Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Trường đại học sư phạm nttw nam qltc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.84 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
KHOA VĂN HÓA NGHỆ THUẬT

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN : QUẢN LÝ THIẾT CHẾ VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG VHNT 1
Tên Đề Tài :
TÌM HIỂU VỀ BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM
HỌ VÀ TÊN : Nguyễn Thành Nam
MSV : 2253420066
LỚP : K16B- Quản Lý Văn Hóa – Khoa Văn Hóa Nghệ Thuật
THỜI GIAN HỌC : CA 1 SÁNG THỨ 5
GIẢNG VIÊN : Đào Thị Thủy Tiên

Hà Nội,Năm 2023


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN XOAY QUANH ĐỀ TÀI.
1.1: Các khái niệm chính.
1.1.1: Khái niệm quản lý.
1.1.2: Khái niệm bảo tàng.
1.1.3: Khái niệm quản lý bảo tàng.
1.2: Giới thiệu sơ lược về bảo tàng dân tộc học.
1.3: Vai trị của cơng tác hoạt động và quản lý bảo tàng dân tộc học.
CHƯƠNG 2: THỰC TẾ QUẢN LÝ TẠI BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT
NAM HIỆN NAY.
2.1: Chức năng và nhiệm vụ của bảo tàng dân tộc học Việt Nam.
2.2: Các hoạt động quản lý
2.3: Thực trạng quản lý hoạt động tại bảo tàng dân tộc học.


CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TẠI BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM.
3.1: Phương hướng hoạt động của bảo tàng.
3.2: Giải pháp trong hoạt động của bảo tàng dân tộc học.
KẾT LUẬN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.


MỞ ĐẦU
Kể từ khi dựng nước, Hà Nội vẫn luôn là mảnh đất thiêng, có vị trí chiến
lược vềchính trị, kinh tế và văn hóa tiêu biểu cho cả nước. Để có thể lưu
giữ được các nét đẹp của các dân tộc khác nhau trên đất nước hay
những phong tục tập quán của người dân việt nam ta cần nơi để lưu
giữ những vẻ đẹp đó. Bảo tàng Dân tộchọc Việt Nam vừa là một cơ sở
khoa học vừa là một trung tâm văn hóa, có tính khoa học cao và tính xã
hội rộng lớn. Bảo tàng có các chức năng như sau: Nghiên cứu khoa học,
sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, phục chế, trưng bày, trình diễn, để giới
thiệu và giáo dục về những giá trị lịch sử – văn hóa của các dân tộc
trong và ngồi nước; cung cấp tư liệu nghiên cứu về các dân tộc; đào
tạo cán bộ nghiên cứu, nghiệp vụ, quản lý về nhân học bảo tàng và bảo
tàng dân tộc học. Hiện nay Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là một địa
chỉ hấp dẫn du khách trong và ngoài nước tới để tham quan, nghiên
cứu, trải nghiệm văn hóa các dân tộc Việt Nam. Đây là nơi thường
xuyên tổ chức các buổi trình diễn nghề thủ cơng vàcác loại hình văn hóa
dân gian khác nhau của các dân tộc ở Việt Nam, Đông Nam Á và các khu
vực khác trên thế giới. Chính vì sự hấp dẫn này mà trên
trangTripAdvisor đã bình chọn bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đứng ở
vị trí thứ 4 trong số 25 bảo tàng hấp dẫn nhất châu Á năm 2014, đứng
sau Bảo tàng tượng binh mã Tần Thủy Hoàng (Trung Quốc), Bảo tàng
Diệt chủng Tuol Sleng (Campuchia) và Bảo tàng Tưởng niệm Hịa bình

Hiroshima (Nhật Bản). Cũng theo bình chọn của du khách trên
TripAdvisor, Bảo tàng DTHVN được xếp vị trísố 1 trong top 10 bảo tàng
hấp dẫn nhất tại Việt Nam. Đây là lần thứ 3 liên tiếp Bảo tàng DTHVN
được du khách vinh danh trên TripAdvisor, năm 2013 được xếp thứ
6/25 bảo tàng hấp dẫn nhất châu Á và năm 2012 được nhận chứng chỉ
Xuất sắc (Excellent Certificate) Với mong muốn tìm ra những nguyên
nhân, ưu điểm và hạn chế, từ đó đưa ra những định hướng giải pháp
quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của bảo tàng cũng như


làm tốt hơn nữa việc gìn giữ, nghiên cứu và giới thiệu di sản văn hóa
thủ đơ tới mọi tầng lớp nhân dân và bạn bè quốc tế, tôi đã chọn đề tài
“Quản lý hoạt động của Bảo tàng các dân tộc” làm đề tài tiểu luận


NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN XOAY QUANH ĐỀ TÀI.
1.1: Các khái niệm chính.
1.1.1: Khái niệm quản lý.
Theo như từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa động từ quản lý theo
hai yếu tố cấu thành. “Quản” là trông coi, giữ gìn theo những yêu cầu
nhất định. “Lý” là tổ chức, điều khiển các hoạt động theo yêu cầu nhất
định.
Do đó, cơng tác quản lý là thực hiện hai quá trình “quản” và “lý” một
cách chặt chẽ với nhau. Quản lý xuất hiện khi có các hoạt động chung
của con người. Quản lý có vai trị điều khiển, chỉ đạo các hoạt động
chung đó, phối hợp những hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân tạo để
thành hoạt động chung thống nhất của tập thể, đồng thời chi phối, điều
hoà hoạt động một cách hợp quy luật nhằm đạt được mục tiêu đã định

trước .
1.1.2: Khái niệm bảo tàng.
Có nhiều cách hiểu và khái niệm khác nhau về bảo tàng.
Theo quy định của Luật Di sản Văn hóa (sửa đổi, bổ sung năm 2009),
bảo tàng được định nghĩa là một cơng trình văn hóa có nhiệm vụ thu
thập, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày và giới thiệu di sản văn hóa. Đây
là nơi lưu giữ các bằng chứng vật chất về thiên nhiên, con người và môi
trường sống của con người. Chức năng chính của bảo tàng là phục vụ
nhu cầu nghiên cứu, học tập, tham quan và hưởng thụ văn hóa của
cơng chúng.


Bảo tàng, hay viện bảo tàng, là nơi trưng bày và bảo quản tài liệu, hiện
vật cổ liên quan đến các lĩnh vực như lịch sử, văn hóa của một dân tộc
hoặc giai đoạn lịch sử cụ thể. Mục đích chính của bảo tàng là giáo dục,
học tập, nghiên cứu và đáp ứng sự tò mò trong việc khám phá quá khứ.
Các bảo tàng công cộng thường cung cấp vật phẩm trưng bày thơng
qua các cuộc triển lãm, có thể là tạm thời hoặc vĩnh viễn.Có đến hàng
nghìn bảo tàng địa phương tại các thành phố, thị trấn và khu vực nông
thôn, trong khi các bảo tàng lớn nhất thường đặt ở các thành phố lớn
trên thế giới. Mỗi bảo tàng có mục đích riêng biệt, từ bảo tồn và quản
lý bộ sưu tập đặc biệt của mình đến phục vụ cả nhà nghiên cứu và công
chúng. Bảo tàng không chỉ hướng đến mục tiêu khoa học, mà còn nhấn
mạnh vào việc phục vụ và làm hài lòng sự tò mị của cơng chúng.Dựa
theo Hội đồng Bảo tàng Quốc tế (ICOM), thế giới hiện có hơn 55.000
bảo tàng phân bố trên 202 quốc gia. Các loại bảo tàng đa dạng, bao
gồm bảo tàng nghệ thuật, bảo tàng lịch sử tự nhiên, bảo tàng khoa học,
bảo tàng chiến tranh và bảo tàng trẻ em.
1.1.3: Khái niệm quản lý bảo tàng.
Khái niệm quản lý bảo tàng là quá trình tổ chức và điều hành một cơ sở

bảo tàng với mục tiêu đảm bảo sự hiệu quả trong việc bảo quản, trưng
bày, và tương tác với hiện vật văn hóa. Quản lý bảo tàng bao gồm nhiều
khía cạnh phức tạp, bắt đầu từ việc thu thập và bảo quản hiện vật, nơi
cung cấp sự an toàn và bền vững cho các tài liệu và vật phẩm lịch sử.
1.2: Giới thiệu sơ lược về bảo tàng dân tộc học.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, được thành lập theo quyết định của
thủ tướng chính phủ vào ngày 24 tháng 10 năm 1995 và khánh thành
chính thức vào ngày 12 tháng 11 năm 1997, đóng vai trị quan trọng và
có ý nghĩa to lớn trong nền văn hóa đa dạng của Việt Nam, nơi đang
sinh sống 54 dân tộc. Ý tưởng về việc thành lập Bảo tàng Dân tộc học đã
được Nhà nước thực hiện từ năm 1981, khi quyết định tạo ra một bảo


tàng tại thủ đô Hà Nội để tập trung trưng bày và bảo quản di sản văn
hóa đa dạng của cả nước.

Hình ảnh : Bảo Tàng Dân Tộc Học Việt Nam
Quá trình xây dựng Bảo tàng Dân tộc học diễn ra từ năm 1989, được
chính thức phê duyệt luận chứng kinh tế – kỹ thuật vào ngày 14 tháng
12 năm 1987, và nhận đất từ Nhà nước với diện tích lên đến 3,27 ha
vào năm 1990. Cơng trình này được bắt đầu với vốn đầu tư vào năm
1986, và tổng kinh phí xây dựng đạt 27 tỷ đồng, cộng thêm khoảng 4 tỷ
đồng cho công việc sưu tầm hiện vật, tư liệu và tổ chức trưng bày.Ban
quản lý của Bảo tàng Dân tộc học từng là một phần của Viện Dân tộc
học, nhưng vào ngày 24 tháng 10 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ đã


quyết định thành lập Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, trực thuộc Trung
tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, hiện là Viện Khoa học xã hội
Việt Nam.Khi khánh thành vào ngày 12 tháng 11 năm 1997, Bảo tàng

