Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Một số nhóm đất trồng chính và những mặt hạn chế của đất ảnh hưởng đến sức sản xuất của những cây trồng cạn chính của những hộ nông dân sản xuất nhỏ " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.01 KB, 19 trang )


1
Phụ Lục 1

009/06 VIE: Nâng cao năng lực khuyến nông viên các tỉnh trong việc đánh giá những
mặt hạn chế của đất đến sức sản xuất thông qua việc sử dụng hệ thống hổ trợ SCAMP







Một số nhóm đất trồng chính và những mặt hạn chế của
đất ảnh hưởng đến sức sản xuất của những cây trồng cạn
chính của những hộ nông dân sản xuất nhỏ

I. Tỉnh Gia Lai



PW Moody
A
và Phan Thị Công
B


A
Bộ Tài Nguyên Thiên Nhiên và Nước Queensland, Indooroopilly,
Qld 4068, Úc
B


Viện Khoa Học Kỹ Thuật Nông Nghiệp Miền Nam,
Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

2

1. Giới thiệu

‘Bộ trọn gói về việc quản lý các mặt hạn chế đất’ (‘SCAMP’) được phát triển nhằm đánh giá
những mặt hạn chế của đất đến sức sản xuất thông qua một số đặc tính cơ bản của đất (Moody
và Phan Thi Công 2008; Moody và cộng tác viên 2008). Một khi xác định được những hạn
chế của đất, các biện pháp kỹ thuật giúp cải tạo và giảm thiểu những mặt hạn chế này sẽ được
xây dụng. Sức chống chịu của cây trồng thay đổi theo giống cây và một đặc tính đất nào đó
hạn chế sinh trưởng của một cây trồng nào đó nhưng có thể không ảnh hưởng đến một số cây
trồng khác. Do đó, một khi xác định được những hạn chế của một nhóm đất đặc trưng nào đó,
người ta có thể đánh giá được khả năng hổ trợ của đất đó đến sản lượng của các cây trồng đặc
thù.

Mục tiêu của một loạt các báo cáo này là:

- Nhìn lại những thông tin hiện hữu trên việc đánh giá và mở rộng các loại đất trồng trọt
vùng cao ở những tỉnh quan tâm của Việt Nam.
- Xác định các nhóm đất chính được sử dụng cho hộ nông dân sản xuất nhỏ ở các tỉnh trọng
điểm và xác định những mặt hạn chế của nó thông qua việc sử dụng SCAMP.
- Xác định những hệ thống cây trồng chính đã sử dụng ở hộ nông dân sản xuất nhỏ tại một
số tỉnh trọng điểm và soạn thảo những yêu cầu về đất đặc trưng của các hệ thống trồng
trọt này.
- Kết nối một số những hạn chế với những yêu cầu về đất của những cây trồng cạn và xây
dựng cẩm nang hướng dẫn cho việc quản lý một số dạng đất đặc trưng cho một số loại cây
riêng biệt.
Báo cáo I tập trung trên các hệ thống đất và cây trồng của tỉnh Gia Lai.


2. Những loại đất chính sử dụng cho h
ộ nông dân sản xuất nhỏ
Những qui mô của các nhóm đất khác nhau (phân loại FAO-UNESCO) ở tỉnh Gia Lai
được trình bày tại (Bảng 1).

3
Bảng 1. Qui mô của các nhóm đất tại tỉnh Gia Lai
(Nguồn: Lê Trung Lập, 2000)
Nhóm đất Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Chromic và Haplic Acrisols Acric, Humic và Vetic
Ferralsols
756.433 49
Dystric và Gleyic Arenosols
Luvisols
364.638 23
Leptosols 164.752 11
Alumic, Hyperdystric và Chromic Acrisols
Acric, humic và Vetic Ferralsols
90.481 6
Mollic Fluvisols
Luvic và Fluvic Phaeozems
Cambisols
64.218 4
Dystric Gleysols 16.774 1
Các loại đất khác 92.275 6
Tổng số 1.549.571



Địa hình của đất Gia Lai được phân loại (Berding và cộng tác viên, 1999) như:
- Đồi và núi thấp
- Cao nguyên bazan
- Đồi dốc thoai thoải trên đá granit và đá biến chất hoặc trên đất phù sa mới được bồi
- Khu vực trầm tích
Địa hình (độ dốc) hạn chế sự phát triển nông nghiệp tại một số vùng ở Gia Lai, và một số
nhóm đất chính rất quan trọng cho nông nghiệp là nhóm đất đỏ và nhóm đất xám tập trung ở
những vùng cao nguyên bazan và đồi dốc thoai thoải. Những nhóm đất này chiếm khoảng
49% diện tích đất bề mặt của Tỉnh (Bảng 1, dòng 1).

