Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.44 KB, 4 trang )
Ngũ vị tử - Vị thuốc trị chứng phế hư
Ngũ vị tử còn gọi là huyền cập, ngũ mai tử, sơn hoa tiêu Tên khoa học là
Schisandra chinensis (Turcz) Baill.
Bộ phận dùng làm thuốc là quả, hạt. Thành phần hóa học: trong ngũ vị tử có tinh
dầu, các dẫn chất thuộc nhóm lignan, vitamin C và E… Theo Đông y, ngũ vị tử vị
chua, tính ôn. Vào kinh phế và thận. Có tác dụng cố biểu, cầm mồ hôi, còn dùng
liễm phế, cố tinh, sinh tân dịch. Công năng: an thần, liễm phế, bổ thận, chí hãn sáp
tinh chỉ tả sinh tân chỉ khát. Dùng cho các trường hợp: viêm khí phế quản mạn tính
gây hen suyễn, sau các bệnh sốt nhiễm khuẩn, mất nước, khát nước, hồi hộp đánh
trống ngực, tim đập mạnh loạn nhịp, mất ngủ, ngủ hay mê, quên lẫn giảm trí nhớ.
Liều dùng: 4 - 8g.
Ngũ vị tử được dùng làm thuốc trong các trường hợp sau:
Cơ thể hư nhược, ra nhiều mồ hôi (tự ra nhiều mồ hôi hoặc mồ hôi trộm): bá
tử nhân 125g, bán hạ khúc 125g, mẫu lệ 63g, nhân sâm 63g, ma hoàng căn 63g,
bạch truật 63g, ngũ vị tử 63g, đại táo 30 quả. Đại táo nấu nhừ, loại bỏ hạt, nghiền
nát. Các vị khác nghiền chung thành bột mịn, nhào với nước đặc đại táo để làm
hoàn to bằng hạt ngô. Có thể làm dưới dạng bột. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 20 - 30
viên.
Chứng phế hư, ho hen suyễn: đảng sâm 12g, mạch môn đông 12g, ngũ vị tử 6g,
tang phiêu tiêu 12g. Sắc uống.
Người già phổi yếu, thở suyễn: ngũ vị tử 5g, sa sâm bắc 12g, mạch môn đông 10g,
ngưu tất 10g. Sắc uống.
Ích thận, cố tinh: tang phiêu tiêu 12g, ngũ vị tử 8g, long cốt 12g, phụ tử 12g. Tất
cả làm thành viên hoàn, hoặc sắc uống. Chữa thận dương hư, hoạt tinh.