Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Skkn lồng ghép giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh qua dạy học một số tác phẩm trong chương trình ngữ văn 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.63 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT HÀM RỒNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

LỒNG GHÉP GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC CHO
HỌC SINH QUA DẠY HỌC MỘT SỐ TÁC PHẨM TRONG
CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 10

Người thực hiện:
Nguyễn Lan Phương
Chức vụ:
Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh mực: Văn học

1
THANH HOÁ NĂM 2022

skkn


MỤC LỤC
Trang
2

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài

2


1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm

3

2. NỘI DUNG

4

2.1. Cơ sở lí luận

4

2.2. Thực trạng vấn đề

4

2.3. Nội dung và giải pháp thực hiện


5

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

16

3. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ

18

3.1. Kết luận

18

3.2. Kiến nghị

18

TÀI LIỆU THAM KHẢO

19

2

skkn


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Giáo dục đào tạo luôn là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của nhà nước và

của tồn dân. Vì vậy, hội nghị Trung ương VIII khóa XI đã yêu cầu đổi mới căn
bản toàn diện giáo dục và đào tạo. Bên cạnh việc phát triển trí tuệ, phẩm chất tư
duy cịn phải chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho họ sinh. Vì vậy,
vấn đề giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh ở các nhà trường được coi là
nhiệm vụ cấp thiết.
Giáo dục đang tích cực và hướng con người tới phát triển tồn diện nhưng
cơng tác giáo dục hiện nay đang đứng trước thách thức, khó khăn. Từng ngày,
từng giờ trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các câu chuyện giáo
dục, chúng ta phải nghe những câu chuyện khiến người đào tạo sản phẩm con
người phải suy nghĩ, trăn trở. Đây đó những học sinh vơ lễ, đánh thầy cơ giáo
của mình, đâu đó những học sinh đánh nhau ngay trước cổng trường, những clip
bạo lực được quay và tung lên mạng…Có khơng ít thanh niên chạy theo lối sống
tự do tư sản, sống ích kỉ, nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc, kém ý thức trong
quan hệ cộng đồng, thiếu niềm tin trong cuộc sống, ý chí kém phát triển, khơng
có tính tự chủ, thiếu lý tưởng, dễ sa vào các tệ nạn xã hội… Và cịn đó những âu
lo của cha ông khi con trẻ do ảnh hưởng của hội nhập mà đang quay lưng lại với
truyền thống, đang bỏ qua những nề nếp đẹp mà bao đời nay dân tộc gìn giữ,
phát huy.
Có thể nói việc giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông là một vấn đề vô
cùng quan trọng, là trách nhiệm của từng gia đình, nhà trường và tồn xã hội.
Là một giáo viên THPT, tơi nhận thấy việc chú trọng giáo dục đạo đức cho học
sinh hiện nay không chỉ là việc làm cần thiết mà còn là trách nhiệm lớn lao, nặng
nề của mỗi người giáo viên.
Với những lí do trên, tơi đã chọn đề tài “Giáo dục tư tưởng, đạo đức cho
học sinh lớp 10 qua giảng dạy môn Ngữ văn”.
Qua nghiên cứu, tôi nhận thấy vấn đề giáo dục tư tưởng, đạo đức hay giáo
dục đạo đức, lối sống, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là đề tài được không ít
đồng nghiệp triển khai, không chỉ ở môn Ngữ văn mà cịn ở rất nhiều mơn học
khác. Vậy nên, qua đề tài này tôi mạn phép xin nêu một số kinh nghiệm, thể
nghiệm của bản thân về việc kết hợp giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh lớp

10 thông qua một số tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam,
thuộc chương trình ngữ văn lớp 10 – Cơ bản.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
3

skkn


- Nhằm khẳng định vai tròn của việc giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học
sinh lớp 10 qua giờ dạy văn ở nhà trường phổ thông.
- Đưa ra một số giải pháp trong việc lồng ghép giáo dục tư tưởng đạo đức
cho học sinh thông qua dạy các tác phẩm văn học trong nhà trường. Góp phần
đào tạo đất nước những thế hệ học sinh khơng chỉ có tài năng mà cịn có tậm
hồn trong sáng, có lối sống lành mạnh, giàu lòng nhân ái…
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 10 trường THPT Hàm Rồng - Thành phố Thanh Hóa - Tỉnh
Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để hồn thành SKKN, tôi đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp: Phương
pháp quan sát, phân tích và đánh giá tình hình thực tế, phương pháp khảo sát
bằng phiếu học tập, phương pháp tổng hợp, khái quát…
1.5. Những điểm mới của sáng kiến:
Về lý luận: Sáng kiến đóng góp với các bạn đồng nghiệp dạy bộ mơn Ngữ
văn lớp 10 nói riêng và bộ mơn Ngữ văn cấp THPT nói chung về thực trạng vấn
đề phát triển năng lực tự học cho học sinh hiện nay.
Về thực tiễn: Đi sâu vào vấn đềrèn phát triển năng lực tự họccho học sinh
thông qua giảng dạy bộ mơn mình phụ trách, tơi muốn đưa ra một số giải pháp
mà bản thân tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy tại trường THPT Hàm
Rồng với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc thực hiện
mục tiêu của ngành giáo dục: đào tạo các em học sinh trở thành con người toàn

diện.