3. Một số hạn chế đất và công tác quản lý cho sản xuất nông nghiệp bền vững
Trong một nghiên cứu gần đây (Moody và cộng tác viên, 2008), các vị trí xác định trên bảng
đồ đất 1: 100.000 tỉnh Gia Lai ‘Đất nâu đỏ trên bazan’ (Ferralsols) và ‘Đất xám trên đá phún
xuất’ (Acrisols) (Lê Trung Lập, 2000) được chọn t
ừ cao nguyên bazan và đồi dốc thoai thoải.
Có 14 mẫu đất đỏ được thu thập dưới một loạt hệ cây trồng khác nhau (bắp-lúa rẩy, bắp-khoai
mì, cao su, cà phê, cây bạch đàn, cây ăn trái, điều) tại các huyện Dak Doa, Mang Yang, Chu
Pah, Ia Grai, Duc Co, Chu Prong và Chu Sê ở phía tây-bắc tỉnh Gia Lai. Có 16 mẫu đất Xám
được lấy từ những vị trí khác nhau (trên đỉnh đồi, giữa đồi và dưới chân đồi) ở một số cây
trồng như (bắp, khoai mì, mía, rau) tại vùng phụ cận xã Dak Pơ, huyện Dak Pơ nằm ở phía
đông tỉnh Gia Lai.


4
Các Mini-pit được đào tại mỗi vị trí cũng như những đánh giá của SCAMP cấp 1 và cấp 2 tại
(Bảng 2). Một tổ hợp mẫu đất đại diện tầng 0-15 cm ở tầng đế cày được thu thập và phân tích
cho thuộc tính cấp độ 3 (Bảng 2).
Bảng 2. Một số thuộc tính đã xác định cho việc áp dụng mức độ SCAMP


Cấp SCAMP Thuộc tính

Cấp 1

Sa cấu, màu của đất khi ẩm và đốm rỉ, cấu trúc và độ chặt (lúc ẩm),
cấp thoát nước, cấp thấm nước, độ dốc, nguy cơ xói mòn, hàm lượng
sỏi, độ nén chặt.

Cấp 2

pH đồng ruộng (pH nước và 1M KCl), EC đồng ruộng, cấp phân tán
sét, tốc độ thấm

Cấp 3

Carbon hữu cơ, % sét, khả năng cố định lân, Ca, Mg, Na và K trao
đổi, độ chua trích ly (H +Al), ECEC, độ đệm pH

Từ dữ liệu này, SCAMP (Moody và Phan Thị Công, 2008) được sử dụng để xác định những
mặt hạn chế của hai nhóm đất chính này đến sản xuất bền vững (Bảng 3).

Bảng 3. Các ký hiệu SCAMP cho 14 mẫu đất đỏ và 16 mẫu đất xám tỉnh Gia Lai, Việt Nam.
Số lượng mẫu của từng thuộc tính được đặt trong ngoặc đơn.


Thuộc tính

Đất đỏ


Đất xám
Sa cấu L (9); LC (5) L (10); C (2); LS (4)
Nguy cơ xói mòn Er(nhẹ) (9), er(trung bình) (2),
er(cao) (2), er(rất cao) (1)
Er(nhẹ) (3); er(trung bình) (2);
er(cao) (6); er(rất cao) (3);
er(rất rất cao) (2)
Chiều hướng di chuyển của
nước
Thoát nước (7);
Thoát nước + chảy tràn (7)
Thoát nước (8)
Thoát nước + chảy tràn (5);
chảy tràn (3)
Độ chua Tầng mặt a (14); tầng bên
dưới a (12)
Tầng mặt a (2); tầng dưới a(1)
Nguy cơ axit hóa ar(thấp) (14) ar(thấp) (2); ar(trung bình)
(12); ar(cao) (2)
Khả năng giữ dinh dưỡng
kém
e (12) e (3)
Khả năng cố định lân cao i (14)
Carbon hữu cơ thấp

om (2)
Dự trữ kali thấp Bề mặt k (1); tầng dưới k (1) Bề mặt k (1); tầng dưới k (7)
Đặc tính điện tích biến đổi geric (4)
Chặt chẻ


hs (2)
Nén chặt
comp (4)


