quả phát triển và một vấn đề mà các nhà kinh tế học cổ điển
khơng nghĩ tới đó là khủng hoảng kinh tế. Liên tiếp trong các năm cuối thế
kỷ XIX và đầu thế kỷ XX khủng hoảng kinh tế liên tiếp xảy ra theo chu kỳ
và các chu kỳ ngày càng rút ngắn mà đỉnh cao là cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới 1929 - 1933. Thuyết "bàn tay vơ hình" khơng cịn đủ sức đảm bảo
cho nền kinh tế phát triển ổn định và cân bằng nữa, thực tiễn địi hỏi phải
có mọt lý thuyết kinh tế mới phù hợp hơn. Và vào thời điểm này, J.M
Keynes (1884 - 1946) đã đưa ra lý thuyết Nhà nước điều biết nền kinh tế
thị trường với một thuyết có tên gọi "bàn tay hữu hình". Theo lý thuyết
Keynes Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Ở
tầm vĩ mô Nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất, chính sách tín dụng
điều tiết lưu thơng tiền tệ, lạm pháp, thuế, bảo hiểm , trợ cấp đầu tư phát
triển... ở tẩm vĩ mô, Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. J.M Keynes và những người ủng hộ
lý thuyết của ông tin tưởng rằng sự can thiệp như vậy của Nhà nước vào
nền kinh tế sẽ khắc phục được tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp, tạo ra
sự ổn định cho phát triển kinh tế xã hội.
Nhưng thực tế những chấn động trong kinh tế xã hội vẫn diễn ra, thất
nghiệp, lạm pháp, khủng hoảng không được cải thiện. Điều này đã làm tăng
thêm làn sóng phản đốn Keynes và xuất hiện tư tưởng phải phối hợp "bàn
tay vơ hình" với "bàn tay hữu hình"để điều chỉnh nền kinh tế. Đó cũng là
quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại P.Samuelson cho rằng "để phát
triển kinh tế chúng ta phải sử dụng cả "bàn tay vô hình" và "bàn tay hữu
10
hình". Nếu chúng ta chỉ sử dụng một "bàn tay vơn hình" hoặc "bàn tay hữu
hình" thì chẳng khác nào người ta vổ tay chỉ bằng một bàn tay. Theo quan
điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì Nhà nước khơng phải là cái gì đó
đứng ngồi nền kinh tế mà nó cũng là một trong những chủ thể của nền
kinh tế, điều này được thể hiện trong sơ đồ sau:
Thị trường hàng
hố và dịch vụ
Cơng ty
Chính phủ
Hộ gia
đình
Thị trường các
yếu tố sản xuất
Ở đây Chính phủ tham gia vào hoạt động của nền kinh tế cả với tư
cách là người điều tiết cùng với các qui luật kinh tế khách quan bằng cách
đề ra hành lang pháp lý cho các chủ thể khác của nền kinh tế hoạt động,
các chính sách về lao động việc làm, lãi suất tín dụng, quản lý ngoại hối...
và với tư cách là chủ thể trực tiếp tham gia hoạt động kinh tế bằng cách
tiêu thụ sản phẩm của các công ty, thu thuế, đầu tư phát triển các lĩnh vực
cần thiết trong nền kinh tế... Như vậy các nhà kinh tế học hiện đại thừa
nhận rằng: các nền kinh tế hiện đại muốn phát triển được phải dựa vào cả
cơ chế thị trường cũng như sự quản lý của Nhà nước.
1.4. Kết luận.
Từ khi Nhà nước xuất hiện thì vấn đề Nhà nước và kinh tế là hai mặt
không thể tách rời nhau. Nhà nước tồn tại trên nền tảng lợi ích kinh tế và
ngược lại Nhà nước tác động lại nền kinh tế thơng qua các chính sách, biện
pháp, cơng cụ khác nhau nhằm duy trì một nền kinh tế vững mạnh để thơng
qua đó duy trì sự tồn tại của chính cái Nhà nước đang tồn tại trên cơ sở nền
kinh tế ấy. Trong suốt lịch sử phát triển của Nhà nước tuy rằng mức độ can
thiệp của Nhà nước có mức độ khác nhau nhưng một điều tất yếu là Nhà
11
nước phải can thiệp vào nền kinh tế. Cũng chính vì vậy một trong những
chức năng quan trọng của Nhà nước là chức năng kinh tế, nếu làm tốt chức
năng này thì những chức năng cịn lại mới có cơ sở để hoàn thành được.
2. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.1. Đặc điểm của nền kinh tế nước ta trước đổi mới.