4

skkn


5

skkn


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận:
Văn học là một loại hình nghệ thuật đặc thù. Chức năng chủ yếu của văn
học không chỉ khơi dậy ở người đọc những tình cảm thẩm mĩ mà cịn đem lại
những nhân thức về cuộc sống và con người. Quan trọng hơn, văn chương cịn có
khả năng nhân đạo hóa con người, nghĩa là nó có chức năng giáo dục, bồi đắp
ni dưỡng tâm hồn con người, giúp con người hướng thiện. Nắm được đặc
điểm đó của văn học, là một giáo viên dạy bộ mơn Ngữ văn, tơi thấy mình phải có
trách nhiệm giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh thông qua những bài học
trên lớp. Người dạy văn không chỉ đơn thần truyện thụ kiến thức văn chương
mà còn là một nhà giáo dục. Những bài học tư tưởng, đạo đức được lồng ghép
hoặc rút ra từ những văn bản khơng phải là những giáo lí khơ khan, mà ngược
lại rất sinh động, giúp học sinh dễ khắc sâu hơn.
Trong chương trình ngữ văn THPT, tơi nhận thấy các tác phẩm Ngữ văn
lớp 10 có khả năng đặc biệt trong việc khơi gợi tình cảm, giáo dục tư tưởng đạo
lí cho học sinh, đặc biệt là phần văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam.
Từ nội dung bài học, giáo viên định hướng cho học sinh có những nhận thức, tư
tưởng đúng đắn, biết sống và hành động theo đạo lí, có những tình cảm nhân

văn cao đẹp, giúp hoàn thiện nhân cách.
2.2. Về thực trạng vấn đề:
Đạo đức là một hiện tượng xã hội, là sản phẩm quan hệ giữa con người với
con người, giữa cá nhân con người với tập thể, với cộng đồng xã hội. Đạo đức là
yêu tố cơ bản của nhân cách, là nền tảng của bản chất con người. Để vươn tới sự
hoàn thiện, trước hết con người phải vươn lên về đạo đức. Vậy mà trong xã hội
hiện nay lại cịn khơng ít những hiện tượng tiêu cực, những hành vi xấu thiếu
nhân cachs đã và đang từng bước làm tổn hại truyền thống của thế hệ trẻ chúng
ta. Vì vậy, việc giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua môn học trong nhà
trường là hết sức cần thiết và cấp bách.
Người giáo viên lên lớp ngoài nhiệm vụ hướng dẫn các em tiếp nhận kiến
thức văn hóa mà cịn phải hình thành cho các em những khác niệm về nhân cách,
đạo đức. Vì xưa nay trong việc đào tạo con người, văn chương vẫn được sử dụng
như một cơng cụ đắc hiệu. Khơng ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của văn
chương trong việc xây dựng và giữ gìn đạo đức xã hội, đúng như vai trị xã hội
nhân văn của nó. Nếu nói người giáo viên là kĩ sư tâm hồn thì điều đó đúng nhất
với các cơ giáo dạy văn. Vì văn học chính là bộ môn dễ gây xúc động vui buồn, tác
động nhiều nhất đến thế giới nội tâm của con người.

6

skkn


Tuy vậy, trong thực tế giảng dạy, nhiều người giáo viên coi nhẹ điều này mà
học cho rằng dạy đạo đức trong nhà trường là việc của giáo viên chủ nhiệm và
giáo viên giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân. Trong mục tiêu bài dạy có mục
đích tình cảm, thái độ cho học sinh, thê nhưng khi lên lớp, gióa viên lại chỉ lo làm
sao truyền thụ được hết, được đầy ddue kiến thức sách giáo khoa mà không chú
ý tới việc giáo dục tình cảm, thái độ cho học sinh. Có thể nói, ngun nhân dẫn

đến tình trạng xuống cấp đạo đức của học sinh có nhiều, trong đó khơng thể
khơng đề cập đến lí do này.
2.3. Nội dung và giải pháp thực hiện:
Chương trình Ngữ văn lớp 10 Cơ bản được phân phối học 03 tiết/tuần. Qua
kinh nghiệm giảng dạy, tôi nhận thấy, giáo viên dạy văn có thể kết hợp giáo dục
tư tưởng, đạo đức cho học sinh trong bộ mơn của mình qua hai hình thức: Qua
một số bài đọc hiểu văn bản trong sách giáo khoa và qua rèn luyện kĩ năng làm
bài nghị luận xã hội.
bản:

* Giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh qua các giờ đọc hiểu văn

Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của một giờ đọc văn là giáo viên
hướng dẫn học sinh khai thác, phân tích những giá trị nội dung và nghệ thuật
của tác phẩm văn học. Giờ học phải gây hứng thú cho học sinh, khơi gợi cho các
những rung động thẩm mĩ trước vẻ đẹp của văn chương nghệ thuật. Tuy nhiên,
văn học khơng chỉ có chức năng nhận thức và thẩm mĩ, nó cịn có chức năng giáo
dục. Nhiều tác phẩm Ngữ văn lớp 10 đã khơi dậy cho học sinh những tình cảm
nhân văn cao đẹp, lành mạnh, chứa đụng trong đó nhiều bài học tư tưởng đạo lí
sâu sắc.
Vì vậy, ngay từ khâu soạn giáo án, tôi không bao giờ bỏ qua một ý của phần
mục tiêu bài học, đó chính là định hướng tình cảm, thái độ của học sinh qua bài
học. Từ việc xác định đúng mục tiêu và trọng tâm bài học, tôi đã hướng dẫn học
sinh thực hiện phần đọc hiểu đạt hiệu quả. Học sinh không chỉ nắm được giá trị
nội dung và đặc sác nghệ thuật của tác phẩm mà còn nhận thức, rút ra được
nhiều bài học đạo lí sâu sắc. Để thực hiện được điều này, tôi thường sử dụng hai
phương pháp:
Thứ nhất: Đặt ra các câu hỏi khơi gợi để học sinh tự rút ra bài học tư
tưởng, đạo lí. Phần này thường được nêu ra ở cuối mỗi bài đọc hoặc phần ôn
tập, xem như một khái quát, nâng cao vấn đề và liên hệ bản thân.