5
Những đánh giá này cho thấy rằng sa cấu thịt chiếm ưu thế trong nhóm đất đỏ, với nhiều nguy
cơ xói mòn tùy thuộc vào độ dốc. Những đường di chuyển của nước là do quá trình tiêu thoát
nước hoặc chảy tràn cùng với tiêu thoát nước. Nhóm đất này có pH nước đặc trưng thấp dưới
5,2 nhưng nguy cơ axit hóa thấp là do hàm lượng carbon hữu cơ và sét trong đất cao. ECEC
đặc trưng rất thấp (<4 cmol
c
/kg) và chúng có khả năng cố định lân cao. Thành phần điện tích
trao đổi của vài nhóm đất tiến đến gần hoặc đạt ở mức bằng không (pH
KCl
– pH
H2O
từ -0,10
đến + 0,10).
Đất xám có thành phần cơ giới trung bình chiếm ưu thế, mặt dù thỉnh thoảng cũng xảy ra hiện
tượng sa cấu thịt của tầng mặt nằm trên tầng cát bên dưới. Nguy cơ xói mòn biến thiên từ thấp
đến rất cao tùy thuộc vào độ dốc. Một nữa số điểm nghiên cứu có chiều di chuyển của nước là
thấm sâu thoát nước, nửa số mẫu còn lại nước chảy tràn trên mặt hoặc vừa chảy tràn vừa thấm
sâu. Những hạn chế về độ chua đất không phải hiện tượng phổ biến nhưng hầu hết các đất có
nguy cơ chua hóa ở mức trung bình bởi vì hàm lượng sét và chất hữu cơ trong đất thấp. Hiện
tượng khá phổ biến là kali trong đất thấp. Nhiều nơi bề mặt đất có hiện tượng đóng váng hoặc
nén chặt.
Những hạn chế chính trên đất đỏ (Ferralsols) là độ chua (a), hàm lượng dinh dưỡng thấp (e),
cố định lân cao (i) và giới hạn về điện tích trao đổi trên bề mặt keo sét (geric), thoát nước theo
chiều sâu là khá phổ biến (Bảng 2). Từ những mặt hạn chế này, SCAMP cho ra những chiến

lược quản lý thích hợp cho sản xuất nông nghiệp bền vững như sau:
a: Trồng những cây có khả năng chịu được chua cho mục đích ngắn hạn. Để phát triển bền
vững lâu dài phải thực hiện một chương trình bón vôi đi kèm với việc thường xuyên
theo dõi pH.
e: Làm tăng CEC trong đất bằng cách gia tăng hàm lượng chất hữu cơ trong đất (duy trì các
tàn dư thực vật, bổ sung tàn dư hữu cơ, trồng cây che phủ hoặc trồng cây phân xanh)
kết hợp với chương trình bón vôi để gia tăng pH đất và điện tích biến đổi của CEC
(Aitken và ctv., 1998; Phan & Merckx, 2005). Vấn đề thực tiễn của việc bón bổ sung
sét chất lượng cao nhằm gia tăng điện tích vĩnh cửu có thể được áp dụng (Noble và
ctv., 2004).
i: Đối với đất có khả năng cố định lân cao đòi hỏi cần được bón một lượng lân khá lớn hoặc
phải có những biện pháp quản lý lân thích hợp (như dạng loại và phương pháp bón
phân lân) cần được thực hiệ
n. Việc bón phân lân trong các hệ thống cây trồng đầu tư
tối thiểu nên được hướng đến việc sử dụng liều lượng lân tối thiểu bón theo băng hay
theo hốc gần với hạt và trồng giống có nhu cầu lân thấp. Việc bón phân lân dễ tan theo
hố hay băng sẽ làm giảm việc thất thoát lượng lân dễ tiêu do hiện tượng cố định lân
trong đất. Tuy nhiên, việc bón phân như vậy sẽ làm cho rễ tập trung xung quanh thân
và điều này làm giảm khả năng phát triển phân tán bộ rễ trong phẩu diện đất. Ở những
vùng thường bị những đợt hạn ngắn, điều này có thể làm giảm năng suất cây trồng vì
bộ rễ không thể vươn xa để lấy nước. Ngay từ lúc ban đầu, việc giảm liều lượng phân
bón, bón vải cùng với bón theo băng sẽ giúp phân bố bộ rễ đồng đều hơn. Phân tích
xác định hàm lượng lân trong đất cần phải thực hiện ở nhiều giai đoạn nhằm theo dõi
tình trạng dinh dưỡng lân trong đất.