Nước nhà hoàn toàn độc lập (1975), nhân dân ta bắt tay vào xây dựng
nhiệm vụ chiến lược thứ hai mà ngay từ khi Đảng cộng sản Việt Nam được
thành lập chúng ta đã đề ra là xây dựng nước ta trở thành một nước xã hội
bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đây là điều mà đã được
những nhà kinh điển chủ nghĩa Mác dự đốn và nâng nó thành lý luận,
muốn làm được điều này chúng ta phải xây dựng được một nền kinh tế quá
độ với nhiệm tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Ở
thời kỳ này ta áp dụng một cách triệt để mơ hình kinh tế của các nước xã
hội chủ nghĩa - mơ hình tập trung, bao cấp. Ta có thể khái quát đặc điểm
của nền kinh tế nước ta thời kỳ đó là: Một nền kinh tế kế hoạch hố cao độ,
Nhà nước can thiệp rất sâu vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế, của quá trình
sản xuất từ khâu sản xuất tới khâu phân phối sản phẩm thông qua các kế
hoạch giap nộp, cấp phát cụ thể tới từng đơn vị kinh tế. Chính điều này đã
làm cho q trình sản xuất khơng hiệu quả, nền kinh tế thụ động, kinh tế
hàng hoá chỉ tồn tại trên danh nghĩa, những qui luật kinh tế bị làm cho méo
mó. Trong lĩnh vực nông nghiệp nếu như trong thời kỳ chiến tranh với việc
vào hợp tác xã chúng ta đã tập trung được rất lớn sức người, sức của vào
sản xuất làm cho sản xuất nông nghiệp phát triển lên, chi việc rất lớn cho
miền Nam góp phần vào chiến thắng của dân tộ thì đến thời kỳ này vẫn với
chế độ cơng điểm cũ khi mà tính ích kỷ của mỗi cá nhân sau một thời bị
lãng quên nay lại trổi dậy đã dẫn tới tình trạng "cha chung khơng ai khóc"
làm cho sản xuất nơng nghiệp khơng phát triển được. Cịn trong lĩnh vực
cơng nghiệp - lĩnh vực mà sản phẩm của nó gắn chặt với thị trường thì
trong thời kỳ này cũng khơng phát triển như mong đợi.
Nói chung, nền kinh tế của chúng ta phát triển khkơng đáp ứng được
địi hỏi của thực tiễn.
12
Ở thời kỳ này, cũng đã có những tư tưởng về đổi mới nhưng mới chỉ
dừng lại ở từng ngành, địa phương riêng lẻ chứ chưa mang tính đồng bộ.
Đây chính là những tiền đề cần thiết cho sự đổi mới.
2.2. Đặc điểm của nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước.
Đại hội VI của Đảng là một bước ngoặt quan trọng trong quá trình
phát triển của nước ta, đánh dấu một sự thay đổi quan trọng trong việc thay
đổi mơ hình phát triển kinh tế, chúng ta chủ trương chuyển từ mơ hình kinh
tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước với một nền kinh tế có những đặc điểm
sau:
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế
kém phát triển, mang năng tính tự túc tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá vận
động theo cơ chế thị trường.
Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần đó
là do cịn nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VII đã khẳng định các thành phần kinh tế đang tồn
tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất,
trong giai đoạn này nền kinh tế bao gồm 5 thành phần, quốc doanh, tập thể,
cá thể, tư nhân tư bản chủ nghĩa và tư bản Nhà nước. Nền kinh tế nhiều
tthành phần trong cơ chế thị trường ở nước ta sẽ là nguồn lực tổng hợp để
đưa nền kinh tế nước ta vượt ra khỏi tình trạng thấp kém đưa nền kinh tế
hàng hoá phát triển.
Nền kinh tế phát triển theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước
ngồi bằng nhiều hình thức. Một nền kinh tế khép kín gắn liền với phương
thức sản xuất phong kiến, một nền kinh tế nhỏ, lẻ, tự cung tự cấp.., nói
chung đó là một nền kinh tế kém phát triển, bảo thủ, trì trệ. Sự ra đời của
kinh tế hàng hoá đã phá vỡ các quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh
tế truyền thống, làm cho thị trường dân tộc gắn với thị trường quốc tế, các
quốc gia muốn sản xuất có hiệu quả phải dựa trên lợi thế so sánh của mình
đối với các quốc gia khác. Trên thực tế việc ra đời kinh tế hàng hố đã làm
cho các quốc gia phát triển nhanh chóng. Do vậy, việc mở rộng quan hệ
kinh tế với nước ngồi là một tất yếu đối với q trình phát triển ở ta.
