Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Quan điểm về nhà nước và pháp luật của các nhà tư tưởng Tây Âu thời kỳ cận đại pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.69 KB, 7 trang )

Quan điểm về nhà nước và pháp luật của các nhà
tư tưởng Tây Âu thời kỳ cận đại
1. Ở nước Anh:
nước Anh là mộ6t trong những nước đầu tiên ở Châu Âu có quan hệ tư bản nảy
sinh và phát triển mạnh mẽ. Từ cuối thế kỷ XVII, nước Anh chính là “nơi chôn rau
cắt rốn của chủ nghĩa duy vật hiện đại”. Chính trên mảnh đất của quốc gia tiên tiến
này đã xuất hiện những trào lưu tư tưởng và những nhà tư tưởng dân chủ nổi tiếng.
Chúng tã sẽ tiếp cận những đại diện xuất sắc đó trong lĩnh lua65ttu7 tưởng Nhà
nước và pháp luật.
+ Tư tưởng của Tômát Hốpxơ (Tho – mas Hobbes) (1588 – 1679):
Theo Tômát Hốpxơ, mỗi dân tộc trong sự phát triển của mình đều trải qua hai giai
đoạn: giai đoạn tự nhiên và giai đoạn xã hội công dân (hay còn gọi là gian đoạn
Nhà nước). Nhà nước là sự sáng tạo cao nhất mà con người có thể làm được. Nhà
nước đóng vai trò điều hành sự phát triển của xã hội, xử phạt những ai vi phạm lợi
ích chung của mọi người. Nhà nước “tựa như một con người nhân tạo” mà Chính
phủ là linh hồn của đó. Sự xuất hiện Nhà nước cũng có mặt hạn chế ở chỗ là nó
làm giảm bớt các khát vọng tự nhiên nhất định của con người, tự do của con người
do đó mà bị thu hẹp. Nhưng không còn cách nào khác, con người cần có Nhà nước
thì mới sống yên ổn được.
Các đại diện của Nhà nước nhiều khi trong một chừng mực nào đó không làm thỏa
mãn sở thích cá nhân của một ai đó. Nhiệm vụ của Nhà nước là phải trừng phạt,
nhưng phải công minh, còn mỗi cá nhân phải có nghĩa vụ phải tuân theo. Theo
Hốpxơ, Nhà nước không phải tuân theo nhà thờ, mà ngược lại nhà thờ phải tuân
theo Nhà nước.
+ Tư tưởng của Giôn Lin-bec-nơ (1614-1657):
Dựa vào quyền bẩm sinh của nhân dân Anh, Lin-bec-nơ đòi hỏi hủy bỏ quyền lực
của nhà vua và thượng nghị viện, thành lập nghị viện một viện – cơ quan đại diện
cho toàn thể nhân dân Anh, và từ một đến hai năm sau lại bầu lại một lần. Để đảm
bảo pháp chế, cần chia ra thành quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đòi hỏi này
nhằm chống lại sự lộng quyền của bộ máy quan liêu; đồng thời cũng chống lại sự
mưu toan của phái độc lập chiếm đa số trong nghị viện muốn tập trung toàn bộ


quyền lực về tay mình. mục đích của việc phân chia quyền lực là nhằm đảm bảo
nền pháp chế dân chủ tư sản và củng cố các quyền tự do, dân chủ.
+Tư tưởng của Giêcácđơ Uynxtenli:
tất cả quan chức của nước cộng hòa đều được bầu ra và thay đổi hàng năm. Đứng
đầu Nhà nước là nghị viện mỗi năm được bầu một lần; các đạo luật được thông
qua sẽ có hiệu lực nếu trong vòng một tháng không có sự phản đối của nhân dân.
Việc đảm bảo nền pháp chế ở nước cộng hòa có ý nghĩa cực kỳ to lớn; vấn đề đó
liên quan đặc biệt đến hoạt động của các quan chức. Ong chỉ ra bản chất giai cấp
của Nhà nước và cho rằng chế độ tư hữu là nguyên nhân dẫn tới thảm cảnh của
người lao động. Đồng thời ông cũng cố thực hiện những tư tưởng của mình trên
thực tế, đưa ra kế hoạch mở rộng việc cải tạo xã hội và Nhà nước dựa trên những
nguyên lý cộng sản chủ nghĩa.
+ Tư tưởng của Giônlốccơ (1632-1704):
Nhà nước được thành lập để bảo vệ các quyền tự nhiên của con người, ban hành
luật pháp để tạo lập và bảo vệ quyền sở hữu cũng như sử dụng các lực lượng xã
hội để thực hiện các đạo luật này và bảo vệ sự tấn công từ bên ngoài.
Quyền lập pháp phải thuộc về nghị viện phải họp thường kỳ để thông qua các đạo
luật, nhưng không can thiệp và quá trình thực thi chúng.
Quyền hành pháp thuộc về nhà vua. Nhà vua lãnh đạo việc thi hành pháp luật, bổ
nhiệm các bộ trưởng, chánh án, và các quan chức khác. Hoạt động của nhà vua
phụ thuộc pháp luật và vua không có “đặc quyền” nhất định đối với nghị viện (như
quyền phủ quyết, bải miễn, …) để nhằm không cho phép nhà vua thâu tóm quyền
lực về tay minh2.
2. Ở nước Pháp:
Tư tưởng chính trị của Pháp thế kỷ XVIII rất phong phú, đa dạng. Thời kỳ lịch sử
này đã sản sinh ra những nhà tư tưởng vĩ đại đặt nền móng cho cách mạng tư sản.
Nhiều tư tưởng của họ vẫn còn sáng mãi đến ngày nay. Đánh giá giá trị tư tưởng
của các nhà Khai sáng, Ph.Anghen viết: “Những vĩ nhân Pháp đã soi sáng đầu óc
mọi người, để chuẩn bị cho cuộc cách mạng sắp bùng nổ, chính họ là những người
hết sức cách mạng…”. Đương nhiên, tính cấp tiến của những tư tưởng chính trị tư

