Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Đại cương nt2 cô thùy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.95 KB, 49 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
KHOA VĂN HĨA NGHỆ THUẬT

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: ĐẠI CƯƠNG CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT 2
Tên đề tài:
TÌM HIỂU VỀ LOẠI HÌNH SÂN KHẤU : TUỒNG – HÁT BỘI
VÀ PHÂN TÍCH MỘT TÁC PHẨM YÊU THÍCH
HỌ VÀ TÊN: Đào Thúy Ngọc
MSV: 2253420069
LỚP: K16B - Quản lý Văn hoá - Khoa Văn hoá Nghệ thuật
THỜI GIAN HỌC: Ca 2 Sáng Thứ 6
GIẢNG VIÊN: Phạm Ngọc Thùy

Hà Nội, năm 2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. SƠ LƯỢC VỀ NGUỒN GỐC VÀ LỊCH SỬ NGHỆ
THUẬT TUỒNG – HÁT BỘI
1.

Khái

niệm...................................................................................
................................
2.

Tên



gọi......................................................................................
..................................
3.

Nguồn

gốc



Q

trình

hình

thành



phát

triển...................................................
a.

Thời

kỳ


phơi

thai

-

thời

Tiền

Lê..............................................................................
b.Thời

kỳ

phát

triển

-

thời

nhà



Trần .....................................................................
c.Thời


kỳ

suy

vi



thời

nhà

Hồ ..................................................................................
d.

Thời

kỳ

từ

thế

kỷ

XVII



XVIII .............................................................................

e.Thời

triều

Nguyễn

-

thế

kỷ

XIX..............................................................................
f.

Giai

đoạn

đầu

thế

kỷ

XX

đến

năm


1945.................................................................
g.

Thời

kỳ

sau

năm

1945

đến

nay ...............................................................................
CHƯƠNG II. ĐẶC ĐIỂM SÂN KHẤU NGHỆ THUẬT .


4.

Kịch

bản.....................................................................................
................................
5.

Hệ


thống

nhân

vật.....................................................................................
................
a.Mơ

hình

Kép ....................................................................................
.......................
b.Mơ

hình

Đào ...................................................................................
........................
c.



hình

Tướng ................................................................................
.......................
d.




hình

u

đạo ....................................................................................
................
e.Mơ

hình

Nịnh...................................................................................
.......................
f.Mơ

hình

Lão.....................................................................................
.....................
6.

Sân

khấu ..................................................................................
................................
7.

Phục

trang..................................................................................
..............................



8.

Hố

trang .................................................................................
................................
9.

Đạo

cụ.......................................................................................
................................
10.

Điệu

bộ

-

Động

tác

-

Biểu


cảm................................................................................
a.Đơi
mắt: ..................................................................................
..............................
b.Điệu

bộ

tay………………………………………………………………………..
c.Điệu

bộ

chân…………………………………………………………………….
11. Vũ đạo
CHƯƠNG III : ĐẶC ĐIỂM ÂM NHẠC TUỒNG – HÁT BỘI .
12. Thang âm……………………………………………………………………………..
13. Giai điệu……………………………………………………………………………….
14.

Ngữ

khí



Kỹ

thuật


thanh

nhạc

………………………………………..
15.Tiết tấu …………………………………………………………………………………
16.Làn điêu ………………………………………………………………………………..
a.Làn điệu Xướng………………………………………………………………………….
b.Làn

điệu

Hát………………………………………………………………………………..
c. Bài lẻ……………………………………………………………………………………….
17.

Dàn

nhạc

Hát

Bội………………………………………………………………………
a.Bộ gõ………………………………………………………………………………………..


b.Bộ hơi………………………………………………………………………………………
c.Bộ dây………………………………………………………………………………………
CHƯƠNG IV : PHÂN TÍCH TÁC PHẨM TUỒNG YÊU THÍCH ,VỞ
TUỒNG “” TAM HÙNG KIỆT “”