13
Chúng ta mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngồi bằng nhiều hình thức
khác nhau như liên doanh liên kết để thu hút vốn đầu tư, dựa vào sức mạnh
của các nước tranh thủ nắm bắt lợi thế so sánh tương đối để làm cho những
sản phẩm này có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, đưa nền kinh
tế nước ta nhanh chóng hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới.
Nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội thông qua bản chất và
vai trò quản lý của Nhà nước. Thể chế đã chứng minh rằng kinh tế thị
trường thuần tuý không thể nào giải quyết được những vấn đề do chính bản
thân nó đặt ra cho xã hội như tình trạng lạm phát, thất nghiệp, khủng
hoảng, ô nhiễm môi trường và những vấn đề xã hội khác. Những vấn đề
này sẽ làm cản trở sự phát triển của xã hội, nó không thể tạo cơ sở vững
chắc cho sự phát triển bền vững. Hơn nữa cái đích mà chúng ta đang hướng
tới là một xã hội trong đó những vấn đề xã hội rất được coi trọng mà những
vấn đề xã hội chỉ có thể được giải quyết nhờ vào sự can thiệp của Nhà
nước. Do vậy chúng ta chuyển sang nền kinh tế vận động theo cơ chế thị
trường tất yếu phải cần tới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
2.3. Những đặc trưng của cơ chế kinh tế mà chúng ta đáng hướng tới.
Những nét tổng quát của cơ chế thị trường mà chúng ta đang hướng
tới đó là: Thế chế kinh tế mà trong đó thị trường và các quan hệ thị trường
ngày càng đóng vai trị quyết định đối với sản xuất kinh doanh và phân
phối tài nguyên quốc gia với sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, nền kinh tế
nhiều thành phần thông qua cạnh tranh, liên kết hợp tác, có trình độ xã hội
hoá cao, nền kinh tế vận hàng theo các qui luật kinh tế khách quan và các
chính sách kinh tế phù hợp bảo đảm thị trường thống nhất và mở rộng,
phục vụ các mục tiêu tăng trưởng, hiệu quả, cân bằng và ổn định. Nhà
nước dùng luật pháp, kế hoạch định hướng và chính sách kinh tế dẫn dắt
thị trường phát triển lành mạnh, dùng chính sách phân phối và điều tiết để
đảm bảo phúc lợi cho toàn xã hội.
Theo mơ hình này thì ta thấy những đặc trưng cơ bản của thế chế kinh
tế mà chúng ta đang hướng tới là:
Đó là thể chế kinh tế của các chủ thể tự chủ, tự do kinh doanh theo
pháp luật, các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh, vừa liên kết hợp tác phát
triển đạt mức độ xã hội hoá cao. Tín hiệu thị trường ngày càng đóng vai trị
14
trực tiếp hướng dẫn hoạt động sản xuất kinh doanh và phân phối tài sản
quốc gia. Kinh tế quốc doanh được củng cố phát triển ở những khâu, vị trí
then chốt, sở hữu cá nhân được tôn trọng. Giá tự do tức giá thị trường, tự
do hoá thương mại (ban đầu ở trong nước dần dần mở rộng quan hệ tự do
thương mại đối với các nước trên thế giới và cạnh tranh tạo mọi khả năng
cho thị trường phát huy vai trò tự sản xuất kinh doanh và cung cấp hàng
hoá.
Trong điều hành các hoạt động kinh tế, các mệnh lệnh hành chính
được giảm thiểu để cho các hoạt động thị trường diễn ra chủ yếu dựa trên
sự hướng dẫn của các qui luật giá trị qui luật cung, cầu, qui luật cạnh tranh
đảm bảo nguyên tắc vận hành chủ yếu của nền kinh tế là nguyên tắc thị
trường. Nhưng thị trường không phải là thị trường tự phát mà là thị trường
phục vụ các mục tiêu của toàn xã hội. Do vậy các quan hệ thị trường hoạt
động khơng hồn tồn biệt lập với kế hoạch định hướng và với các chính
sách kinh tế của Nhà nước.
Mọi yếu tố sản xuất (vật tư, vật liệu, nguyên liệu, nhân lực, cơng
nghệ, sản phẩm....) phải dựa vào thị trường vì chỉ có dựa vào thị trường thì
các ngành sản xuất mới tích cực nghiên cứu, cải tiến, làm tăng năng suất
lao động, hạ giá thành sản phẩm... giúp cho nền kinh tế vận hành một cách
hiệu quả hơn.