sản không thể vượt qua khỏi những khuôn khổ hệ tư tưởng tư hữu tư sản chủ
nghĩa.
+ Tư tưởng của Vonte (Voltaire) (1694-1778):
Vonte tán thành hệ thống lập hiến của Anh. vào những năm 60, ông nghiêng về tư
tưởng dân chủ kiểu Anh, khi mâu thuẫn giữa thể chế chuyên chế và đẳng cấp thứ
ba trở nên sâu sắc. Hơn nữa, bắt đầu xuất hiện những tư tưởng cộng hòa trong hệ
thống tư tưởng của ông. Từ việc thừa nhận nền cộng hòa là hình thức Nhà nước sơ
khai trong cuốn Từ điển triết học, Vonte đã bắt đầu nói về sự hợp lý của chế độ
cộng hòa và những tính chất ưu việt của nó.
+Tư tưởng của Môngtexkiơ (1689-1775):
Môngtexkiơ có tư tưởng chống lại nhà chuyên chế, theo ông chuyên chế là hình
thức cầm quyền trong đó cả quốc gia nằm dưới quyền của một người, đó là Nhà
nước phụ thuộc vào sự lộng quyền của người cầm quyền. Trong Nhà nước đó
không có pháp luật, và nếu trong một chế độ chuyên chế có pháp luật thì chúng
vẫn không có ý nghĩa thực tế, vì trong chế độ đó không có những thiết chế đảm
bảo duy trì pháp luật. Bởi vậy, Nhà nước chuyên chế là Nhà nước khủng bố, Nhà
nước của sự chuyên quyền.
Theo ông, lập pháp là quyền làm ra luật, sửa đổi và hủy bỏ luật, hành pháp là
quyền chăm sóc an ninh, đối nội, đối ngoại, lãnh đạo dân chúng thời bình cũng
như thời chiến trong khuôn khổ luật pháp ban hành. Tư pháp là quyền trừng phạt
người phạm tội và phân xử khi có tranh tụng giữa các cá nhân. Mỗi cơ quan hay
mỗi bộ phận của một cơ quan được quyền hoạt động trong lĩnh vực của mình,
không có quyền trong lĩnh vực khác, nhưng có quyền ngăn chặn cơ quan khác.
+ Tư tưởng của Giăng Giắc Rútxô (1712 – 1778):
Rútxô gắn bất bình đẳng trong xã hội với sự xuất hiện tư hữu nảy sinh trong quá
trình hoàn thiện công cụ sản xuất, cũng như những lầm lạc của con người. Từ đó
xuất hiện kẻ giàu, người nghèo và cuộc đấu tranh giữa họ. Tuy Rútxô đã mô tả
một cách duy tâm sự nảy sinh Nhà nước và pháp luật, song ở ông đã có một loạt
các tư tương tuyệt vời về mối quan hệ Nhà nước pháp luật và bất công xã hội, do
sự nảy sinh chế độ tư hữu. Nhà nước và pháp luật là sản phẩm của sự tư hữu đó.