CHƯƠNG V : NGHỆ THUẬT TUỒNG – HÁT BỘI
KẾT LUẬN

MỞ ĐẦU
Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật dân tộc, Tuồng- Hát Bội là bộ
môn nghệ thuật sân khấu truyền thống độc đáo, ẩn chứa những tinh
hoa văn hoá và giá trị nghệ thuật đặc sắc. Hàng trăm năm qua, loại
hình này đã vượt qua bao thăng trầm của lịch sử để góp phần làm
nên bản sắc văn hóa Việt Nam.Tuồng - Hát Bội được hình thành
trên cơ sở ca vũ nhạc và các trị diễn xướngdân gian phong phú vốn
có từ lâu đời. Loại hình này có mặt ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam
nhưng phát triển mạnh mẽ và phổ biến hơn cả ở Nam Trung bộ. Âm
nhạc Tuồng – Hát Bội vừa khai thác vốn nhạc dân gian, vừa khai


thác lễ nhạc và tiếp thu những điệu nhạc từ phương Bắc. Là một loại
hình kịch hát thuộc dịng sân khấu tự sự, Tuồng- Hát Bội mang âm
hưởng hùng tráng với những tấm gương tận trung báo quốc, xả thân
vì đại nghĩa, những bài học về đạo lý, khí tiết của người anh hùng
trong các hoàn cảnh đầy mâu thuẫn và xung đột. Hát bội là một
nghệ thuật sân khấu độc đáo, có mặt ở nước ta từ rất sớm, tồn tại
đến nay hàng trăm năm.Tuồng- Hát bội được truyền từ Bắc (Đàng
ngoài) đến miền Trung (Đàng Trong) vào thế kỷ thứ XVII. Người có
cơng đầu phát triển sân khấu tuồng ở Đàng Trong là Đào Duy Từ.
Tuồng - Hát bội truyền vào Nam bộ khoảng thế kỷ XVIII và XIX.
Ngay từ khi có mặt ở đồng bằng sơng Cửu Long, hát bội gắn bó chặt
chẽ với hoạt động văn hố đình làng. Đình là trung tâm văn hố
cộng đồng của làng. Ở mỗi đình, ngồi gian chánh điện để thờ
Thành hồng Bổn cảnh, gian võ qui, thì nhất thiết phải có gian võ
ca. Gian võ ca thiết kế, bày trí như một rạp hát có sân khấu và khán

đài dành cho khán giả. Trong các kỳ lễ hội,tuồng - hát bội được
trình diễn để dâng cúng Thần Thành Hồng bổn cảnh của làng sau
là giúp vui cho bà con nông dân sau những ngày lao động vất vả.

NỘI DUNG
CHƯƠNG I . SƠ LƯỢC VỀ NGUỒN GỐC VÀ LỊCH SỬ NGHỆ
THUẬT TUỒNG – HÁT BỘI
1. Khái niệm
Tuồng – Hát Bội là nghệ thuật sân khấu cổ truyền Việt Nam có lối
kịch hát cách điệu


cao, có nhạc đệm. Tuồng – Hát Bội là một kiểu sân khấu tự sự, trình
bày nỗi lịng của nhânvật, diễn biến tình cảm của nhân vật, chú ý
đặc tả con người bằng hành động và điệu bộ sân khấu.Đặc điểm
chung của Tuồng – Hát Bội là tính kịch, tính bi hùng, mang theo
những tấm gương nhân vật tận trung báo quốc, xả thân vì đại
nghĩa, những bài học về lẽ ứng xử của con người giữa cái chung và
cái riêng, giữa gia đình và Tổ quốc, chất bi hùng là một đặc trưng
thẩm mỹ của nghệ thuật Tuồng – Hát Bội. Có thể nói đây là sân
khấu của những người anh hùng. Loại hình này khác biệt với cải
lương xã hội, cải lương Hồ Quảng (cải lương tuồng cổ), thoại kịch,
opera là những hình thức diễn xướng sân khấu mới ra đời trễ và
được chuộng hơn
2.Tên gọi
Tuồng còn được gọi là “Hát Bộ” hoặc “Hát Bội”. Tên gọi “Tuồng”
phổ biến ở miền
Bắc và được giới nghiên cứu sân khấu gọi chung trong những tài
liệu đã được xuất bản. + Theo Giáo sư Đồn Nồng trong cuốn «Sự
tích và Nghệ thuật Hát Bộ», “Bộ” nghĩa

là bước đi, đi bộ; “hát bộ” nghĩa là vừa hát vừa đi, và làm bộ tịch để
biểu diễn cảm
giác, cảm tình với câu hát. Khơng một thể loại nào nhiều điệu bộ
bằng hát tuồng.
Hát nói, hát xẩm, hát xoan, hát trống quân, ca Huế, hát giã gạo, hát
chèo đò, chỉ
dùng câu hát với giọng đàn, người hát không làm điệu bộ, cho đến
cả nét mặt cũng
thản nhiên, vì thế, người ta gọi là “tuồng hát bộ” để tôn cái đặc sắc
ấy lên.
+ Theo tác giả Trần Văn Khải trong cuốn «Nghệ thuật sân khấu Việt
Nam», ông nhận