Một nền kinh tế lấy con người làm trung tâm. Trong một nền kinh tế
hiện đại cái mà chúng ta cần là những con người với những trình độ khác
nahu nhưng họ có thể phát huy năng lực, sự sáng tạo của mình trong vị trí
của họ, muốn vậy chúng ta phải đặt cá nhân vào đúng vị trí của nó. Hơn
nữa đặc trưng xã hội cũng như vai trò xã hội to lớn của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa trở thành đặc điểm nổi bật củathế chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cho nên mơ hình kinh tế mà chúng ta xây dựng là
mơ hình kinh tế lấy con người làm trung tâm.
3. Các mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Ở phần trên chúng ta đã trình bày về đặc điểm của nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với
một cơ chế kinh tế giúp cho nền kinh tế này hoạt động. Vậy trong nền kinh
15
tế như vậy Nhà nước phải làm gì hay vai trò của Nhà nước như thế nào.
Điều này thể hiện qua mục tiêu và vai trị quản lý vĩ mơ của Nhà nước.
3.1. Mục tiêu.
Đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định tránh những thăng trầm,
những đột biến xấu là mục tiêu đầu tiên và quan trọng mà bất cứ Chính
phủ nào cũng phải tính đến. Một nền kinh tế ổn định, là một nền kinh tế với
những bước phát triển vững chắc, khoảng chênh lệch giữa đỉnh và đáy
trong chu kỳ phát triển không lớn. Một nền kinh tế phát triển ổn định giúp
cho người lao động có thể phát huy hết năng lực lao động của mình, những
nhà đầu tư có thể tính tốn được lợi tức của mình, sẽ n tâm đầu tư từ đó
sẽ thu hút được nhiều dự án đầu tư hơn. Hơn nữa một nền kinh tế ổn định
sẽ góp phần làm ổn định chính trị, xã hội.
Đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội. Mỗi doanh nghiệp hoạt động trên
thị trường đều theo đuổi mục đích lợi nhuận tối đa, chính điều này có thể
gây ra những tổn thất đói với xã hội như ô nhiễm môi trường, do cạnh
tranh mà các Công ty sát nhập với nhau thành các tập đoàn độc quyền dẫn
tới hiện tượng ép giá làm tổn thất tới lợi ích của người tiêu dùng và của
tồn xã hội, vì chạy theo lợi nhuận thấp hay khơng có lợi nhuận (cây xanh,
mơi trường đơ thị) sẽ khơng được đầu tư, điều này sẽ gây ảnh hưởng lớn tới
sức khoẻ của con người và cảnh quan môi trường hay cũng vì lợi nhuận mà
các doanh nghiệp tìm mọi cách để trốn thuế gây ảnh hưởng nghiêm trọng
tới việc thu chi ngân sách và kiểm sốt mơi trường.
Đảm bảo các mục tiêu xã hội. Sự tác động của cơ chế thị trường có
thể đưa đến nhiều hậu quả tiêu cực về mặt xã hội như làm bần cùng hoá
một số người, thất nghiệp, bất bình đẳng trong xã hội, tăng khoảng cách
giàu nghèo giữa những tần lớp người trong xã hội. Những vấn đề này nếu
để phát triển lên sẽ dẫn tới sự đảo lộn về mặt xã hội. Sự khơng ổn định về
chính trị do vậy Nhà nước phải thơng qua các chính sách của mình để giải
quyết những vấn đề đó.
3.2. Chức năng quản lý vĩ mơ của Nhà nước.
Chức năng tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động của các doanh
nghiệp như bảo đảm sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội, duy trì luật
16
pháp để các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi. Mỗi một Chính phủ mới khi
lên nắm quyền đều sẽ có những chính sách mới về kinh tế, nếu sự thay đổi
Chính phủ diễn ra hồ bình và đúng pháp luật thì nó sẽ tạo nên một bước
chuyển biến tích cực đối với nền kinh tế, ngược lại sự thay đổi Chính phủ
do sự khơng ổn định về chính trị sẽ làm cho các chính sách kinh tế khơng
nhất qn, điều này sẽ làm cho các nhà đầu tư không dám đầu tư, các
doanh nghiệp sẽ không thể hoạch định chiến lược kinh doanh của mình
được, do vậy hiệu quả kinh tế sẽ không cao. Các yếu tố kinh tế, xã hội sẽ
cũng có tác động tương tự như vậy. Hơn nữa một Công ty khi hoạt động
trong một quốc gia nào đó sẽ phải tuân thủ luật pháp của nước đó. Do đó
một hành lang pháp lý thơng thống sẽ giúp cho các doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả hơn và ngược lại một hệ thống pháp luật không đẩy đủ và
đồng bọ sẽ hạn chế sự hoạt động của các doanh nghiệp.