Dân tộc học Việt Nam đã trở thành một cơng trình kiến trúc độc đáo,
do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh (dân tộc Tày) và kiến trúc sư người Pháp
Véronique Dollfus thiết kế. Bảo tàng bao gồm ba khu vực trưng bày
chính, bao gồm Tịa nhà Trống Đồng, khu Vườn kiến trúc và Tịa nhà
Đơng Nam Á. Với lối kiến trúc mới lạ và sáng tạo, Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam trở thành không gian trưng bày độc đáo, tái hiện đa dạng văn
hóa của 54 dân tộc Việt Nam thông qua 15.000 hiện vật và 42.000
thước phim và bức ảnh. Các ngôi nhà dân dụ được tái hiện trong Vườn
kiến trúc là những hiện vật sống động, mơ phỏng văn hóa và kiến trúc
truyền thống .
Nội dung trưng bày của bảo tàng bao gồm: Khu vực bên trong Bảo tàng
Dân tộc học Việt Nam là một không gian đa dạng, bao gồm các khối nhà
trưng bày, cơ sở nghiên cứu, thư viện, và hệ thống kho bảo quản. Phần
trưng bày bên trong nhà được thiết kế trên tồn bộ tồ nhà 2 tầng với
diện tích 2.500m2, có hình mơ phỏng của một chiếc trống đồng - biểu
tượng của văn minh Việt Nam và nhiều nước khác trong khu vực. Một
chiếc cầu đá granit dẫn vào toà nhà, tạo cảm giác như bước vào một
căn nhà sàn phổ biến ở nhiều vùng.Mặt nền sảnh lớn được trang trí
bằng đá granit, biểu trưng theo hình thể của Tổ quốc có đất liền và biển
cả. Các khối nhà liên hồn với nhau, mỗi gian trưng bày của từng tộc
người thể hiện trong việc trưng bày hiện vật theo lối kể chuyện, tạo nên
một câu chuyện lớn phản ánh cuộc sống đa dạng của đồng bào các dân
tộc Việt Nam.Khu trưng bày trong nhà được chia thành 9 chủ đề chính,
giới thiệu về các nhóm ngơn ngữ và các dân tộc Việt Nam, từ nhóm
ngơn ngữ Việt-Mường đến các nhóm khác như Thái-Kadai, Mông-Dao,
Hán-Tạng, Môn-Khmer, Nam Đảo, và các dân tộc Chăm, Hoa, Khmer,
đồng thời nhấn mạnh vào giao lưu và hội nhập giữa các dân tộc.Phần


lớn diện tích trong nhà được sắp xếp cho trưng bày thường xun, và

cũng có khơng gian dành riêng để tổ chức các triển lãm tạm thời theo
chuyên đề. Các tầng trong nhà chia thành các phần giới thiệu và trưng
bày về các dân tộc theo nhóm ngơn ngữ, kết hợp với các chủ đề như
ngữ hệ Nam Đảo ở miền núi, nhóm Hán-Tạng, nhóm Mơng-Dao, nhóm
Tày-Thái, và các dân tộc giao lưu. Tầng 1 giới thiệu chung về các dân tộc
và nhóm ngơn ngữ Việt-Mường, trong khi tầng 2 tập trung vào các dân
tộc như Chăm, Hoa, Khơme, Gia Rai, Ê Đê, Hmông, Dao, và nhiều dân
tộc khác.Khu trưng bày ngồi trời có hạn chế về diện tích, nhưng Bảo
tàng vẫn có 9 cơng trình kiến trúc dân gian và một số hiện vật lớn, tái
hiện văn hóa và kiến trúc truyền thống của nhiều dân tộc Việt Nam, bao
gồm nhà rông của người Ba Na, nhà sàn dài của người Ê Đê, nhà sàn
của người Tày, nhà nửa sàn nửa đất của người Dao, nhà trệt lợp ván
pơmu của người Hmơng, nhà ngói của người Việt, nhà trệt của người
Chăm, nhà trình tường của người Hà Nhì, và nhà mồ của người Gia Rai.
1.3: Vai trị của cơng tác hoạt động và quản lý bảo tàng dân tộc học.
Công tác hoạt động và quản lý bảo tàng dân tộc học đóng vai trị quan
trọng trong việc bảo tồn, nghiên cứu, và truyền bá di sản văn hóa đa
dạng của các dân tộc. Vai trị này khơng chỉ giúp duy trì sự đa dạng văn
hóa mà cịn đóng góp vào việc tạo ra một không gian học thuật và giáo
dục đặc sắc.Công tác hoạt động của bảo tàng dân tộc học không chỉ giới
hạn trong việc trưng bày hiện vật mà còn mở rộng đến việc tổ chức các
sự kiện giáo dục, hội thảo, và các hoạt động tương tác với cộng đồng.
Những hoạt động này không chỉ giúp mở rộng kiến thức về văn hóa dân
tộc mà cịn tạo cơ hội cho cộng đồng tham gia và chia sẻ kinh nghiệm.
Đồng thời, cơng tác này cịn giúp xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa
bảo tàng và cộng đồng, tăng cường tình cảm quốc tế và tạo điều kiện
thuận lợi cho hợp tác văn hóa.Quản lý bảo tàng dân tộc học đòi hỏi sự
linh hoạt, hiểu biết sâu sắc về các nền văn hóa khác nhau, và khả năng
kết hợp giữa bảo tồn di sản và đáp ứng nhu cầu của khách tham quan.