Ví dụ:

7

skkn


- Sau khi học xong truyện cười “Tam đại con gà”, em rút ra được bài học gì
sâu sắc nhất cho bản thân?
- Qua “Truyên An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy”, em rút ra được
bài học gì về dụng và giữ nước?
- Bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngữ lão giáo dục chúng ta điều gì?
Những câu hỏi như thế vừa giúp kiểm tra được mức độ tiếp thu bài học của
học sinh, vừa kiểm tra được năng lực đánh giá khái quát và nâng cao vấn đề, đặc
biệt, góp phần đắc lực vào việc giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh, định
hướng cho các em những gì cần học hỏi, cần phát huy nhưng điều tốt đẹp và đấu
tranh loại bỏ những điều không nên. Những bài học đạo đức tư tưởng nhu thế
không phải là những giáo lí khơ khan mà nó được thể hiện sinh động qua hình
tượng và ngơn ngữ nghệ thuật, chắc chắn sẽ có khản năng lan thấm sâu hơn vào
tâm hồn và nhận thức của học sinh.
Thứ hai: Tổ chức cho các em thảo luận nhóm theo từng chủ đề.
Hình thức này phát huy tình tích cực, chủ động của học sinh. Mỗi thành viên
trong nhóm đều phải làm việc, sau đó tập trung ý kiến để tập trung xây dựn
phương án trả lời đầy đủ, chính xác nhất. Tơi thường sử dụng hình thức này đối
với bài mang tính chất khái qt, ơn tập.
Ví dụ 1: Sau khi đọc xong phần văn học dân gian, giáo viên có thể nêu câu
hỏi để học sinh thảo luận, câu hỏi có thể phân loại theo từng thể loại.
Nhóm 1: Qua sử thi anh hùng Tây Nguyên, em thấy những phẩm chất cao
đẹp nào của người anh hùng được ca ngợi?
Nhóm 2: Trong truyện cổ tích, tác giả dân gian đã gửi gắm những triết lí

nhân sinh sâu sắc gì?
Nhóm 3: Bên cạnh việc phản ánh những cái đáng cười, truyện cười cịn
khun ta điều gì?
Nhóm 4: Qua những chùm ca dao đã học, em hãy rút ra cho mình những bài
học nhân sinh sâu sắc?
Ví dụ 2: Sau khi học xong phần văn học trung đại lớp 10, ở bài ôn tập, giáo
viên có thể nêu ra một số câu hỏi tương tự như thế để cá nhóm thảo luận tìm ra
bài học tư tưởng đạo lí.
* Phần văn học dân gian:

8

skkn


Sau đây, tôi xin nêu ra một số bài học tiêu biểu của phần văn học dân gian
mà ở đó thông qua sự hướng dẫn của giáo viên, học snh đã rút ra những bài học
tư tưởng đạo lí rất ý nghĩa và thiết thực.
- Bài “Khái quát văn học dân gian Việt Nam”: Văn học dân gian là một bộ
phận quan trọng của văn học Việt Nam, đóng vai trị nền tảng cho sự hình thành
và phát triển của văn học viết. Ở phần này, ngoài kiến thức cơ bản trong sách
giáo khoa, tôi định hướng cho học sinh ý thức tôn trọng di sản văn học dân tộc,
nhấn mạnh vai trị ni dưỡng, bồi đắp tâm hồn con người của bộ phận văn học
này. Giáo viên có thể lấy dẫn chứng từ bào hát ru, những câu ca dao, dân ca,
những câu chuyện cổ tích từ thuở ấu thơ các em đã được nghe bà, nghe mẹ kể…
Ở đó, người lớn muốn nhắn gửi cho con trẻ bao điều ý nghĩa: Lịng kính u, biết
ơn đối với ơng bà, cha mẹ; tình u thương đồn kết anh em; dạy chúng ta biết
yêu quê hương đất nước, biết sống nhân ái, thủy chung nghĩa tình, ln có niềm
tin vào cuộc sống, vào điều thiện và chính nghĩa…
“Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật

Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời
Dẫu phải khi cay đắng dập vùi
Rằng cô Tấm vẫn về làm hồng hậu
Cây khế chua có đại bàng đến đậu
Chim ăn rồi trả ngon ngọt cho ta
Đất đai cỗi cằn thì người sẽ nở hoa
Gb, Hoa của đất, người trồng cây dựng của”
(Nguyễn Khoa Điềm)
- Bài “Truyên An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy” nội dung chủ yếu
giáo viên cần khai thác trong bài học này là phân tích q trình An Dương
Vương xân thành chế nỏ để giữ nước, bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu, đánh
giá thái độ của nhân dân đối với các nhân vật. Sau khi giải quyết xong những nội
dung trên, tôi đã cho học sinh thảo luận các vấn đền sau:
+ Bài học dựng nước và giữ nước mà ông cha ta muốn gửi gắm qua câu
chuyện này là gì?
+ Ta học được điều gì về thái độ, cách đánh giá của tác giả dân gian đối
với nhân vật Mị Châu?
Kết quả thảo luận cộng với sự định hướng của giáo viên, các em đã nhận
thức được nhiều vấn đề ý nghĩa: Bài học cảnh giác trong giữ nước, mối quan hệ
9

skkn


giữa cá nhân và tập thể. Đồng thời học tập ở tác giả dân gian cái nhìn vừa
nghiêm khắc cơng minh vừa bao dung nhân hậu, vị tha đối với một vị công chúa
đáng thương, vừa đáng trách như Mị Châu.
- Với truyện cổ tích “Tấm Cám”: Học sinh sẽ hiểu được cuôc đấu tranh giữa
cái thiện và cái ác luôn là cuộc đấu tranh gian nan, nhưng câu chuyện cũng gieo
vào lòng các em một niềm tin mạnh mẽ, niềm lạc quan tin tưởng rằng cái thiện,