Chức năng ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như khống chế lạm phát,
thực hiện các biện pháp chống khủng hoảng, ngăn ngừa những đột biến
xuất của nền kinh tế. Lạm phát luôn tồn tại trong các nước có nền kinh tế
thị trường, nó chỉ trở nên nguy hiểm khi lạm phát ở mức mà Chính phủ
khơng dự tính và kiểm sốt được và điều này hay xảy ra đối với các nước
đang phát triển. Nếu để lạm phát ngồi tầm kiểm sốt các doanh nghiệp sẽ
khơng hạch toán được kết quả sản xuất kinh doanh, các nhà đầu tư không
tiếp tục đầu tư, đời sống xã hội bị đảo lộn, nạn đầu cơ hồnh hành và nó dễ
dẫn tới những khủng hoảng kinh tế. Vẫn biết khủng hoảng là căn bệnh cố
hữu của kinh tế thị trường nhưng chúng ta cần sớm dự báo để có nhữn
chuẩn bị cần thiết, giảm tối đa sự tác động của khủng hoảng.
Xây dựng cơ sở hạ tầng, đảm bảo điều kiện cơ bản cho hoạt động
kinh tế cơ sở hạ tầng như điện, nước, giao thông vận tải, nhà cửa, kho tàng,
bến bãi... là những yếu tố cơ bản để phát triển kinh tế. Để phát triển kinh tế
và thu hút đầu tư từ nước ngồi chúng ta phải tích cực đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng, cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước.
Kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia. Một quốc gia dù có giàu tài
ngun đến đâu thì cũng khơng đủ cho tồn bộ nền kinh tế kể cả về số
lượng và chủng loại. Do đó Nhà nước phải có chính sách kiểm soát việc sử
17
dụng tài sản quốc gia hợp lý, tính lãng phí để tạo hiệu quả cao và có nguồn
tích luỹ cho thế hệ mai sau.
Vạch ra và thực hiện chính sách xã hội: phát triển kinh tế không thể
xa rời với việc phát triển xã hội. Nhà nước phải có những chính sách xã hội
phù hợp trong từng thời kỳ, từng địa phương để tạo động lực và cơ sở cho
phát triển kinh tế.
Để thực hiện những mục tiêu này Nhà nước phải sử dụng đồng bộ một
loạt các công cụ như thuế, lãi suất, chính sách tín dụng tiền tệ....
4. Một số giải pháp.
Chúng ta đổi mới nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là một việc làm đúng đắn và chưa có tiền lệ trong
lịch sử. Do vậy trong việc tiến hành đổi mới chúng ta khơng có được những
kinh nghiệm của những người đi trước mà chúng ta vừa làm vừa phải rút
kinh nghiệm. Sau hơn mười năm đổi mới chúng ta đã thu được những
thành tựu lớn nhưng vẫn còn một số vấn đề tồn tại như: Cơ chế thị trường
còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn, đã có sự chuyển
biến mạnh mẽ trên thị trường hàng hố dịch vụ trong khi đó lại có sự lạc
hậu khá lớn trong thị trường các nhân tố sản xuất. Kinh tế của ta vẫn chưa
đi lên một nền kinh tế lớn, bộ máy quản lý Nhà nước còn cồng kềnh, kém
hiệu quả, tệ quan liêu, thiếu hiểu biết còn phổ biến tư duy và con người trì
trệ trước bước ngoặc của sự chuyển biến kinh tế. Để đạt được thành công
chúng ta phải thực hiện một cách đồng bộ một loạt các biện pháp. Những
biện pháp có thể là:
+ Tiếp tục q trình tự do hố giá cả, thương mại hoá nền kinh tế một
cách triệt để hơn. Trước kia chúng ta chống cạnh tranh thì nay chúng ta
phải đề cao cạnh tranh, trước kia chúng ta khuyến khích độc quyền thì hiện
nay chúng ta phải có biện pháp khắc phục. Độc quyền ở ta hình thành
khơng phải do kết quả của q trình tích tụ và tập trung tư bản mà do các
quyết định chủ quan của Nhà nước thơng qua việc cho phép thành lập các
doanh nghiệp có vị trí chi phối trong cả nước hay từng địa phương. Nếu
chúng ta cứ để độc quyền như hiện nay thì thị trường sẽ khơng phát huy
được hiệu quả do đó chúng ta phải xố bỏ ngay những tổ chức trung gian
18
như tổng cơng ty, liên hiệp các xí nghiệp nếu như chúng khơng có tác dụng
thực sự, chúng ta chỉ giữ lại các Cơng ty độc quyền có vị trí quan trọng đối
với nền kinh tế quốc dân nhưng nay đối với các Cơng ty này Nhà nước
cũng cần có chính sách quản lý về giá cả, sản phẩm và trong tương lai
chúng ta cũng phải xoá bỏ dần vị trí độc quyền bằng cách tạo ra cơ chế
cạnh tranh trong nội bộ các Công ty trong lĩnh vực độc quyền.