định trong điệu hát này việc gì cũng “gia bội” - thêm lên. Một người
tướng có tính
nóng thường vẽ mặt rằn rực quá dữ, bộ tịch hung hăng, nói năng
nóng nảy. Thật
ra, tướng hồi xưa đâu có những cử chỉ, ngôn ngữ và mệt mày quá
hung tàn như thế.
Nhưng muốn cho khán giả dễ thấy tính cách bên trong của vai
tuồng, nên diễn viên
phải gia tăng điệu bộ và hóa trang cách hung bạo như vậy. Tiếng
“Hát Bội” do chữ
“Bội” trong gia bội, bội nhị mà ra, nghĩa là “thêm bằng hai, bằng
ba”.
Hai danh từ “Hát Bội” và “Hát Bộ” đã làm cho nhiều người phân vân
vì khơng biết
phải gọi như thế nào cho đúng. Nhưng dù là “hát bội” hay “hát bộ”,
trong dòng chảy lịch sử nghệ thuật dân tộc, đây vẫn là loại hình

biểu diễn cổ truyền độc đáo được hình thành trên cơ sở ca, vũ, nhạc
và các trò diễn xướng dân gian.Trong bài tiểu luận này, em xin được
sử dụng tên gọi “Tuồng - Hát Bội” – bởi tên gọi này thân thuộc và
được sử dụng phổ biến hơn trong thời nay.
3. Nguồn gốc – Quá trình hình thành và phát triển
Hát Bội có nguồn gốc từ lối hát “Thần hí” trong tục cúng thần, cúng
tổ tiên của người
Việt từ thời xưa. Lối hát này có dấu vết xuất xứ trong những hình
thức diễn trị, hát nghi lễ trong dân gian như hát Xuân Phả (Thanh
Hóa - mang mặt nạ múa hát), trò Trám, trò Cờ ,người (tích Thánh
Gióng, thần Tản Viên), hát Xoan,…cho thấy nghệ thuật biểu diễn
sân khấu của dân tộc của Việt Nam đã có từ rất sớm nhưng nằm
trong dạng ca múa nhạc (thể hiện trên trống đồng).
a. Thời kỳ phôi thai - thời Tiền Lê


Hình thức ca – diễn đầu tiên được ghi chép trong sử là trò hề của
Liễu Thủ Tâm. Trò
diễn này gồm các trị vui kể lại sự tích các nước và truyện Tam
Quốc, có con hát vẽ mặt và những người làm trò vui cho các quan,
khách trong triều xem.
b. Thời kỳ phát triển - thời nhà Lý Trần
Khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta ở hậu bán thế kỷ XIII, vào
năm 1285 Ất Dậu,
quân ta đại phá quân Nguyên ở trận Tây Kết, bắt được một Kép hát
tên là Lý Nguyên Cát ,vốn là diễn viên hí kịch Trung Quốc, giữ lại và
lập một ban hát giúp vui cho vua quan nhà Trần. Lý Nguyên Cát dựa
theo các truyện cổ làm ra các tuồng tích hát theo điệu phương Bắc.
Thời kỳ này múa hát, diễn trò cũng đang được nhà Trần ưa chuộng,
yêu thích nên ban hát của Lý Nguyên Cát gặp thời cơ thuận lợi, phát

triển mạnh mẽ với nhiều lý do: lối đóng tuồng mới lạ, có các bài
nam (kép) - nữ (đào) vừa hát vừa múa diễn các điệu bộ theo từng
vai trò trong sự tích, cốt truyện cổ, hóa trang đẹp, y phục lộng lẫy,
giọng hát hòa hợp với âm nhạc, dễ gây cảm xúc lòng người.
c. Thời kỳ suy vi – thời nhà Hồ
Cuối thời nhà Trần, từ đời nhà Hồ (1400 – 1407), đầu thế kỷ XV trở
về sau, khơng có
sử sách nào ghi lại những cuộc diễn trò Hát Bội cả. Nhà Hồ cũng chỉ
phiên chế ca nhạc,
múa vũ điệu. Nhà Lê (1428 – 1788) sau mười năm gian khổ, trường
kỳ kháng chiến chống giặc Minh, các vua Lê chú trọng đến ổn định
chính tình. Vua giao cho quan Thái thuờng cai quản Triều nhạc (âm
nhạc cung đình), cịn Dân nhạc (âm nhạc dân gian) thì do Giáo
phường trơng coi, chú ý vào nghi lễ chứ khơng thấy trình diễn Hát
Bội vui chơi.
d. Thời kỳ từ thế kỷ XVII – XVIII