người hiền sẽ ln chiến thắng cịn cái ác, kẻ xấu sẽ bị trùng trị thích đáng.
- Đằng sau câu chuyện cười: “Tam đại con gà”, các em có thể học được từ
cha ông bài học nhân sinh hết sức sâu sắc: Đó là tình yêu cuộc sống, là niềm lạc
quan tin tưởng vào cuộc sống. Dù trong bất kì hồn cảnh khó khăn nào, con
người ta phải biết vươn lên, chiến thắng hoàn cảnh để mà vui sống.
- Chùm “Ca dao than thân” và “Ca dao yêu thương tình nghĩa” đã giáo dục
cho các em những tình cảm nhân văn đáng quý: Biết đồng cảm, sẻ chia với
những bất hạnh của con người, biết sống thủy chung, đặc biệt đề cao cái nghĩa
cái tình trong quan hệ giữa người với người…
Như vậy, từ một số ví dụ trên có thể thấy một lần nữa khẳng định vai trị
ni dưỡng, bồi đắp tâm hồn, nhân cách cho học sinh của bộ phận văn học dân
gian. Từ đó, tiếp tục định hướng thái độ trân trọng, giữ gìn di sản văn học dân
gian của thế hệ trẻ.
* Phần văn học trung đại Việt Nam:
Trong chương trình Ngữ văn lớp 10 bắt đầu học các tác phẩm từ thế kỉ X thế kỉ XVIII. Hai nội dung cơ bản của văn học trung đại là yêu nước và nhân đạo.
Do đó, nhiều tác phẩm có khả năng giáo dục cho học sinh hai tư tưởng này. Tôi
đã sử dụng phương pháp thống kê, phân loại tác phẩm đã học theo hai nội dung,
yêu cầu học sinh xếp các tác phẩm (đoạn trích) vào hai nhóm:
Nhóm 1: Tác phẩm mang nội dung
Nhóm 2: Tác phẩm mang nội dung
yêu nước:
nhân đạo:
Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão)
Cáo bệnh, báo mọi người (Mãn Giác)
Hứng trở về (Nguyễn Trung Ngạn)
Chuyện chức phán sự đến Tản Viên
(Nguyễn Dữ)
Vận nước (Pháp Thuận)
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
(Đặng Trần Côn)

Phú sông Bạch Đằng (Trương Hán
Nỗi sầu oán của người cung nữ
Siêu)
(Nguyễn Gia Thiều)
Đại cáo bình Ngơ (Nguyễn Trãi)
Truyện Kiều (Nguyễn Du)
Hiền tài là nguyên khí quốc gia (Thân

Đọc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du)
10

skkn


Nhân Trung)
Thái sư Trần Thủ Độ (Ngô Sĩ Liên)
Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn
(Ngơ Sĩ Liên)
Tựa “Trích diễm thi tập” (Hoàng Đức
Lương)
Từ bảng thống kê trên, giáo viên hướng dẫn mỗi nhóm thảo luận để rút ra
tư tưởng đạo lí mà các em đã nhận thức được:
- Nhóm 1: Tác phẩm mang nội dung yêu nước đã phần nào giúp các em
nhận thức được quá khứ lịch sử đầy vẻ vang, anh dũng của dân tộc, giáo dục cho
các em tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào tự tơn dân tộc, lịng căm thù
giặc, lịng quyết chiến quyết thắng kẻ thù, tính yêu thiên nhiên; học được từ
những nhân vật lịch sử, từ các tác giả những bào học nhân cách cao đẹp, để từ
đó nhận thức được bổn phận, trách nhiệm của thế hệ mình với việc giữ gìn và
phát huy những giá trị tinh thần cao q của cha ơng.
- Nhóm 2: Những tác phẩm mang nội dung nhân đạo đã khơi dậy ở các em

những tình cảm nhân văn: Biết yêu thương, đồng cảm với con người; biết dũng
cảm lên án, đấu tranh với những thế lực bất công, tàn bạo chà đạp con người;
biết bảo vệ, tôn vinh những vẻ đẹp của con người… Nhiều tác phẩm cịn dạy các
em cần có niềm tin lạc quan tin tưởng vào cuộc sống, có thái độ sống không
màng danh lợi, coi thường công danh phú quý…
Cũng cần nhấn mạnh một điều rằng văn học trung đại Việt Nam tồn tại và
phát triển trong hình thái xa hội phong kiến, chịu sự chi phối chủ yếu của hệ tư
tưởng Nho giáo và tác giả của văn học trung đại đều là tầng lớp tri thức phong
kiến. Vì vậy những mẫu hình nhân cách và những bài học đạo lí rút ra từ những
tác phẩm trên ít nhiều mang lại sắc thái riêng của của tư tưởng phong kiến Nho
giáo. Tuy nhiên, những gì thuộc về đạo lí truyền thống dân tộc, những gì gọi là
chất nhân văn của con người thì vẫn cịn ngun giá trị ở mọi thời ðại. Thế hệ
trẻ ngày nay vẫn biết cách vận dụng, tiếp thu tinh hoa tư tưởng của cha ơng cho
phù hợp với hồn cảnh.
Sau đây là một số tác phẩm tiêu biểu giáo viên cần hướng dẫn học sinh rút
ra bài học giáo dục tư tưởng, đạo lí:
- Bài thơ “Tỏ lịng” của Phạm Ngũ Lão: Giáo dục lí tưởng sống cho thê hệ
trẻ: Phải có ước mơ, hồi bão xây dựng cơng danh sự nghiệp, cống hiến cho đất
nước; có tinh thần xả thân chiến đấu, quyết chiến quyết thắng kẻ thù.

11

skkn


- Các tác phẩm của Nguyễn Trãi: Cuộc đời, nhân cách và sự nghiệp thơ văn
của Nguyễn Trãi là bài học lớn về lí tưởng nhân nghĩa cao đẹp, về tấm lòng ưu ái
với nước, sự tận trung với đất nước…
- Bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm: Bài học về lối sống thanh cao,
không mang danh lợi, coi thường công danh phú quý.