Đối với giá cả ngoài thị trường ngoài việc để cho qui luật cung cầu tự
điều tiết, Nhà nước cần có chính sách giá cả hợp lý như qui định giá trần,
sàn đối với một số mặt hàng để tránh cho người tiêu dùng cũng như người
sản xuất tránh bị thiệt thòi và những đột biến xấu trong xã hội. Đồng thời
phải chuẩn bị những bước đi cần thiết để hình thành đầy đủ các thị trường
cần thiết cho việc thương mại hoá nền kinh tế như thị trường vốn, thị
trường lao động, thị trường chứng khoán và sớm đưa các thị trường này
voà hoạt động để tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế thơng
qua chính sách mở cửa.
+ Tiếp tục đa dạng hoá chế độ sở hữu theo hướng phát triển doanh
nghiệp tư nhân, đổi mới phương thức hoạt động của các doanh nghiệp Nhà
nước cho phù hợp với cơ chế thị trường.
Chế độ sở hữu là vấn đề quan trọng nhất của một chế độ kinh tế xã
hội. Trong thời kỳ quá độ Đảng ta xác định nước ta có năm hình thức sở
hữu là sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa,
sở hữu tư bản Nhà nước và sở hữu cá thể tương ứng với nó là 5 thành phần
kinh tế. Trong mỗi thành phần kinh tế Nhà nước cần có sự quản lý và định
hướng đúng đắn. Đối với thành phần kinh tế Nhà nước chúng ta chỉ giữ lại
các doanh nghiệp làm ăn thực sự có hiệu quả để làm nên sức mạnh kinh tế
của thành phần này và những doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng đối
với kinh tế, an ninh cịn lại chúng ta sẽ tiến hành cổ phần hố các doanh
nghiệp hoặc cho giải thể nếu thấy cần thiết, để cho kinh tế Nhà nước có thể
dẫn dắt và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển đạt mục tiêu.
Kinh tế tư bản Nhà nước cần tăng cường phát triển thơng qua các hình thức
liên doanh, liên kết, xây dựng khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung
nhằm tranh thủ sự tiến bộ về công nghệ sản xuất, về trình độ quản lý đồng
thời tạo tích luỹ cho nền kinh tế.
19
Với các thành phần khác cần có những chính sách khuyến khích
chúng phát triển.
+ Tăng cường sự kiểm sốt của Nhà nước đối với hoạt động của các
doanh nghiệp.
Nhà nước không hạn chế khả năng sản xuất của các doanh nghiệp
nhưng phải ln tăng cường kiểm sốt để đảm bảo mơi trường kinh doanh
ln trong sạch và thơng qua đó mà tăng nguồn thu cho ngân sách. Để làm
việc này Nhà nước phải tăng cường khả năng lập pháp tạo hành lang pháp
lý cho các doanh nghiệp tự do kinh doanh, tăng cường hoạt động kiểm
tốn đối với các Cơng ty thơng qua cơ quan kiểm tốn của Chính phủ và
các Cơng ty kiểm tốn tư nhân được sự cho phép của Nhà nước, đồng thời
sớm thực hiện một chế độ kế toán nghiêm ngặt và thống nhất.
+ Cải cách bộ máy hành chính, hiện đại hố Nhà nước.
Bộ máy hành chính là các cơ quan quyền lực Nhà nước từ Trung ương
tới địa phương có nhiệm vụ quản lý mọi mặt của đời sống xã hội. Hiện nay
bộ máy này còn rất cồng kềnh và hoạt động kém hiệu quả do đó chúng ta
phải cải cách bộ máy này thơng qua việc tinh giảm bộ máy hành chính đến
mức hợp lý, tăng cường khả năng hoạt động của bộ máy này bằng cách
chọn lọc kỹ lưỡng đội ngũ cán bộ hành chính, việc phân nhiệm phải rõ
ràng, tránh hiện tượng chồng chéo lên nhau giữa các đơn vị, các ngành,
ban...
+ Đối với cơng tác kế hoạch hóa theo xu hướng kế hoạch hoá định
hướng, đồng thời thay đổi hệ thống mục tiêu.