Đến cuối thế kỷ XVII – đầu thế kỷ XVIII, Hát Bội mới trở thành một
nghệ thuật sân
khấu hoàn chỉnh với đầy đủ những luật lệ, quy tắc và bài bản. Ảnh
hưởng bởi tình hình của đất nước thời bấy giờ, Hát Bội thời kỳ này bị
phân tán khắp nơi, từ cung đình lan ra ngồi dân chúng, nhưng
khơng tàn lụi. Miền Bắc gọi là Hát Tuồng, từ Thanh Hoá trở vào miền
Trung gọi là Hát Bộ, miền Nam lại gọi bằng Hát Bội.Nghệ thuật Hát
Bội phát triển ở Đàng Trong khá mạnh. Vì vốn được nhân dân yêu
mến, phổ biến rộng rãi trong nhân dân, lại được chính quyền chúa
Nguyễn chủ trương phát triển để phục vụ cho nhiệm vụ chính trị
của họ nên nghệ thuật Hát Bội đã tiến lên một bước mới rực rỡ. Ở
Đàng Ngồi thì nghệ thuật này vẫn được phát triển trong dân

gian.Thời kỳ này, Đào Duy Từ (1571 – 1634) đã giúp chúa Nguyễn
sửa sang các lễ nghi có hát múa điệu múa cổ, phổ biến trong dân
gian, đặt ra những điệu múa mới như Song Quang nữ tướng xuất
quân. Do đó, Hát Bội phát sinh ở Bình Định, coi nơi đây là cái nôi
Hát Bội
của miền Trung.
e. Thời triều Nguyễn - thế kỷ XIX
Đây là giai đoạn hưng thịnh của nghệ thuật Hát Bội vì được sự ưa
chuộng của vua và
giới quý tộc, dưới thời Lê Văn Duyệt, tổng trấn Gia Định thành. Ngay
cả ở các vùng hẻo lánh miền Tây Nam Bộ cũng có tuồng hát bội
trình diễn ngồi trời hay trong đình làng. Xuống các tỉnh miền Tây
các đồn hát bội di chuyển bằng ghe thuyền, gánh hát bội vì thế
cũng được gọi là “ghe hát bội”.Năm Minh Mạng thứ 7 (1824 - 1826),
trên nền cũ của nhà hát Thanh Phong đường,vua cho xây dựng nhà
hát đầu tiên của Việt Nam gọi là Duyệt Thị Đường. Từ 1847 đến
1880, vua Tự Đức cho lập ban Hát bội cung đình có đến 300 đào
kép giỏi, chọn quan giỏi vào cung soạn tuồng. Vua Thành Thái


(1889 - 1909) rất mê hát bội, có lần vua cùng đóng tuồng ra
diễn.Người có cơng nhiều nhất trong việc phát triển hát bội bấy giờ
là cụ Đào Tấn (1844 -1907). Ông làm quan dưới thời vua Tự Đức,
Thành Thái, được giao phó soạn tuồng đến 20 vở và lập trường dạy
hát có tên là Học Bộ Đình.Những vở tuồng nổi tiếng thời kỳ này có
thể kể đến:
- Tuồng cung đình: Vạn Bửu trình tường (với 100 hồi, phải diễn 100
buổi), Quần
phương hiến thụy (phải diễn đến 40 buổi), Quần phương học lâm,
Bình Địch, Đãng

Khấu Chí, Võ Ngun Long,..
- Tuồng dân gian: Cổ thành Diễn võ đình, Hộ sanh đàn, Hoàng Phi
Hổ quá quan,
Trầm hương các,,…
f. Giai đoạn đầu thế kỉ XX – đến năm 1945
Hình thành loại Tuồng lãng mạn, mang nội dung mới, có nhiều ảnh
hưởng và mang
nội dung thời đại, xã hội đương thời như Tuồng Xuân nữ, Tuồng Cải
lương,…
Đến khoảng năm 1925 – 1945, Hát Bội bị phân hoá bởi những ảnh
hưởng của Cải
Lương của miền Nam và phong trào Kịch nói ở miền Bắc. Ở miền
Trung, Tuồng bỏ qua những bài múa, điệu hát nghệ thuật truyền
thống để chỉ đặt phần ca – diễn trên bản Xuân nữ. Ở miền Nam, do
ảnh hưởng của những gánh hát Tiều, Hồ Quảng, đã có những thay
đổi về nghệ thuật về cách hát, múa, nhạc điêm, trang phục, hoá
trang. Ở miền Bắc, Tuồng cổ cũng bị loại “Tuồng cải lương” lấn
chiếm.
g. Thời kỳ sau năm 1945 đến nay