- “Chuyện chức phán sự đến Tản Viên” của Nguyễn Du: Qua hình tượng
nhân vật Ngơ Tử văn và lời bình cuối truyện, học sinh được giáo dục tinh thần
sũng cảm nghĩa khí, dám đấu tranh chống lại cái xấu cái ác, cái bất công để bảo
vệ cơng lí.
- “Hiền tài là ngun khí quốc gia”: Bài văn bia được khắc để ở Văn Miếu Hà
Nội và nội dung của nó đã có tác dụng khơng nhỏ trong việc động viên khích lệ
kẻ sĩ và thế hệ người Việt không ngừng phấn đấu học tập để đỗ đạt thành danh
góp phần cống hiến xây dựng đất nước.
- Nguyên Du và “Truyện Kiều”, “Đọc Tiểu Thanh kí”: Cuộc đời và sự nghiệp
thơ văn của ông là bài học lớn về tấm lòng nhân đạo cao cả, con mắt ơng nhìn
thấu 6 cõi, tấm lịng ơng nhìn suốt nghìn đời. Học tác phẩm của Nguyễn Du, các
em biết yêu thương trân trọng con người, biết lên án cái xấu cái ác, biết đấu
tranh vì tự do và cơng lí.
- Học hai đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người trinh phụ” giúp các em hiểu
những bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải gánh chịu, hiểu
cả những khát vọng nhân văn chính đáng mà họ ao ước: Đó là có được tình u,
hạnh phúc trọn vẹn.
Như vậy, bài học tư tưởng đạo lí được rút ra có thể là từ nội dung tác
phẩm, cũng có khi là từ chính cuộc đời, nhân cách của tác giả. Bởi suy cho cùng,
văn chương là con đẻ tinh thần của người nghệ sĩ, qua văn chương, nhà văn
muốn gửi gắm những quan niệm, tư tưởng, tình cảm, ước mơ khát vọng, đến với
người đọc và mong chờ được độc giả đồng cảm, sẻ chia. Vì vậy, những điều xuất
phát từ trái tim sẽ dễ dàng đến được với trái tim. Trong quá trình hướng dẫn
đọc hiểu văn bản văn học, giáo viên cần chú ý tới điều này để định hướng tình
cảm, thái độ của học sinh.
* Giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh qua giờ Tập làm văn:
Đối với bộ môn ngữ văn, giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh được thực
hiện cụ thể, trực tiếp ở dạng văn nghị luận xã hội. Nghị luận xã hội là bàn bạc,
đánh giá các vấn đề chính trị, xã hội, tư tưởng, đạo đức, định hướng cho học sinh
một quan điểm, thái độ sống đúng đắn. Nó rất quan trọng đối với việc hình thành

và phát triển nhân cách cho người đọc. Trong cấu trúc đề thi THPT quốc gia,
12

skkn


phần làm văn nghị luận xã hội chiếm 2/10 điểm của tồn bài. Vì vậy, đây là phần
tương đối quan trọng. Giáo viên cần dành một lượng thời gian cần thiết để luyện
kĩ năng viết nghị luận xã hội cho học sinh, thơng qua đó mà giáo dục tư tưởng
đạo đức cho các em. Hoạt động này được thực hiện trong các buổi học thêm do
nhà trương tổ chức. Giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh có thể thực hiện
thông qua tiết tập làm văn, rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận xã hội. Tại đây
tôi tiếp tục khai thác những vấn đề tư tưởng đạo đức được thể hiện qua các van
bản van học đã học trong chương trình đẻ hướng dẫn cho học sinh luyện tập
dưới dạng những đè văn cụ thể. Bằng cách này, các em một lần nữa ôn lại, củng
cố kiến thức dã học trong tác phẩm và một lần nữa nâng cao vấn đề tư tưởng
đạo lí đã được rút ra để mở rộng, bàn bạc, đánh giá, vận dụng vào thực tiễn đời
sống. Đồng thời, tiếp tục rèn luyện cho các em những kĩ năng cần thiết của thể
loại nghị luận xã hơi như: Kĩ năng tìm hiểu đề, kĩ năng tìm ý, lập dàn ý, kĩ năng
lập dàn ý, viết phần mở bài, kết bài…
Sau đây là một số đề văn tôi đã hướng dẫn cho học sinh làm mà ở đó những
bài học tư tưởng, đạo đức đã được các em nhận thưc và khắc sâu thêm.
Đề 1: Bằng những hiểu biết cảu em về ca dao, hãy chứng minh: Người
bình dân rất giàu tình nhưng họ cũng là người rất nặng nghĩa. Em hiểu
nghĩa và tình ở đây là như thế nào?
Mục đích, yêu cầu:
- Qua đề văn này, giáo viên muốn học sinh nhận thức được một đặc điểm
quan trọng của ca dao: Ca dao thể hiện tình cảm, quan niệm của người bình dân;
và trong ca dao, người bình dân rất giàu tình nhưng cái nghĩa của họ được xem
trọng hơn cả. Qua đó tự rút ra cho mình bài học tư tưởng đạo lí: Con người sống

với nhau, đến với nhau vì tình cảm nhưng sợi dây giằng buộc va làm đẹp hơn
tình cảm đó lại là cái nghĩa, nên cần coi trọng cả nghĩa, cả tình.
Dàn ý:
Đặt vấn đề: Ca dao là thể thơ trữ tình dân gian, vì vậy nó được xxem là tấm
gương phản chiều tâm hồn dân tộc. Người bình dân đã mượn thể loại trữ tình
này để gửi gắm nỗi niềm tâm sự. Qua những bài ca dao, ta nhận thấy người bình
dân rất giàu tình nặng nghĩa.
Giải quyết vấn đề:
- Giải thích khái niệm:
+ Người bình dân rất giàu tình. Thế giới tình cảm của họ được thể hiện
trong ca dao vô cùng phong phú với nhiều cung bậc, sác thái: Có tình u q
hương đất nước, có tình u cộng đồng. có mối đồng cảm sâu sắc cho những
13

skkn


người nghèo khổ, bất hạnh, đáng thương; có tình cảm gia đình thủy chung gắn
bó, có tình u nam nữ với muôn vàn cung bậc phức tạp… Biết bao nhiêu nỗi
niềm cảm xúc đó, người bình dân đã mượn ca dao để giải bày.
+ Song người bình dân cịn là những người rất nặng nghĩa: nghĩa ở đây
được hiểu là quan hệ đạo đức, là tình cảm thủy chung trước sau phù hợp với
những quan niệm đạo đức nhât định.
+ Theo họ, tình và nghĩ thường đi liền với nhau và đơi khi có thể thay thế
được cho nhau: u nhau gọi là kết nghĩa (Em với anh cũng muốn kết nghĩa giao
hịa), bội tình gọi là bội nghĩa.
+ Tuy nhiên, nghĩa được đề cao hơn, nặng hơn, được xem là nền tảng của
tình người. Do đó, quan hệ tình cảm phải đi đơi với quan hệ đạo lí: Đạo vợ chồng
ngồi tình u cịn phải chung thủy; đạo thầy trị phải biết ơn kính trọng; đạo
con cái đối vơi cha mẹ phải kính u, biết ơn, làm trịn chữ hiếu… Những điều đó