Quản lý tài chính là một khía cạnh quan trọng, vì nó ảnh hưởng trực
tiếp đến khả năng duy trì và phát triển của bảo tàng. Sự tìm kiếm nguồn
thu nhập đa dạng, như thông qua đối tác và nhà tài trợ, là quan trọng
để bảo tàng có thể thực hiện các dự án và hoạt động.Ngoài ra, quản lý
bảo tàng còn liên quan đến việc xây dựng và duy trì cơ sở vật chất,
nghiên cứu và phát triển bộ sưu tập, cũng như việc đào tạo và phát
triển đội ngũ nhân sự. Các chiến lược truyền thông và quảng bá cũng là
yếu tố quan trọng để thu hút đối tượng thăm quan và tăng cường uy tín
của bảo tàng.
CHƯƠNG 2: THỰC TẾ QUẢN LÝ TẠI BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT
NAM HIỆN NAY.
2.1: Chức năng và nhiệm vụ của bảo tàng dân tộc học Việt Nam.
+ Chức năng: Bảo tàng có nhiệm vụ tiến hành các cơng việc nghiên cứu
khoa học và triển khai các hoạt động chuyên môn nhằm giới thiệu, phổ
biến, và giáo dục về lịch sử, văn hóa của các dân tộc trong và ngồi
nước. Đồng thời, bảo tàng đóng vai trị cung cấp tư liệu và luận cứ khoa
học về các dân tộc cho các cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, bảo
tàng còn thực hiện các dịch vụ và hoạt động liên quan đến bảo tàng,
như tư vấn và cung cấp thông tin chun ngành.Bảo tàng khơng chỉ giữ
vai trị là nơi lưu giữ di sản văn hóa mà cịn tham gia vào việc đào tạo và
bồi dưỡng nguồn nhân lực về bảo tàng học, nhân học, và dân tộc học
cho cộng đồng. Việc này nhằm phát triển và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực chun mơn, góp phần vào sự phát triển của lĩnh vực này ở
quốc gia.
+ Nhiệm vụ: Bảo tàng, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ quan trọng nhằm nghiên
cứu, bảo quản, và giới thiệu về văn hóa của các dân tộc trong và ngồi
nước. Điều này bao gồm việc tiến hành các hoạt động nghiên cứu sâu
rộng



về các khía cạnh của đời sống và văn hóa của các dân tộc, quản lý và
bảo quản hiện vật, tư liệu, thực hiện các chương trình trưng bày, và
tham gia vào các hoạt động giáo dục và quảng bá văn hóa. Bảo tàng
cũng đóng vai trị trong việc kết hợp nghiên cứu với đào tạo, đào tạo
nguồn nhân lực và hợp tác quốc tế, đồng thời quản lý tổ chức, nguồn
lực, và tài sản theo quy định của Nhà nước và Viện Hàn lâm. Ngoài ra,
Bảo tàng thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chủ tịch
Viện Hàn lâm.
2.2: Các hoạt động quản lý
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đóng vai trị quan trọng trong việc lưu
giữ và giới thiệu văn hóa của 54 dân tộc. Với hàng nghìn hiện vật, bảo
tàng hình thành nhiều bộ sưu tập đa dạng về trang phục, vũ khí, đồ
dùng sản xuất, đồ vải, và các loại trang phục dân tộc khác nhau. Điểm
đặc biệt của sưu tầm là sự tập trung vào những đồ vật hàng ngày thay
vì những cổ vật đắt tiền, phản ánh đầy đủ mọi khía cạnh của cuộc sống
và văn hóa của cộng đồng dân cư.
Bảo tàng không chỉ chú trọng đến quá khứ mà còn sưu tập hiện vật từ
hiện tại, nhấn mạnh vào việc giải thích văn hóa, thẩm mỹ, và tâm lý của
các dân tộc. Hoạt động này giúp hiểu rõ sự nối tiếp giữa truyền thống
và hiện đại. Đồng thời, bảo tàng tổ chức các triển lãm thành công, như
"Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp" và "Ngày hội tre trúc của các dân tộc ở
tiểu vùng sông Mê Kông".
Tuy nhiên, để hiện vật trở nên sinh động và lôi cuốn người xem, cần
phải có thơng tin liên quan và ghi chép khoa học, đòi hỏi sự nắm vững
kiến thức dân tộc học và chuyên môn cao từ người sưu tầm. Bên cạnh
đó, cơng tác marketing và quảng bá cũng là yếu tố quan trọng để tăng
cường sự nhận thức và quan tâm từ công chúng đối với bảo tàng.