Với chủ trương bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc, Nhà nước đã
có những đầu tư
thích đáng cho Tuồng từ những năm chiến tranh.
- Nhiều hội thảo, nghiên cứu về Tuồng được tổ chức, in ấn.
- Nhiều vở Tuồng cổ được khôi phục.
- Thành lập nhà hát tuồng trung ương,
- Tổ chức truyền dạy, nghệ thuật tuồng được giảng dạy trong các
trường nghệ thuật.
CHƯƠNG II. ĐẶC ĐIỂM SÂN KHẤU NGHỆ THUẬT

Hát Bội có rất nhiều quy tắc về mọi phương diện: hát, diễn xuất, vũ
đạo, hoá trang,
phục trang, sân khấu,…Để Hát Bội phát huy được hiệu quả, sân
khấu Hát Bội phải có
những nhân tố sau:
4. Kịch bản
Đề tài kịch bản Hát Bội thường lấy trong các truyện dã sử Trung
Quốc nhưng chủ yếu
là những mẩu truyện thích hợp với đặc điểm, tính chất và tư tưởng
đạo lý Việt Nam. Trong lịch sử, tuồng có nhiều tên gọi khác nhau.
Nhưng theo quan điểm của nhà nghiên cứu Đinh Bằng Phi trong
cuốn Nhìn về sân khấu hát bội Nam Bộ (2005), Tuồng được chia làm
hai bộ phận chính là Tuồng đồ và Tuồng pho.
- Tuồng đồ: nội dung cốt truyện dân gian, là những kịch bản khuyết
danh, xuất hiện
khoảng cuối thế kỷ XX. Cốt truyện Tuồng đồ mang tính châm biếm
đả kích quan
lại và chế độ, xã hội, đạo đức suy đồi (Nghêu, Sò Ốc, Hến; Trương
Đồ Nhục; Giáp
Kén, Xã Nhộng...).


- Tuồng pho: là những vở tuồng tuồng mang tính mẫu mực, dùng để
dạy nghề, tích
truyện hồn tồn Việt Nam (Sơn Hậu, Tam Nữ Đồ vương...).
Ngồi ra cịn có Tuồng truyện (những vở tuồng được sáng tác dựa
theo các tích truyện
của Trung Quốc), Tuồng Kinh (lưu hành ở miền Bắc), Tuồng Sài Gòn,
Tuồng Xuân Nữ, Tuồng lãng mạn.
Kịch bản bằng chữ viết ra đời muộn, sau khi nghệ thuật biểu diễn

tướng đối hoàn chỉnh.
Phần lớn kịch bản giai đoạn đầu là khuyết danh, những kịch bản
được sáng tác chỉ trong khoảng thế kỷ XIX – XX.
5. Hệ thống nhân vật
Nhân vật trong nghệ thuật hát bội Việt Nam có thể chia ra thành
các kiểu mơ hình: kép,
lão, đào, mụ, nịnh, tướng, u đạo.
a. Mơ hình Kép
Kép là thuật ngữ chỉ nhân vật thuộc giới tính nam. Ngoại hình Kép
thơng thường là
nam thanh niên hoặc trung niên. Kép thường hóa trang mặt sạch
(dùng râu để phân biệt).Đây là kiểu hóa trang tối giản, được vận
dụng để thể hiện nhân vật có tướng mạo khơi ngơ,hoặc bình
thường; thường là nhân vật tâm lý khơng dùng các điểm nhấn hóa
trang để bộclộ tính cách. Tương ứng với mơ hình Kép là kiểu kỹ
thuật hát – nói trong sáng, nho nhã.
Mơ hình Kép thường phân chia thành các nhân vật:
- Kép con: những người tuy tuổi nhỏ nhưng chí lớn và trở thành
những bậc anh
hùng hào kiệt, giúp ích cho đất nước khi tuổi đời cịn rất trẻ.
- Kép nịnh: với hình dung của một kẻ tiểu nhân, chuyên luồn cúi để
thăng tiến và dèm pha trung thần như Đổng Trác, Tào Tháo.