được coi là ngun tắc, đạo lí.
- Chứng minh qua một số bài ca dao.
+ Người bình dân giàu tình:
+ Người bình dân coi trọng chữ nghĩa (nặng nghĩa):
+ Tình nghĩa thủy chung trong tình yêu, trong gia đình:
Ví dụ:
Bài 1:
“Rủ nhau xuống bể mị cua,
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng.
Em ơi chua ngọt đã từng,
Non xanh nước bạc xin đừng quên nhau.”
Bài 2:
Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Bài 3:
“Muối ba năm muối cịn mặn,
Gừng chín tháng gừng hãy cịn cay.
Đơi ta nghĩa nặng tình dày,

14

skkn


Có xa nhau đi chăng nữa cũng ba vạn sáu nghìn ngày mới xa.”
Trong quan hệ tình u hơn nhân, nghĩ tình thủy chung son sắt trước sau,
cung nhau vượt qua khó khăn trong cuộc sống, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, đắng
cay vất cả. Tất cả làm cho tình cảm thêm gắn bó, bền chặt.
+ Tình nghĩa thủy chung trong quan hệ giữa người đi và người ở lại:
Bài 1:

“Đường dài ngựa chạy biệt tăm
Người thương có nghĩa trăm năm cũng về”
Bài 2:
“Cây đa cũ, bến đò xưa
Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ.”
Tình nghĩa của kẻ ở, người đi được thể hiện trong những lời khẳng định,
hứa hẹn đinh ninh: nếu có nghĩa, nếu thủy chung trước sau thì cũng dù nắng
mưa, dù thời gian khắc nhiệt, dù xa xôi cách trở cũng sẽ trở về bên nhau.
Kết thúc vấn đề:
- Tình nghĩa trong ca dao được thể hiện tinh tế, sau sắc và phong phú, trở
thành nền tảng đạo lí và vẻ đẹp tâm hồn dân tộc. Mỗi bài ca dao mang theo bao
tâm tư, khát vọng giúp con người vượt qua bao khó khăn, nhọc nhằn để sống với
nhau trọn vẹn nghĩa tình.
- Cái nghĩ, cái tình theo quan niệm của người bình dân xưa trong ca dao
giúp cho thế hệ trẻ ngày nay nhận thức sâu sắc được vẻ đẹp tâm hồn, đạo lí
truyền thống của dân tộc, rút ra nhiều bài học nhân sinh sâu sắc trong quan hệ
tình yêu, tình cảm gia đình và rộng hơn là trong quan hệ giữa người với người.
Đề 2: Từ truyện cổ tích “Tấm Cám”, bàn về cuộc đấu tranh giữa cái
thiện và cái ác trong cuộc sống hơm nay.
Mục đích, u cầu:
- Đề bài mang tích chất tổng hợp, bao gồm nghị luận tư tưởng, đạo lí, nghị
luận về hiện tượng đời sống, kết hợp với hiểu biết về truyện cổ tích “ Tấm Cám”.
Nói cách khác, xuất phát từ một vấn đề trong một tác phẩm mở rộng bàn bạc về
tư tưởng và hiện tượng đời sống.
- Học sinh cần xác định trọng tâm vấn đề cho chính xác để tránh sa vào nghị
luận văn học: Phân tích truyện “Tấm Cám”.
Dàn ý:
15

skkn



Đặt vấn đề: Cuộc sống phức tạp muôn màu, luôn tồn tại người xấu - kẻ tốt,
cái thiện - cái ác, cái giả - cái thật… Những sự thật và cặp phạm trù đối lập luôn
đấu tranh với nhau hoặc có khi cùng tồn tại… Vì vậy, để cuộc sống tốt đẹp, con
người phải không ngừng đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác để bảo vệ cái tốt, cái
thiện. Chủ đề đó khơng chỉ được đặt ra trong truyện cổ tích Tấm Cám mà trong
cả cuộc sống hơm nay.
Giải quyết vấn đề:
- Cuộc đấu tranh thiện và ác trong truyện cổ tích “Tấm Cám”:
+ Đó là cuộc đấu tranh giữa tấm và mẹ con Cám: Tấm đại diện cho cái
thiện, mẹ con Cám là cái ác.
+ Đó là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt, phát triển từ thấp đến cao: mẹ
con Cám ngày càng hành động độc ác, tìm mọi cách truy đuổi, giết hại tấm nhiều
lần. Cịn Tấm, từ yếu đuối thụ động trở nên mạnh mẽ, quyết liệt dành lại sự sống
và hạnh phúc.
+ Cuối cùng, Tấm đã chiến thắng, cũng là sự chiến thắng của cái thiện,
còn mẹ con Cám bị trừng phạt. Kết thúc có hậu cũng phù hợp với khát vọng và
quan niệm của nhân dân.
- Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong cuộc sống hôn nay:
+ Trong thế giới tự nhiên, bên cạnh những con vật hiền lành, có ích là
những con vật hung dữ; giữa khu vườn đầy hoa thơm trái ngọt ln tồn tại
khơng ít sâu bọ, rắn rết… Điều đó làm nên thế giới tự nhiên phong phú, sinh
động.
+ Trong cuộc sống cũng vậy, bên cạnh phần tốt đẹp cũng có khơng ít
phần xấu xa, hèn kém, rồng phượng và rắn rết, thiên thần và ác quỷ, phần người
và phần con luôn tồn tại và đấu tranh trong mỗi chúng ta.
+ Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, kẻ tốt và kẻ xấu là cuộc đấu
tranh gian khổ trong mọi thời đại. Ngày nay, khi xã hội càng phát triển, cái xấu
cái ác vẫn cịn tồn tại; thậm chí nó cịn tồn tại, phát triển tinh vi, khơn ngoan

hơn, có khi nó cịn ẩn mình trú ngụ cả bên trong những cái voe ngồi lương
thiện, tốt đẹp.
+ Nhiều khi khó có thể phân biệt rạch ròi trắng đen, tốt xấu, thiện ác. Mỗi
người phải ln biết đấu tranh cho lẽ phải, cho đạo lí để cuộc sống trở nên tốt
đẹp hơn và phải không ngừng tự đấu tranh với chính mình để hồn thiện nhân
cách. Muốn vậy, địi hỏi phải có tinh thần dũng cảm, lịng kiên trì cùng niềm tin
vào sự chiến thắng của cái tốt, cái thiện.