Trưng bày không chỉ là bộ mặt quan trọng của Bảo tàng Dân tộc học,
mà còn là bức tranh phản ánh sâu sắc công tác sưu tầm và nghiên cứu
khoa học của bảo tàng. Hoạt động trưng bày không chỉ đơn thuần là
việc giới thiệu hiện vật, mà còn là nơi thể hiện sự kết hợp mềm dẻo và
tâm huyết của cán bộ trưng bày cùng các họa sĩ thiết kế.
Bảo tàng Dân tộc học không ngừng đẩy mạnh hoạt động trưng bày, tập
trung vào nghiên cứu cơ bản để tái hiện đầy đủ lối sống, đặc trưng về
kinh tế, văn hóa, và xã hội của các dân tộc trên cả nước và một số dân
tộc trên thế giới. Bên cạnh trưng bày cơ bản, bảo tàng còn đặc biệt chú
trọng vào nghiên cứu, sưu tầm, và phục dựng các loại hình kiến trúc
nhà ở cổ truyền, đồng thời tái tạo môi trường sinh thái của các dân tộc.
Các hoạt động này đáp ứng xu hướng và nhu cầu của công chúng trong
thời đại ngày nay, nơi mà việc giao lưu văn hóa và hợp tác tồn cầu trở
nên ngày càng quan trọng.
trưng bày thường xuyên: Khu nhà trưng bày và khu trưng bày ngồi trời
đóng vai trị quan trọng tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Phần trưng
bày trong nhà tập trung hiện vật tiêu biểu về cuộc sống vật chất và tinh
thần của các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Bảo tàng không áp đặt quá
nhiều hiện vật vào tủ trưng bày để tránh làm cho du khách cảm thấy
chống ngợp và khó lịng chú ý đến từng chi tiết. Có tổng cộng 97 tủ
kính lớn nhỏ, được sắp xếp thành 9 không gian trưng bày và phân chia
theo các chuyên đề khác nhau. Các hiện vật được chọn lựa và trưng bày
một cách đa dạng, từ tủ chỉ có một mặt đến tủ có tới 4 mặt, và từ tủ chỉ
chứa một hiện vật đến tủ chứa nhiều hiện vật khác nhau.
Bảo tàng chú trọng vào việc giảm thiểu sự sử dụng khâu thuyết minh,
thay vào đó tập trung vào thơng điệp dễ hiểu và cô đọng. Đồng thời,
việc sử dụng tiếng Việt, tiếng Anh, và tiếng Pháp trong việc giới thiệu
cũng giúp thu hút sự chú ý của đa dạng đối tượng khách tham quan.



Bảo tàng áp dụng kỹ thuật hiện đại trong trưng bày, bao gồm xử lý ánh
sáng, sử dụng đèn chuyên dụng, và hệ thống thơng khí để bảo vệ hiện
vật khỏi ẩm mốc. Khu trưng bày ngoài trời của bảo tàng bao gồm các
kiến trúc nhà của các dân tộc, cơng trình phụ, và các địa điểm quan
trọng khác. Đây khơng chỉ là nơi bảo tồn di sản văn hóa mà còn là điểm
hấp dẫn đặc biệt thu hút sự quan tâm và tham quan của công chúng.
Khu trưng bày ngoài trời được phát triển từng bước mỗi năm, đưa vào
hoạt động những cơng trình mới và các hoạt động sáng tạo, góp phần
làm nổi bật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
trưng bày không thường xuyên: Hoạt động trưng bày khơng thường
xun là những sự kiện mang tính nhất thời, được tổ chức theo chuyên
đề tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Đây là những hoạt động đặc biệt,
không phải tất cả các bảo tàng ở Việt Nam đều có cơ hội và điều kiện
thực hiện. Việc tổ chức các cuộc trưng bày không thường xuyên mang
lại sự mới mẻ và hấp dẫn cho du khách. Bảo tàng đã thành công trong
việc tổ chức nhiều cuộc trưng bày đặc biệt như "Cuộc sống Đồng bằng
sông Cửu Long: Câu chuyện của 6 cộng đồng", "Ngày hội rèn đúc của
các dân tộc Nùng, Hmông, Việt", "100 năm đám cưới Việt", "Vũ điệu
trên cát - ảnh lễ hội thổ dân Ôtraylia", "Ngày hội tre trúc của các dân
tộc ở tiểu vùng sông Mê Kông"...
Những sự kiện này không chỉ giúp du khách khám phá nhiều vùng,
nhiều địa điểm trong và ngoài nước mà cịn giúp họ trải nghiệm mơi
trường văn hóa đặc thù với những giá trị văn hóa quý báu. Cuộc trưng
bày này giúp người xem có cái nhìn sâu sắc hơn về những giá trị văn
hóa đặc sắc của các dân tộc, mở rộng kiến thức và sự hiểu biết về đa
dạng văn hóa của cộng đồng..
Bảo tàng khơng chỉ là một kho lưu trữ văn hóa mà cịn là một trường
học quan trọng, đóng vai trị khơng thể thiếu trong hoạt động giáo dục
và trồng người. Với nguồn trí thức đa dạng, tài liệu khoa học phong