- Kép núi: các nhân vật này thường là người của triều đình được cử
đi lên núi
học đạo và khi xuống núi thì đã thành tài. Nhân vật đặc trưng của
vai Kép núi
có thể kể đến như Giang Chấn Tử, Mạnh Lương, Vương Bá Đương.
- Kép võ: là nhân vật đại diện cho sức mạnh và sự trung thành,

thường bộc trực
và tính tình nóng nảy, như Nhạc Phi, Phan Định Cơng.
- Kép văn: thường có màu mặt hồng, thể hiện tính tình điềm đạm
hiền hịa, đối
lập với sự nóng nảy bộc trực của Kép võ với khuôn mặt đỏ rực.
Đường nét trên
gương mặt Kép văn cũng mềm mại, không cường điệu như Kép võ.
b. Mơ hình Đào
Đào là thuật ngữ chỉ nhân vật thuộc giới tính nữ. Ngoại hình Đào
thơng thường là thiếu
nữ hoặc trung niên, phần lớn hóa trang mặt sạch, tác phong đoan
trang; hát – nói trong sáng.Trong mơ hình Đào, chỉ có nhân vật
Chung Vơ Diệm, Đào Tam Xuân và Ngọc Kỳ Lânlà hóa trang kiểu
mặt nạ, cịn lại hầu như đều là hóa trang mặt sạch.Trong Hát Bội,
các nhân vật nữ không được đa dạng như các nhân vật nam. Nhưng
chúng ta có thể kể tên được các vai diễn thường gặp như sau:
- Đào văn: tương tự như Kép văn, điềm đạm, hiền hòa và thùy mị,
tác phong
đoan trang, dịu dàng, hát - nói trong sáng. Trong đó, “Đào trào” là
kiểu nhân
vật nữ tham gia việc triều đình chính thống như Tạ Nguyệt Kiểu
(San Hậu).
Cịn “Đào trần/Đào trâm cơ” là kiểu nhân vật thiếu nữ bình dân,
hoặc xuất thân


trâm anh nhưng lưu lạc dân dã, không đội mũ/ngạch, chỉ cài trâm
như Điều
Huê Nữ (Điều Huê Nữ hạ san).
- Đào võ: tương tự như Kép võ, rất oai vệ, trang nghiêm, thường

mặc áo giáp võ,
hát - nói có lực, như vai Thần Nữ (Thần Nữ dâng Ngũ linh kỳ), Đoàn
Hồng
Ngọc (Đãi yến Đoàn Hồng Ngọc).
- Các nhân vật hoàng gia: thường sẽ là các vai như hoàng hậu, phi
tần, vợ các
quan.
- Mụ: kiểu nhân vật đào cao tuổi, hóa trang phần lớn là mặt sạch,
chân mày kẻ
bạc trắng, tóc bạc, tác phong chậm chạp, hát - nói khàn. Đa số
nhân vật thuộc
mơ hình mụ đều là mụ văn, tác phong nho nhã, khoan thai, từ tốn.
Ví dụ: Đổng
mẫu (San Hậu), Dương lịnh bà (Mộc Quế anh dâng cây).
c. Mô hình Tướng
Mơ hình Tướng là mơ hình nhân vật có phong thái, hành động và vũ
đạo
của Kép mang thuộc tính võ: oai vệ, nhanh nhẹn, hát - nói có lực
mạnh. Tướng thường hóa trang kiểu “mặt nạ” theo hình thức tượng
trưng, cách điệu. Tùy vào vai trò trong vở diễn chúng ta có Tướng
chính diện (tướng thuộc phe lương thiện, trung nghĩa) như Trịnh Ân
(Trảm Trịnh Ân), Hoàng Phi Hổ (Bá Ấp Khảo),… và tướng phản diện
như Tạ Ơn Đình San Hậu), Từ Hải Thọ (Gia hình loạn tướng), Ơ Lợi
Hắc (Thần Nữ dâng Ngũ linh kỳ),…
d. Mơ hình u đạo


Mơ hình u đạo là kiểu nhân vật phản diện, thường có gốc gác là
các lồi cầm thú tu
luyện thành người nên hành động, phong thái cũng mô phỏng sâu