16

skkn


Liên hệ bản thân:
- Phải khơng ngừng tự hồn thiện bản thân, đề phịng cảnh giác với nguy cơ
tha hóa trong chính bản thân, ln biết đấu tranh để phần tốt đẹp chiến thắng
phần xấu xa, dung tục.
- Cần có cái nhìn tồn diện, phân biệt đúng tốt xấu, thiện ác, không bi quan
nhưng cũng không ảo tưởng rằng cuộc sống chỉ toàn màu hồng.
- Biết dũng cảm đấu tranh loại trừ cái ác, biết đồn kêt, u thương, khơng
vơ cảm, bàng quan với cuộc sống con người.
Kết luận:
“Trong trường kì lịch sử đấu tranh của nhân loại, cái thiện chỏ chiến thắng
cái ác nửa vòng bánh xe” (Các-Mác)
Đừng quên
Cái ác vỗ vai cái thiện
Cả hai cùng cười đi về tương lai
(Trần Nhuận Minh)
Ý kiến trên hoàn toàn đúng bởi ranh giới thiện ác vô cùng mong manh, chỉ
như một sợi tóc. Ở bất kì đâu và lúc nào, thiện và ác vẫn luôn song song tồn tại.

Và cuộc đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu vẫn luôn luôn là cuộc chiến quyết
liệt, lâu dài. Nó địi hỏi mỗi cá nhân và cộng đồng phải có trách nhiệm tích cực
tham gia vì sự tiến bộ của xã hội.
Đề 3: Trong bài thơ “Tỏ lịng” của Phạm Ngũ Lão có hai câu thơ:
“Cơng danh nam tử cịn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.”
Từ cái “thẹn” của người xưa, em có suy nghĩ gì về thái độ, lí
tưởngsống của tuổi trẻ ngày nay?
Mục đích yêu cầu:
- Cần xác định được vấn đề tư tưởng đạo lí đặt ra trong hai câu thơ. Từ đó
mở rộng bàn bạc đến thái độ, lí tưởng sống của tuoir trẻ ngày nay.
- Tránh sa đà phân tích vào bài thở “Tỏ lịng”.
Dàn ý:
- Bàn về cái “thẹn” của người xưa trong hai câu thơ:

17

skkn


+ Thẹn ở đây là sự xấu hổ khi thấy mình chưa làm trịn trách nhiệm của
kẻ làm trai. Đó là cái thẹn của một nhân cách lớn, có lí tưởng, hoài bão phi
thường.
+ Phạm Ngũ Lão thẹn vơi Vũ Hầu- nhân vật điển hình cho hình mẫu lí
tưởng theo quan niệm của nhà nho xưa. Ở ơng có đầy đủ phẩm chất trí tuệ, tài
thao lược trị quốc, là một quân sư đắc lực cho Lưu Bị.
+ Thẹn với một người nhu thế chứng tỏ Phạm Ngũ Lão co một thái độ
sống đầy trách nhiệm. Cái thẹn không làm hạ thấp nhân cách của con người mà
ngược lại đó là nỗi thẹn cao cả của một nhân cách lớn. Cái thẹn cho thấy đức
khiêm nhường cùng khát vọng cống hiến hơn nữa cho đất nước.

- Từ cái thẹn của người xưa, nghĩ tới thái độ, lí tưởng sống của giới trẻ
ngày nay.
- Trước hết, càn thấy cái thời đại của Phạm Ngũ Lão với thời đại ngày nay
hoàn toàn khác nhau.
+ Phạm Ngũ Lão sống ở thời phong kiến, lí tưởng của kẻ sĩ chịu sự chi
phối sâu sắc bởi tư tưởng Nho giáo. Nếu ở thời bình thì công danh sự nghiệp của
kẻ làm trai là một con đường định sẵn: Học-thi-đỗ-làm quan để làm rạng danh
cho dòng họ “thê phong ấm tử”. Cịn ở thời loạn thì công danh sự nghiệp được
ghi nhận ở sự nghiệp đánh giặc cứu nước, lập nhiều chiến công. Phạm Ngũ Lão
sống ở thời loạn cho nên lí tưởng của ơng cũng tập trung vào sự nghiệp đánh
giặc cứu nước.
+ Còn bây giờ là thời hiện đại, đất nước hịa bình, phát triển, từng ngày
đổi mới trên con đường hội nhập, có nhiều cơ hội nhưng cũng khơng ít thách
thức. Vì vậy, tuổi trẻ ngày nay nhiều hoài bão, lắm ước mơ lí tưởng cao cả. Lí
tưởng sống của họ phong phú, đa dạng hơn thời cha ông.
- Tuy hai thời đại khác nhau, lí tưởng sống cũng khác nhau nhưng vẫn gặp
nhau ở nhiều điểm chung: ở thái độ sống hết mình, tinh thần học tập, rèn luyện
tu dưỡng và ở khát vọng cống hiến, xây dựng đất nước.
- Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận thanh niên ngày nay chưa xác định cho
mình một thái độ sống đúng đắn, sống chưa có ước mơ, sống ỷ lại, lười nhác,
ngại khó ngại khổ, thieeys ý chí nghị lực; hoặc có lối sống buông thả, sa ngã,
thiếu lành mạnh, dể bị cám dỗ… Những thanh niên như thế trở thành gánh
nawgj cho gia đình và xã hội.
Liên hệ:

