Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Kĩ năng làm việc với các hình vẽ, tranh ảnh địa lí pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.48 KB, 3 trang )

Kĩ năng làm việc với các hình vẽ, tranh
ảnh địa lí

Kĩ năng quan sát tranh ảnh, hình vẽ địa lí để rút ra các nhận
xét cũng không kém phần quan trọng trong học tập địa lí.
Bản thân các hình vẽ, tranh ảnh địa lí là một nguồn tri thức
địa lí quan trọng. Khám phá từ đó các tri thức địa lí là việc
làm không đơn giản, đặc biệt đối với các yêu cầu nhận xét
các sự vật, hiện tượng địa lí từ tranh ảnh (hay hình vẽ).
Chính vì vậy, trong các đề thi HS giỏi quốc gia, một số năm
có câu hỏi yêu cầu làm việc với tranh ảnh theo kiểu ngược
(từ hình nêu hiện tượng địa lí và giải thích). Ví dụ, đề thi
năm 1999, bảng A, cho các biểu đồ khí hậu, yêu cầu HS dựa
vào các biểu đồ, cho biết tên và đặc điểm của những kiểu
khí hậu được thể hiện ở các biểu đồ ; hay, đề thi HS giỏi
quốc gia năm 2000, bảng B, yêu cầu HS quan sát lược đồ,
nêu tên của lược đồ, nói rõ lược đồ biểu hiện những nội
dung gì, giải thích sự hình thành và hoạt động của các nội
dung đó. Những dạng yêu cầu này, nhìn chung khá khó đối
với HS giỏi, đòi hỏi phải nắm rất vững kiến thức địa lí được
thể hiện trên hình, đồng thời phải có kĩ năng quan sát, phân
tích để rút ra các nhận xét theo yêu cầu của câu hỏi.
Để trả lời được những câu hỏi này, trong quá trình học tập,
HS giỏi nên thường xuyên kết hợp học kiến thức với phân
tích chúng trên hình (lược đồ, bản đồ, biểu đồ, sơ đồ, tranh
ảnh ) ; đồng thời đối với nhiều kiến thức nên tìm cách thể
hiện chúng bằng kênh hình một cách trực quan (ví dụ : khi
học về sự khác nhau giữa frông nóng và frông lạnh, nên
dùng hình vẽ thể hiện hình dạng, cấu trúc, hướng di chuyển
của các loại frông này, cũng như thời tiết của khu vực có
frông ; hay khi học về sự phân bố lượng mưa tại một địa


điểm nào đó, nên sử dụng bản đồ câm, dùng nét kẻ vạch thể
hiện các địa điểm mưa nhiều, mưa ít, các dòng biển, frông,
hướng gió theo mùa kết hợp với giải thích các nguyên
nhân dẫn tới lượng mưa khác nhau giữa các địa điểm trên
Học bài địa lí gắn với kênh hình sẽ làm cho các kiến thức
địa lí được vững chắc hơn, sâu hơn, hiểu được một cách
trực quan các mối liên hệ địa lí, đặc biệt là các mối liên hệ
nhân quả ; đồng thời, góp phần phát triển tư duy hình tượng,
loại tư duy cần rèn luyện trong học tập môn địa lí.
h) Kĩ năng vận dụng các kiến thức của môn học khác vào giải
thích các hiện tượng địa lí và kĩ năng liên hệ thực tế
- Do bản chất tổng hợp của khoa học địa lí, nên kiến thức địa
lí trong nhà trường có mối quan hệ mật thiết với kiến thức
của nhiều môn học (hay khoa học) khác. Sử dụng hợp lí một
số kiến thức liên quan ở các bộ môn khác vào giải thích các
sự vật, hiện tượng địa lí được xem là một kĩ năng cần thiết
và không thể thiếu đối với HS giỏi quốc gia môn Địa lí.
Nhiều kiến thức địa lí sẽ trở nên rất dễ hiểu nhờ vào việc
giải thích dựa trên cơ sở tri thức của các bộ môn Sinh học,
Hoá học, Vật lí,
Ví dụ :
+ Dùng kiến thức hóa học để giải thích sự tạo thành ôdôn
(trong lớp ôdôn ở đỉnh tầng đối lưu) : Các tia tử ngoại và
các điện tích tách phân tử ôxi thành các nguyên tử ôxi, các
nguyên tử này lại kết hợp với các phân tử ôxi khác, tạo
thành ôdôn (O
2
= O + O ; O
2
+ O = O

3
).
+ Dùng kiến thức hoá học để giải thích sự phong hoá đá vôi
tạo thành địa hình cacxtơ : Nước mưa khí quyển có chứa
CO
2
sẽ hoà tan rất mạnh các khoáng vật thuộc nhóm
cacbonat, sunphat, chuyển thành canxi cacbonat Ca(HCO
3
)
2

CO
2
+ H
2
O  H
2
CO
3
; CaCO
3
+ H
2
CO
3
 Ca(HCO
3
)
2

. Do
không ổn định về mặt hoá học, nên canxi cacbonat dễ bị
phân tích thành axit cacbonic và canxi cacbonat thừa này
tách ra khỏi dung dịch tạo thành túp vôi và các dạng kết tủa
trong hang động.
+ Để giải thích sự giảm nhiệt độ của không khí khi lên cao,
dùng kiến thức vật lí : khi khối khí bốc lên mạnh, nội năng của
khối khí chuyển thành công năng, công năng chuyển thành động
năng. Do nội năng tỉ lệ với nhiệt độ tuyệt đối của khối khí, nên
nhiệt độ biến đổi. Khi khối khí bốc lên, giãn nở, vì phải sản sinh
công, nên tiêu hao nhiệt năng, do đó nhiệt độ giảm. Không khí
giáng xuống, ngược lại, bị nén, năng lượng được giải phóng, nên
nhiệt độ tăng lên. Không khí bão hoà hơi nước, khi lên cao 100
m, lạnh đi 0,6
o
C, vì ngưng kết làm tỏa nhiệt, nên đã được bù một
phần nhiệt đáng lẽ phải dùng để chi cho giãn nở không khí.
Không khí bão hoà, khi hạ xuống, nóng lên chưa đến 1
o
C, vì
nhiệt phải chi cho bốc hơi. Không khí chưa bão hoà, khi hạ
xuống, cứ 100 m tăng lên 1
o
C.

×