phú, và các hiện vật trực quan, bảo tàng trở thành một cơ sở vật chất
quan trọng để tham gia và nâng cao chất lượng tri thức, tình cảm, và
nhân cách của người xem. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều bảo tàng ở Việt
Nam, nhưng khơng có bảo tàng nào chuyên đặc biệt dành cho trẻ em.
Thông thường, trẻ em tham quan bảo tàng dưới sự tổ chức của nhà
trường, và điều này giảm hiệu quả giáo dục của trải nghiệm đó.
Để giải quyết vấn đề này, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã đặt giáo
dục trẻ em làm một chiến lược dài hạn và liên tục. Bảo tàng đã hợp tác
với một số trường học để thay đổi cách thức đưa trẻ em tới bảo tàng,
tăng cường chất lượng trải nghiệm của họ. Các cuộc trưng bày không
thường xuyên được tổ chức để tạo sự mới mẻ và hấp dẫn, với những
sự kiện như "Cuộc sống Đồng bằng sông Cửu Long", "Ngày hội rèn đúc
của các dân tộc Nùng, Hmông, Việt", "100 năm đám cưới Việt", v.v.
Bảo tàng đã xây dựng Phòng khám phá dành cho trẻ em dưới 12 tuổi,
nhằm kích thích khả năng tìm tịi, sáng tạo và khám phá của trẻ thơng
qua những trị chơi giáo dục và thẩm mỹ. Phòng khám phá được thiết
kế với nhiều chủ đề và trò chơi khác nhau như hộp khám phá về nghề
dệt, kỹ thuật khắc và in tranh Đơng Hồ, xếp hình các ngơi nhà trưng bày
ngồi trời, nghe nhạc và nhận biết nhạc cụ dân tộc, nặn đồ chơi 12 con
giáp, v.v. Bảo tàng còn tổ chức các chương trình và sự kiện như Tết
trung thu cho trẻ em, chương trình "Truyền thống dân gian của chúng
ta".
Nhìn chung, chiến lược của Bảo tàng Dân tộc học đã giúp tăng cường
vai trò giáo dục của bảo tàng, biến nó thành một trường học thú vị và
hấp dẫn cho trẻ em, đồng thời thu hút sự quan tâm và tham gia tích
cực của cộng đồng.
Bảo tàng khơng chỉ là nơi lưu giữ và trưng bày di sản văn hóa mà cịn
đóng vai trị quan trọng trong việc thu hút và giáo dục khách tham

quan. Để đạt được mục tiêu này, việc thực hiện các hoạt động tiếp thị,


giới thiệu, và quảng bá là không thể thiếu. Đối tượng chính của những
hoạt động này là khách tham quan, bao gồm cả khách trong nước và
khách nước ngoài, với mỗi đối tượng này được chia thành nhiều phân
khúc khác nhau.
Khách trong nước thường bao gồm công nhân, cán bộ viên chức Nhà
nước, học sinh, sinh viên, bộ đội, nông dân, và họ thường muốn tìm
hiểu về lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán của các dân tộc. Trong khi
đó, khách nước ngồi rất đa dạng và có thể đến từ các tổ chức chính
phủ, tổ chức phi chính phủ, các cơ sở kinh tế, hay là khách du lịch, và họ
mong muốn trải nghiệm văn hóa Việt Nam.
Chính sách tiếp thị của bảo tàng đóng vai trị quan trọng trong việc thu
hút khách tham quan cả trong và ngồi nước. Một chiến lược tiếp thị
tích cực và linh hoạt sẽ giúp bảo tàng tối ưu hóa hiệu quả của mình.
Điều này khơng chỉ giúp bảo tàng tránh được tình trạng tham quan
theo mùa mà cịn tạo ra một nguồn thu nhập ổn định và bền vững.
Hiện nay, nhu cầu của khách tham quan đang ngày càng tăng, và với
chiến lược tiếp thị mạnh mẽ, bảo tàng có thể khai thác hiệu quả "nguồn
dự trữ" này, đồng thời góp phần nâng cao dân trí xã hội. Bằng cách
thực hiện chiến lược tiếp thị hỗn hợp, Bảo tàng Dân tộc học đã đạt
được những thành công đáng kể, không chỉ ở khía cạnh số lượng khách
tham quan mà cịn ở uy tín, danh tiếng, và hiệu suất của bảo tàng. Điều
này thể hiện qua các sự kiện và triển lãm thành công, sự tăng trưởng ổn
định của lượng khách tham quan và sự hài lòng của cộng đồng. Đồng
thời, chiến lược tiếp thị cũng cần được duy trì và điều chỉnh để đảm
bảo sự hiệu quả và bền vững trong thời gian tới.
Bảo tàng Dân tộc học không ngừng đặt ra mục tiêu ngắn hạn và dài hạn
trong hoạt động của mình, chủ yếu hướng tới sự đa dạng về nội dung,

sản phẩm, và khơng gian văn hóa để mang lại trải nghiệm phong phú


cho khách tham quan. Trong khuôn khổ của mục tiêu này, hoạt động
trình diễn đóng một vai trị quan trọng và hiệu quả.
Các sự kiện trình diễn tại bảo tàng đã mang lại nhiều hoạt động sơi nổi,
như trình diễn hát chèo Tầu, trình diễn nghề làm giấy dó, và gần đây là
trình diễn Ca trù, biểu diễn rối nước, cũng như biểu diễn âm nhạc của
sinh viên đến từ các dân tộc thiểu số. Điều quan trọng là những sự kiện
này không chỉ làm phong phú nội dung của bảo tàng mà còn tạo ra một
nhu cầu và quan tâm ngày càng lớn từ phía khách tham quan.
Một trong những thành cơng lớn nhất của các sự kiện trình diễn là việc
chúng đã trở thành một phần không thể thiếu trong sự chú ý của công
chúng. Những hoạt động này cung cấp cơ hội cho cộng đồng hiểu rõ và
trân trọng giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc. Đặc biệt, đối với thế
hệ trẻ, trình diễn giúp họ nhìn nhận sức sống và đặc điểm riêng biệt của
mỗi dân tộc, tạo nên một trải nghiệm về giá trị văn hóa và truyền thống
khơng ngừng.
Trình diễn khơng chỉ là cơ hội để cộng đồng nội địa hiểu biết sâu sắc về
văn hóa Việt Nam mà cịn là một hành trình ngắn mà có sức hút lớn,
giúp người nước ngồi hiểu biết và trải nghiệm văn hóa đặc sắc của đất
nước.
2.3: Thực trạng quản lý hoạt động tại bảo tàng dân tộc học.
Là một trong những cơ sở bảo tàng quan trọng tại Việt Nam, Bảo tàng
Dân tộc học có nhiệm vụ nghiên cứu, bảo tồn và trưng bày về văn hóa,
lịch sử, và đời sống của các dân tộc thiểu số trong nước. Bảo tàng hiện
nay đã làm tốt vai trị của mình, Giữ gìn và truyền bá văn hóa dân tộc,
giáo dục cộng đồng về sự đa dạng văn hóa của Việt Nam. Bên cạnh đó
cịn Tổ chức các triển lãm, hội thảo, hoạt động giáo dục để tăng cường
nhận thức về văn hóa dân tộc.