18

skkn



Tuổi trẻ ngày nay cần pahir trang bị cho mình kiến thức và bản lĩnh sống
vững vàng, dám nghĩ dám làm, không ngừng phấn đấu để theo đuổi ước mơ, lí
tưởng. Đồng thời phải biết đấu tranh với tư tưởng cơ hội, ích kỉ cá nhân, cầu an
hưởng lạc… tất cả nhằm mục đích rèn luyện, tu dưỡng bản thân, xây dựng sự
nghiệp cho riêng mình và cống hiến, bảo vệ đất nước.
* Một số đề tham khảo:
Đề 1: Từ truyện cười “Tam đại con gà”, bàn về thói sĩ diện hão trong cuộc
sống hơm nay.
Đề 2: Từ hình ảnh đồng tiền trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, bàn về
đồng tiền trong cuộc sống hôm nay.
Đề 3: Bài học nhân sinh rút ra sau khi học xong bài thơ “Nhàn” của Nguyển
Bỉnh Khiêm.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, với đồng nghiệp và nhà trường:
Qua thực tiễn áp dụng phương pháp trên vào giảng dạy, tôi nhận thấy học
sinh đã biết cách rút ra vấn đề tư tưởng, đạo lí trong nhiều bài học của giờ đọc
hiểu văn bản. Từ một số đề minh họa trên, sau khi áp dụng hướng dẫn cho học
sinh, tơi nhận thấy có nhiều hiệu quả: Học sinh được khắc sâu thêm khiến thức
cảu bài đọc văn đã học, học sinh rút ra được bào học tư tưởng đạo lí cho bản
thân, đồng thời rèn luyện được kĩ năng tìm hiểu vấn đề, lập dàn ý cho bài văn
nghị luận xã hội. Học sinh có tiến bộ rõ rệt trong nhận thức bài học đạo đức, lối
sống qua giờ học và nhiều em đã biết áp dụng vào thực tiễn đời sống.
Như vậy, việc dùng hình thức giảng dạy phù hợp sẽ đạt hiệu quả rất lớn
trong việc giáo dục đạo đức thông qua giờ dạy văn.
Kết quả cụ thể như sau:
Lớp

Trước khi áp dụng phương
pháp


Sau khi áp dụng phương pháp

10 20/40 HS có sự thay đổi trong tư
B3
tưởng, nhận thức.

35/40 có sự chuyển biến trong tư
tưởng, nhận thức.

1 22/40 HS có sự thay đổi trong tư
0B10 tưởng, nhận thức.

38/40 có sự chuyển biến trong
tư tưởng, nhận thức.

19

skkn


3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Để thực hiện mục tiêu của luật giáo dục phổ thông “ Giúp học sinh phát
triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm
hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân, chuẩn bị cho cho học sinh tiếp tục học lên và đi vào cuộc sống
lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc” địi hỏi người giáo viên phải nỗ
lực khơng ngừng trong việc nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học, đáp ứng
được yêu cầu của thời đại.
Đáp ứng nhu cầu đổi mới ấy, việc lồng ghép giáo dục tư tưởng, đạo đức cho

học sinh trong giờ học môn Ngữ văn là một trong những phương pháp tích cực,
góp phần giáo dục tồn diện học sinh, học đi đơi với hành. Một giờ học văn thành
công là không chỉ truyền thụ kiến thức, cái hay cái đẹp của văn chương mà còn
phải giúp học sinh biết liên hệ, vận dụng và tự đánh giá bản thân khi soi chiếu
vào các tác phẩm.
Với tinh thần ấy, tơi đã vận dụng hình thức kết hợp giáo dục tư tưởng đạo
đức cho học sinh thông qua giờ đọc hiểu văn bản và qua những tiết tập làm văn.
Tôi mong bài viết này sẽ giúp ích tốt hơn cho giáo viên trong q trình truyền
đạt kiến thức cho học sinh và góp phần để học sinh hồn thiện nhân cách.
3.2. Kiến nghị:
Có nhiều hình thức giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh trong nhà
trường, nhưng vấn đề là làm thế nào để các hình thức ấy được diễn ra đáp ứng
được nhu cầu của học sinh và mong muốn của giáo viên. Từ những kinh nghiệm
cá nhân, tôi xin mạnh dạn đưa ra một vài ý kiến đề xuất để việc giáo dục đạo đức
trong nhà trường đạt hiệu quả và nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình cảu cả
học sinh và giáo viên.
3.2.1. Đối với nhà trường:
Cần quan tâm hơn nữa đến việc lồng ghép giáo dục tư tưởng, đạo đức vào
các môn học trong nhà trường ( đặc biệt là mơn Văn) đẻ có thể đạt được hiệu
quả mục tiêu giáo dục toàn diện.
3.2.2. Đối với ngành giáo dục:
- Cần quan tâm hỗ trợ nhiều hơn nữa về cơ sở vật chất và thiết bị dạy học.
- Có những giải pháp tích cực cho bộ mơn ngữ văn ở các trường phổ thơng.
Ví dụ như giảm tải các tiết học thiếu thiết thực và dành thời gian nhiều hơn cho
các bài học ý nghĩa và tác dụng đạo đức thực sự thiết thực đối với các học sinh;
20

skkn



chọn đưa vào chương trình những tác phẩm hay để thu hút sự chú ý, say mê của
học sinh.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
Thanh Hóa, ngày 15 tháng 4 năm 2022
CAM KẾT KHÔNG COPY

Người viết

Nguyễn Lan Phương

21

skkn


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chương trình THPT mơn Ngữ văn, NXB Giáo dục, Hà Nội, năm 2002.
2. Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, NXB Giáo dục, Hà Nội,
năm 2006.
3. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 1-2, NXB giáo dục, 2008.
4. Sách giáo viên Ngữ văn 10, tập 1-2, NXB giáo dục, 2008.
5. Hướng dẫn thực hiện chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10, NXB
Giáo dục 2007.
6. Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương , NXB ĐHQG Hà Nội 2001.

22

skkn



DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Nguyễn Lan Phương
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – trường THPT Hàm Rồng – Tp Thanh Hóa

TT

Tên đề tài SKKN

1

Phương pháp nêu câu hỏi phần đọc hiểu
một văn bản văn học trong chương trình
ngữ văn THPT .

Cấp
đánh giá
xếp loại
Ngành

Kết quả Năm học
đánh giá đánh giá
xếp loại
xếp loại
B
2017-2018

* Liệt kê tên đề tài theo thứ tự năm học, kể từ khi tác giả được tuyển dụng vào

Ngành cho đến thời điểm hiện tại.

23

skkn



×