sắc các lồi vật. Hóa
trang nhân vật vì lẽ đó cũng là một bản gợi ý những cách điệu,
tượng trưng cho lai lịch của nhân vật. Ví dụ như Dư Hồng (Lưu Kim
Đính giải giá Thọ Châu) nguyên là chim hồng nhạn tu luyện thành
người nên họa tiết tròng mắt cũng mơ phỏng hình chim, màu nền
mặt là màu đỏ. Tạo hình nhân vật Thầy rùa thường dùng mắt thau
để diễn tả mắt lộ kỳ quái,bụng to để chứa đựng phép mầu (nên con
gọi là bụng phép), và phục trang mô phỏng cách ăn mặc của đạo sĩ
Đạo giáo.
e. Mơ hình Nịnh
Mơ hình Nịnh là nhân vật nam thuộc phe phản diện; thường mặt
trắng mốc, râu rìa. Mơ
hình nịnh gồm:
- Nịnh gốc: đã có phe cánh vững mạnh. Ví dụ: Tạ Thiên Lăng (San
Hậu).
- Nịnh mụt: chưa có phe cánh vững mạnh. Ví dụ: Vưu Hồn, Bí Trọng
(Bá Ấp
Khảo).
Tuy có sự phân hóa, nhưng hai nhánh mơ hình nịnh này có kỹ thuật
biểu hiện khơng
khác nhau mấy về tạo hình, chỉ phân biệt rõ ràng theo phong thái.
Nếu như nịnh gốc thường có thái độ ngơng nghênh, xem thường tất
cả thì nịnh mụt chỉ bộc lộ phong thái hèn hạ, a
f. Mơ hình Lão
Lão là kiểu nhân vật kép cao tuổi, hóa trang phần lớn là mặt sạch,
chân mày kẻ bạc


trắng, ngoại hình râu tóc bạc, tác phong chậm chạp, hát - nói khàn.
Mơ hình Lão phân hố như sau:

- Lão văn: mặt trắng, râu bạc, ba hoặc năm chòm dài, sn mượt,
có học thức,
tác phong nho nhã. Ví dụ: Vương Dỗn (Phụng Nghi đình), Kiều
Quốc cựu
(Người đẹp đất Giang Đông).
- Lão võ: màu nền gương mặt thường sẽ là đỏ, tác phong oai vệ,
nhanh nhẹn,
nghiêm nghị, hát - nói có lực hơn.
- Lão lỗ: mặt đỏ, có mảng trắng quanh mắt lan ra gò má, râu liên
tu bạc, tác
phong nóng nảy, quyết đốn. Ví dụ: Phàn Địch Cơng (San Hậu);
Trình Giảo
Kim (Phàn Lê H phá Hồng thủy trận).
Ngồi ra cịn có mơ hình Lão văn pha, Lão tiều phu, Lão ngư phủ,
Lão nhút, Lão
rụi,…song thường ít thấy.
6. Sân khấu
Sân khấu phải được bày biện hợp theo từng cảnh diễn, trang trí đơn
giản, theo ngun
tắc tượng trưng, khơng có màn che, khơng thay đổi theo tình huống
sân khấu, khơng thay đổi theo cảnh dù thay đổi hồi, lớp sân khấu.
Phông sân khấu phủ một tấm lụa thêu rồng phụng màu sắc sặc sỡ,
có thể vén ra hai bên. Trong tấm màn để một cái rương lớn, trên
rương để lên một cái ghế cao dùng cho vua hoặc tướng soái ngồi khi
có thiết đại triều hay có hội nghị nơi sối đường.Phơng có hai cửa ăn
thơng với bên trong. Cửa bên phải từ sân khấu nhìn xuống khan giả
là cửa sinh ghi chữ “Xuất” đặt trống chiến và dàn nhạc, cửa bên trái
là cửa tử ghi chữ “Nhập” đặt trống chầu. Cạnh hai cửa có hai lọng



lợp lụa đỏ viền kim tuyến lóng lánh được treo hay dựng đứng. Có hai
tấm lụa thêu chữ “Sối” được để cạnh hai lọng. Nhờ lối dàn cảnh
đơn giản ấy nên rất thuận tiện cho soạn giả sắp đặt lớp lang. Sân
khấu hát bội chẳng khác nào một trang giấy trắng, trên đó soạn giả
vẽ vời thế nào tùy ý, chẳng cần đổi cảnh.
7. Phục trang
Nghệ thuật phục trang trong Hát Bội cũng đóng vai trị quan trọng
góp phần cho Hát
Bội trở thành một nghệ thuật tổng hợp. Phục trang thường được
thiết kế theo đúng trang phục của từng thời kỳ lịch sử.
- Vua đội mão Cửu Long, mặc áo Long bào hay Long cổn có thêu
rồng.
- Các quan tứ trụ triều đình thì mặc “mãng”. Mãng màu đỏ nếu là
quan võ già,
trung chính. Mãng màu tía nếu là Thái sư. Riêng mãng màu vàng
vua cũng
thường mặc.
• Quan văn đội mão Văn cơng có chóp trịn (qn sư, hoạn quan)
hoặc
đội mão Bình thiên có chóp bằng, màu đen (thái sư, hồng đệ). Khi
thiết
Thường triều, mặc áo bào tay rộng, cịn khi thiết Đại triều phải mặc
Mãng có gai và thêu rồng.
• Quan võ đội Ngạch, mặc Long chấn màu xanh hay đỏ, hai ống tay
áo
nịt chặt ở cổ tay, có đai, thường có áo giáp bên ngồi. Ở trong triều
đình
chầu vua mặc Mãng, khi ra chiến trận mặc Giáp. Quần dài, hai ống
cuốn
gọn bỏ vào hia.