Tuy nhiên nhiều thực trạng về mặt hạn chế vẫn diễn ra, Bảo tàng có thể
gặp khó khăn về nguồn lực tài chính để duy trì và phát triển các hoạt
động của mình. Cơ sở vật chất, như trưng bày, bảo quản, và bảo dưỡng
hiện vật, có thể gặp vấn đề về kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt là nếu
thiếu đầu tư đúng đắn. Việc truyền đạt thông tin và tương tác với cộng
đồng có thể gặp khó khăn nếu khơng có chiến lược truyền thơng hiệu
quả và chúng ta có thể thấy hiện nay bảo tàng vẫn chưa được nhiều
người biết đến và truyền bá rộng rãi...
Báo cáo Đồn khảo sát của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục ngày 14.9 do Phó
Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, ơng Bùi Ngọc Quang, trình
bày đã làm nổi bật những vấn đề cấp bách về cơ sở vật chất và cơ sở hạ
tầng tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Theo đó, Tịa Trống đồng,
khơng gian trưng bày về các dân tộc ở Việt Nam, từ thời bao cấp đến
nay đã bộc lộ nhiều vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt là về diện tích và
thiết kế khơng phù hợp, cùng với hệ thống ánh sáng và thông gió khơng
hợp lý. Những vấn đề này khơng chỉ làm xuống cấp tòa nhà mà còn gây
ảnh hưởng lớn đến công tác bảo quản hiện vật và phục vụ khách tham
quan.
Một điểm mạnh của Bảo tàng, khu trưng bày ngoài trời với các cơng
trình kiến trúc dân gian đặc sắc, cũng đối mặt với những khó khăn do
thiếu đầu tư đúng mức, dẫn đến tình trạng hư hại và xuống cấp nhanh
chóng. Cụ thể, nguyên nhân chủ yếu được đặt ra là hạn chế về tài
chính, khi nguồn kinh phí chủ đạo đến từ ngân sách nhà nước với số
tiền phân bổ rất khiêm tốn.
Trong ngữ cảnh này, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đang đối diện với
thách thức lớn trong việc tổ chức các hoạt động đa dạng, phong phú, và
duy trì các cơng tác quan trọng như quản lý, bảo quản hiện vật, nghiên
cứu, và các sự kiện văn hóa. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về nguồn

lực tài chính để duy trì và phát triển Bảo tàng.


Tuy nhiên, ông Bùi Ngọc Quang cũng nhấn mạnh rằng đầu tư cho sự
vận hành và phát triển của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam hiện nay
chưa đủ xứng đáng với vị thế của một bảo tàng quốc gia hàng đầu tại
Việt Nam. Do đó, Bảo tàng mong muốn được Nhà nước đầu tư đúng
mức để có thể đáp ứng đầy đủ các nhiệm vụ và tiêu chí của một bảo
tàng hiện đại và tiên tiến ở châu Á. Ông cũng đề xuất cho phép Bảo
tàng hoạt động như một cơ quan đặc thù (bảo tàng) để tối ưu hóa quản
lý và vận hành.
Đồn khảo sát đã tỏ ra rất nhạy bén khi ghi nhận và chia sẻ với Bảo tàng
Dân tộc học Việt Nam về những thách thức và khó khăn mà đơn vị đang
đối mặt. Mặc dù Bảo tàng đã khẳng định vị thế và thương hiệu của
mình trong và ngồi nước, đồng thời tổ chức các hoạt động trưng bày
nhằm bám sát tôn chỉ và mục đích của mình, cũng như phục vụ tốt nhu
cầu đa dạng của các đối tượng khách tham quan, từ người nghiên cứu
đến những người muốn tìm hiểu văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, vấn đề lớn
nhất đặt ra là tổ chức bộ máy và biên chế của Bảo tàng không đáp ứng
đúng yêu cầu cho quá trình phát triển và đầu tư vào duy tu cơ sở vật
chất vẫn còn hạn chế. Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, ơng
Phan Viết Lượng, trong vai trị Trưởng đồn khảo sát, đã đặt ra băn
khoăn chính về vấn đề kinh phí. Do thiếu kinh phí, nhiều hiện vật quan
trọng khơng thể được trưng bày và các khu trưng bày hiện tại không
thể thay đổi, tạo điểm mới để thu hút cơng chúng. Điều này làm giảm
tính mới mẻ và hấp dẫn của Bảo tàng đối với cộng đồng.
Ngoài ra, đoàn khảo sát cũng đã gửi đề xuất tới Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam và cơ quan chủ quản là Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam, để tháo gỡ một số vướng mắc pháp luật, từ đó tạo điều kiện cho
Bảo tàng phát triển phù hợp với tiềm năng, yêu cầu, và nhiệm vụ trong