Mục tiêu lớn nhất của chúng ta là xây dựng thành công một nền sản
xuất lớn sản xuất chủ nghĩa là mục tiêu bất biến hay nó là mục tiêu chiến
lược. Từ việc xác định được mục tiêu chúng ta phải xây dựng được chiến
lược phát triển rõ ràng. Rõ ràng ở đây tức là trong chiến lược phát triển này
chúng ta phải chia ra từng thời kỳ mỗi thời kỳ sẽ có những nhiệm vụ, mục
tiêu khác nhau phù hợp với tình hình kinh tế xã hội ở thời kỳ đó với một
cách thức để đạt được những mục tiêu đó. Để làm được điều này chúng ta
phải có sự thay đổi lớn mà trước hết là phải thay đổi về tư duy, cách nghĩ
của những người lập kế hoạch tránh hiện tượng chủ quan chung ý chí đặt
20
mục tiêu vượt quá khả năng của đất nước hay kế hoạch quá chi tiết nhưng
lại không mang hiệu quả.
+ Đối với hệ thống thông tin kinh tế- thông tin quản lý theo yêu cầu
của cơ chế thị trường.
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết
thì hệ thống thơng tin kinh tế - quản lý cũng phải thay đổi theo. Trước kia
những thơng tin chủ yếu mang tính mệnh lệnh hành chính tức là thông tin
một chiều, những thông tin từ dưới lên hoặc là khơng chính xác hoặc là
khơng có như vậy những thông tin kinh tế - quản lý đều khơng xuất phát từ
thị trường. Điều này dẫn đến tình trạng những người quản lý thực sự không
biết thị trường đang hoạt động như thế nào. Khắc phục điều này chúng ta
phải đổi mới hệ thống thông tin sao cho những thơng tin phải được bắt
nguồn từ những tín hiệu của thị trường, các kênh thông tin xuôi và ngược
được thơng suốt.
+ Đối với cách thức sử dụng các chính sách kinh tế theo yêu cầu của
kinh tế thị trường, tạo ra một cơ chế phù hợp với chính sách ổn định kinh
tế vĩ mô.
Nhà nước phải phân loại, hệ thống hố các chính sách kinh tế thành
các nhóm để xử lý theo tình huống, các chính sách kinh tế nay có liên quan
với nhau theo nguyên tắc dây chuyền để khi dùng mọt chính sách có thể
giúp các chính sách khác tác động vào nền kinh tế theo hướng có lợi. Các
chính sách mà Nhà nước sử dụng ở đây là các chính sách vĩ mơ- tức nó có
tác động tới toàn bộ nền kinh tế phù hợp với yêu cầu đặt ra cảu thị trường
nhằm mục đích ổn định nền kinh tế.
+ Đổi mới hoạt động pháp chế kinh tế theo hướng dẫn chủ hoá nền
kinh tế.
Trong giai đoạn hiện nay chúng ta phải tạp lập một hệ thống pháp luật
trong đó cơ chế pháp lý phải phản ánh sự đa dạng của các chủ thể kinh
doanh, bảo vệ lợi ích của người kinh doanh nhưng lại phải giữ được ổn
định và công bằng xã hội, Do vậy trong cơng tác lập pháp chúng ta khơng
được nóng vội, chắp nhặt những điều luật của nước ngoài những qui định
luật pháp không phản ánh đúng được thực trạng xã hội và khơng mang tính
21
giáo dục ngăn ngừa. Hơn nữa trong quá trình thực hiện luật pháp phải luon
có sự kiểm tra, kiểm sốt, thu nhập thơng tin phản hồi để tìm ra những
thiếu sót của luật, tích cực nâng cao năng lực làm luật của các địa biểu
Quốc hội để dần tiến tới một hệ thống pháp luật đồng bộ và đầy đủ.
+ Hoàn thiện và đổi mới quản lý Nhà nước về tiền tệ - tín dụng ngân
hàng.
Chính sách tiền tệ được xem là lĩnh vực quan trọng hàng đầu trong
các lĩnh vực của kinh tế vĩ mơ, nó là nội bộ địn bẩy để kích thích kinh tế
phát triển và để điều tiết nền kinh tế đi đúng hướng. Tuỳ theo thực trạng
của nền kinh tế mà trong từng thời kỳ phải có chính sách tiền tệ là nới lỏng
hay thắt chặt, sao cho khối lượng tiền tệ phản ánh đúng quan hệ cung - cầu
tiền tệ trên thị trường, tăng nhanh tốc độ lưu chuyển của tiền tệ trong nền
kinh tế. Cịn với hoạt động tín dụng: mở rộng hoạt động tín dụng với những
mức lãi suất hấp dẫn, những loại hình tín dụng thuận tiện để có thể huy
đọng tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong dân, tăng nguồn vốn cho nền kinh tế,
góp phần đưa nhanh thị trường chứng khốn vào hoạt động.