Hơn thế nữa, bất công này dẫn đến đối lập quyền lợi, đàn áp lẫn nhau, đó là cội
nguồn của áp bức. Điều này nói lên sự cố gắng của Rútxô trong việc giải thích
nguồn gốc Nhà nước và pháp luật từ lập trường duy vật.
Theo Rútxô, mọi điều luật mà toàn dân chưa chuẩn y đều vô giá trị. Hội nghị các
dân biểu nếu có cũng chỉ có quyền chuẩn bị dự luật chứ không có quyền làm ra
luật pháp. Trong Nhà nước, Rútxô phân biệt quyền lập pháp và quyền hành pháp.
Quyền lực thứ nhất là ý chí của tổ chức chính trị, còn quyền lực thứ hai là sức
mạnh của nó.
+ Tư tưởng của phái Giacôbanh (Jacobins) (1758 – 1794):
Theo Rôbespierre, nhân dân là người chủ tối thượng của Nhà nước, được tổ chức
và hoạt động theo pháp luật do chính nhân dân thông qua. Do đó, quyền lập hiến,
một quyền lực ot61i cao thuộc về nhân dân. Đó là ý chí của nhân dân mà không
một đại diện nào có quyền ngăn cản. Ông phân biệt luật pháp thành hai loại: luật
và sắc lệnh. Những luật quan trọng chỉ có thể được thông qua với điều kiện đã
được trưng cần ý dân ý.
3. Ở nước Đức:
không chỉ chính trị xã hội Đức trước ngưỡng cửa năm 1789 bề ngoài không khác
gì không khí ảm đạm của đời sống xã hội Đức các thập kỷ đầu thế kỷ XVIII. Cuộc
cách mạng tư sản Pháp vĩ đại hệt như tia chớp lóe sáng vào đất nước này. Quần
chúng nhân dân và những đại diện tiên tiến nhất của nền văn hóa Đức vui mừng
đón chào những sự kiện cách mạng ở Pháp. Ba vấn đề mấu chốt cần phải giải
quyết ở Đức là: thành lập sự thống nhất dân tộc; dân chủ hóa chế độ Nhà nước,
chế độ pháp luật; bãi bỏ chế độ nông nô.
+ Tư tưởng của Emmanuen Cantơ (Emmanuel Kant) (1724 – 1804):
Khẳng định quan điểm duy tâm về tư sản về bản chất và trách nhiệm của Nhà
nước, Cantơ nhanh chóng được giai cấp bốc lột thừa nhận là một trong những nhà
lý luận đầu tiên về “nhà nước pháp quyền”, tức là Nhà nước dường như dựa trên
độc lập cá nhân và trong hoạt động của mình dường như tuân thủ tuyệt đối các
điều khoản của pháp luật.
Việc phân loại các hình thức Nhà nước theo cơ cấu của chúng không được Cantơ

chú ý lắm. Ông phân biệt ba dạng: chuyên chế, quý tộc và dân chủ. Ông cho rằng
trung tâm của vấn để tổ chức Nhà nước là phương thức nhân dân cầm quyền.
Cantơ phân biệt pháp luật thành ba loại: pháp luật tự nhiên, mà dường như có các
nguyên tắc, tiên nghiệm tất nhiên; pháp luật thực tế mà nguồn gốc của nó là ý chí
của người lập pháp; pháp luật công lý là đòi hỏi khát vọng không được pháp luật
quy định và do vậy không đảm bảo bằng cưỡng chế. Pháp luật tư nhiên về phần
mình chia thành hai nhánh: luật tư và luật công. Luật tư điều chỉnh mối quan hệ
giữa các cá nhân với tư cách là chủ sở hữu, còn luật công điều chỉnh mối quan hệ
giữa mọi người liên minh thành cộng đồng Nhà nước và các công dân với tư cách
là các thành viên của tổng thể chính trị. Theo Cantơ, mọi Nhà nước có ba quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tổng thể và sự nhất trí ba quyền này có thể ngăn
ngừa chuyên chế và đảm bảo phồn vinh cho quốc gia.
+ Tư tưởng chính trị của J.G.Phichtơ (Johann Gottlieb Fichte) (1762 – 1814)
Do nhu cầu đảm bảo quyền tự do của cá nhân đã xuất hiện Nhà nước. Sức mạnh
cưỡng chế của Nhà nước không thể là ý chí của cá nhân. nó chỉ có thể là ý chí tập
thể, thống nhất, được tạo lập bởi sự nhất trí của tất cả bằng một thỏa thuận tương
ứng. Nhờ đó ý chí chung nảy sinh và chính quyền nhà nước được thiết lập. Ý chí
chung của nhân dân là cốt lõi của quyền lập pháp và xác định phạm vi ảnh hưởng
của Nhà nước. Ở điểm này cho thấy nhà dân chủ Phíchtơ muốn ngăn chặn sự
chuyên quyền của quyền lực chuyên chế cảnh sát đối với các công dân của mình,
và dựa trên học thuyết pháp quyền tự nhiên ông khẳng định các quyền chính trị và
tự do cá nhân.
+ Tư tưởng của G.V.Ph. Hêghen (1770 – 1831):
Nhà nước là thể chế tổng hợp. Trong nhà nước, sự thống nhất giữa nội dung pháp
luật và niềm tin đạo đức đạt tới hình thức cao nhất. Nhà nước là hiện thực của tư
tưởng đạo lý: “Sự tồn tại của Nhà nước là cuộc du ngoạn của Chúa trong xã hội
loài người”. Nhà nước có giá trị tuyệt đối tự thân mà không cần sự khẳng định có
tính thực dụng nào cả. Nhà nước không phụ thuộc vào xã hội công dân. Ngược lại
xã hội cần tiền đề là sự tồn tại của nhà nước. Sự tồn tại của Nhà nước đi trước sự
phát triển của xã hội. Sự phân biệt rõ ràng giữa xã hội và Nhà nước như vậy của

Hêghen trong lịch sử tư tưởng chính trị đã đảo ngược mối quan hệ hiện thực của
chúng từ chân lên đầu.

×