hệ thống bảo tàng quốc gia. Đặc biệt, đề xuất này cần đi kèm với các
nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đồng thời cần liên quan mật thiết đến


tổ chức bộ máy, biên chế của Bảo tàng, và phải có kế hoạch chi tiết để
đảm bảo tính bền vững và hiệu quả của các cải tiến.
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TẠI BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM.
3.1: Phương hướng hoạt động của bảo tàng.
Trong bối cảnh sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và kỹ thuật trong
thế kỷ XXI, bảo tàng học và nhân học phải đối mặt với những thách thức
khơng tránh khỏi để duy trì và cải thiện vị thế của mình. Bảo tàng
DTHVN, sau hơn 17 năm hoạt động, cần tiếp tục nỗ lực phát triển để
không bị tụt hậu và đáp ứng xu hướng phát triển chung.
Quan điểm và hướng đi của Bảo tàng DTHVN trong thời gian qua đã
được chứng minh là đúng đắn và có hiệu quả xã hội cao. Tuy nhiên, để
giữ vững vị thế, Bảo tàng cần duy trì những quan niệm và hướng đi đã
thiết lập, đồng thời phải linh hoạt và sáng tạo trong việc áp dụng những
ý tưởng tiên tiến mới. Thách thức lớn hiện nay đối với Bảo tàng là đưa
mình lên tầm cao mới.
Việc nâng cao chất lượng hoạt động và sản phẩm của Bảo tàng là rất
quan trọng. Chất lượng cao là yếu tố then chốt thu hút du khách và là
thước đo giá trị thực. Mọi lĩnh vực công tác của Bảo tàng đều cần tập
trung vào chất lượng. Trong bối cảnh này, đào tạo và phát triển nhân sự
là quan trọng, đặc biệt là việc rèn giũa đội ngũ cán bộ và nhân viên
chuyên nghiệp trong nghiên cứu, trưng bày, bảo quản, giáo dục, truyền
thông và các lĩnh vực khác.
Bảo tàng cũng phải đối mặt với thách thức cụ thể về thiếu chuyên gia
trong lĩnh vực nhân học và bảo tàng học. Việc quan tâm và khắc phục
tình trạng này là quan trọng để Bảo tàng có thể hội nhập và tiếp cận với

giới bảo tàng và nhân học tiên tiến trên thế giới.


Nếu không vượt qua được những thách thức này, Bảo tàng DTHVN có
nguy cơ tụt hậu so với các đối thủ cả trong và ngoài nước. Điều này đặt
ra một thách thức lớn, và để đạt tới tầm cao mới, Bảo tàng cần phải nỗ
lực và không ngừng cải tiến.
Trong những năm sắp tới, Bảo tàng DTHVN đặt mục tiêu tiếp tục duy trì
và nâng cao hiệu quả của hai khu trưng bày về các dân tộc Việt Nam tại
toà Trống đồng và ngoại trời. Đồng thời, Bảo tàng đang tích cực phấn
đấu để đưa tồn bộ tồ Cánh diều vào hoạt động. Ngồi việc trưng bày
văn hố của các dân tộc Đông Nam Á, Bảo tàng dự kiến mở các không
gian mới như trưng bày chuyên đề, sưu tập hiện vật, không gian hoạt
động giáo dục, và không gian bảo quản hiện vật và tư liệu nghe - nhìn.
Vấn đề về nhu cầu kho bảo quản hiện đại và khoa học đã được đặt ra
từ nhiều năm trước, và Bảo tàng cần ưu tiên thực hiện nhanh chóng.
Để hỗ trợ việc phát triển trưng bày chuyên đề và các hoạt động khác
liên quan đến dân tộc nước ngoài, Bảo tàng cần mở rộng mối quan hệ
với các tổ chức văn hoá, bảo tàng và cộng đồng nghiên cứu nhân học
trong khu vực.
Ngoài ra, Bảo tàng vẫn sẽ tiếp tục trọng tâm trưng bày và giới thiệu về
các dân tộc ở Việt Nam. Sưu tầm hiện vật và tư liệu nghe - nhìn về các
tộc người và các nhóm địa phương sẽ được chú trọng, đồng thời chuẩn
bị cho việc xây dựng trưng bày mới thay thế cho khu trưng bày thường
xuyên về các dân tộc Việt Nam tại toà Trống đồng, nhằm củng cố và
nâng cấp trải nghiệm cho công chúng.
Phương hướng tới năm 2030 bảo tàng xây dựng và tổ chức lại trưng
bày về Các dân tộc Việt Nam trong khơng gian trưng bày mới là một
q trình quan trọng và đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng để tạo ra một trải
nghiệm hấp dẫn và giáo dục cho khách tham quan. Tiến hành nghiên

cứu sâu rộng về các dân tộc Việt Nam, bao gồm văn hóa, lịch sử, truyền
thống và các khía cạnh khác.Xác định mục tiêu của trưng bày mới: giáo



×