Với chính sách ngoại hối: chúng ta đã xoá bỏ cơ chế tỷ giá cố định
chuyển sang cơ chế thả nổi có sự quản lý nhằm ổn định giá trị của đồng
Việt Nam đồng qua đó có tác động tích cực tới cán cân thanh tốn của đất
nước. Hơn nữa chúng ta cũng phải mở rộng hoạt động của thị trường ngoại
hối làm cho các ngân hàng, các Công ty Việt Nam ngày càng tham gia rộng
rãi hơn vào thị trường tiền tệ quốc tế.
+ Tiếp tục kiềm chế lạm phát.
Đây vẫn là nhiệm vụ quan trọng trong những năm tới. Chúng ta đã
thành công trong việc ngăn chặn lạm phát phi mã ở những năm 80 và
những năm đầu của thập kỷ 90. Trong những năm từ 1993 tới nay chúng ta
ln duy trì được mức lạm phát thấp (một con số).
Để duy trì một mức lạm phát có thể kiểm sốt được chúng ta phải có
sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, lĩnh vực, các chính sách như: Điều
chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu tiêu dùng, giảm thâm hụt ngân sách sửa
đổi hệ thống ngân hàng, chấn chỉnh hệ thống tài chính, giá cả, xuất nhập
khẩu, hạn chế việc in tiền, tạo sự thơng thống trong lưu thong hàng hố...
22
Đồng thời chúng ta cũng phải có những biện pháp chống thiểu phát. Vấn
đề mà đã có một số dấu hiệu trong một số ngành, mặt hàng năm 1999.
+ Đổi mới chế độ tiền lương.
Lương là khoản tiền trả cho người lao động vì sự cống hiến họ. Chế
độ lương của ta đã có những thay đổi nhưng cịn có nhiều bất cập như
lương cố định thấp làm cho người lao động khơng thực sự gắn bó với cơng
việc. Trong giai đoạn tới chúng ta phải cải cách chế độ lương theo hướng
lương trả theo mức độ thực hiện công việc để cho tiền lương thực sự là địn
bẩy kích thích năng lực, sự sáng tạo của người lao động.
+ Tăng cường phối hợp các công cụ quản lý vĩ mơ.
Xét ở tầm quốc tế thì sản xuất trong quốc gia là một hệ thống giống
như ở một doanh nghiệp. Sức mạnh của quản lý Nhà nước chính là ở
phương hướng hoạt động đúng đắn và nghệ thuật phối hợp các hoạt động
tồn xã hội do vậy các cơng cụ quản lý vĩ mô cần được phối hợp với nhau
chặt chẽ hơn.
23
PHẦN III
KẾT LUẬN
Chúng ta đang trong quá trình chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong q trình đổi mới này Nhà nước đóng vai trị quan trọng, nó
vừa là người định hướng, vạch kế hoạch, hướng dẫn thực hiện, sửa đổi
đường lối... nhằm đưa nền kinh tế nước ta thành một nền kinh tế lớn xã hội
chủ nghĩa. Trong hơn mười năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước bộ mặt kinh tế xã hội của ta đã có những thay đổi căn bản.
Chúng ta đã bước đầu xác lập được cơ chế kinh tế mới cơ chế thị trường,
đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, người dân
thêm tin vào Đảng và yên tâm đi theo Đảng, cơ sở hạ tầng được đổi mới,
các xí nghiệp công nghiệp đã được tăng lên cả về số lượng và chất lượng,
cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng hiện đại... và cái quan trọng là chúng ta
đổi mới kinh tế mà vẫn giữ được sự ổn định về chính trị, xã hội - điều mà
hầu như khơng quốc gia nào làm được. Những cái này đạt được chính là
nhờ vào sự quản lý, dẫn dắt của Nhà nước. Những năm tiếp theo chúng ta
vẫn tiếp tục con đường đổi mới mà chúng ta vẫn tiếp tục con đường đổi
mới mà chúng ta đã chọn nhưng chúng ta sẽ gặp những khó khăn mới. Sự
phá hoại của các thế lực phản động, sự thấp kém về khoa học cơng nghệ, tư
duy... do đó trong giai đoạn tiếp theo này Nhà nước vẫn phải đóng vai trị
chủ đạo trong mọi mặt của quá trình đổi mới, đặc biệt trong lĩnh vực kinh
tế để đưa nèn kinh tế Việt Nam đạt tới mục tiêu đã chọn.
24