- Tướng ra trận đội mão Kim khôi ba tầng, bằng đồng hay sắt có
chóp nhọn. Nữ
tướng Phiên đội mũ có hai lơng chim trĩ dài cong vút lên cao. Sau
lưng tướng
có hai chùm cờ “lịnh tiễn” nhỏ, hình vng, dắt chéo nhau.
- Kép núi đầu chít khăn đen, dưới vành khăn xoè ra hai, ba vành nhỏ
vải trắng
và đỏ để đỡ khăn. Vai Kép mặc áo dài đen thường, lưng có thắt
Xiêm trường
và Quân giáp từ thắt lưng trở xuống, đi chân không hoặc mang giày
đen.
- Thầy rùa đội mão Hiệp chưởng, mặc áo pháp sư, chân mang giày
tàu đen.
- Lão tu tiên mặc quần áo rộng (áo thụng) màu vàng, ra ngoài mặc
áo Bá Nạp.
- Đạo sĩ mặc áo thụng trắng có gạch đen ngắn, cách khoảng giữa
ngực, sau lưng
có hình bát qi màu đen, trung tâm điểm hình nhật nguyệt.
- Lão Tiều chít khăn đầu rìu màu nâu, áo nâu rách vá, ống tay áo dài
rộng quá
khuỷu tay, quần nâu rách vá ngắn quá đầu gối.
- Quân canh đội nón dấu nhỏ, sơn đỏ, có quai, áo ngắn hai màu đỏ
viền vàng,
quần trắng dài quá đầu gối, đi chân đất.
Hoà thượng mặc áo cà sa màu vàng, đầu trọc. Các sư tăng mặc
giống hoà
thượng, tiểu tăng mặc áo màu nâu. Thánh Tăng (Đường Tam Tạng)
mặc áo cà

sa đỏ có thêu kim tuyến vàng, đầu đội nón hoa sen. Tất cả tu sĩ
Phật đều mặc


quần dài trắng thường, chân đi giày Tàu.
- Đào thường có vai Hồng Hậu đội mão Cửu Phụng, vợ quan thì cài
trâm, mặc
áo rộng thêu, dưới mặc xiêm trường, mang vớ trắng hay mang giày
thêu. Đào
chiến đeo đai, trên đầu gắn lơng trĩ, thường cầm song kiếm, trừ Lưu
Kim Đính
cần siêu.
- Thị nữ, thị tỳ, nữ nhân hầu hạ trong cung hoặc vương phủ đầu cài
trâm (không
đội khăn, mão), đồ trang sức thường, áo dài thường màu lục, thắt
lưng lụa, quần
dài chấm gót, đi giày Tàu đen.
Ngồi ra, một nét đặc biệt trong phục trang nghệ thuật tuồng đó là
đơi Hia. Hia là một
loại giày dùng cho các nhân vật nam của nghệ thuật Tuồng. Hia cổ
đứng có đế cong hình bán nguyệt. Phần chạm đất của hia nhiều khi
chỉ vài phân. Đi hia cong như đi trên quả cầu trịn, khó đi, phải
luyện tập nhiều mới thoải mái được. Nhưng khi đã dùng thành thạo
đơi chia rồi thì nó lại giúp diễn viên biểu diễn rất linh hoạt. Trong
tuồng nhân vật rơi vào tìnhhuống bi kịch thì thường dùng chân hia
để bê, xiết thể hiện nội tâm như trường hợp Hoàng Phi Hổ lăn
trướng, Đổng Kim Lân biệt mẹ, Kim Lân thượng thành, Triệu Đình
Long thả con xuống sơng.
8. Hố trang
Ngồi y phục giả trang thì hố trang trên mặt là điểm đặc biệt quan

trọng trong Hát
Bội. Nói cách khác, nếu khơng hố trang để tạo nên diện mạo nhân
vật thì đó khơng phải là Hát Bội. Hát Bội của ta thường hoá trang



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×