6
geric: Những nhóm đất này có rất ít điện tích biến đổi trên bề mặt và do đó chúng bị giới hạn
khả năng giữ các cation dinh dưỡng (canxi và kali) hoặc các anion (nitrat). Phân bón
cần được chia thành nhiều đợt bón với một lượng nhỏ phù hợp với những nhu cầu đòi
hỏi của cây trồng. Bón vôi cho tầng đất mặt để nâng pH nước lên trên 5.5 sẽ làm tăng

khả năng giữ cation của đất bằ
ng cách gia tăng các điện tích âm trao đổi, và là sự chọn
lựa quan trọng cho việc quản lý đất. Bổ sung chất hữu cơ như cây phân xanh cần được
quan tâm vì điều này có thể làm gia tăng điện tích âm trao đổi.
Đối với nhóm đất xám, hạn chế phổ biến nhất là tỷ lệ chất hữu cơ từ thấp đến trung bình, hàm
lượng kali thấp đặc biệt ở những tầng dướ
i lớp đất mặt và các vấn đề lý tính đất liên quan đến
sự dí dẻ và đóng váng bề mặt. Vài nơi cục bộ chịu ảnh hưởng từ quá trình tiêu thoát nước dẫn
đến sự úng nước và đọng vũng. Để giải quyết những hạn chế này, cơ sở dữ liệu SCAMP sẽ
đưa ra những chiến lược quản lý như sau:
om (thấp đến trung bình): Gia tăng chất hữu cơ trong đất sẽ giúp cải thiện lượng dinh dưỡng,
tăng CEC, tăng khả năng giữ nước và khả năng đệm pH. Quản lý chất hữu cơ ở những
đất nhiệt đới bao gồm việc che phủ bề mặt và sự cày vùi các loại cây phân xanh như
cây họ đậu hoặc đồng cỏ, duy trì các tàn dư thực vật nơi hoa màu được trồng, không
đốt cháy tàn dư thực vật, hạn chế hoặc không sử dụng các hệ thống cày bừa, trồng
theo băng và bón chất hữu cơ (như phân chuồng, rác thải thành phố đã ủ, bùn từ cống
rãnh và chất thải hữu cơ công nghiệp địa phương) thu được từ bên ngoài nông trại.
k: Phân kali hoặc và chất bổ sung dạng hữu cơ chứa đựng lượng kali đáng kể cần được bón
cho đất. Đất với khả năng dự trữ kali thấp ở tầng dưới lớp đất mặt, cây trồng có thể có
những biểu hiện thiếu kali trong suốt giai đoạn mùa khô. Trong trường hợp này, việc
bón phân kali bên dưới hạt lúc gieo hoặc trộn phân kali qua đất tại hố gieo là chiến
lược quản lý hiệu quả hơn bón phân kali theo hàng dọc rễ cây trên mặt đất. Cây trồng
nên được giám sát chặt chẻ đối với các triệu chứng thiếu kali.
hs, comp: Đóng váng bề mặt làm giảm tốc độ thấm và dẫn đến cây trồng kém phát triển,
trong khi đó các lớp dí dẻ chặt làm hạn chế sự phát triển bộ rễ và giới hạn chiều sâu
phát triển của bộ rễ dẫn đến cây trồng chiu sức ép rất lớn khi gặp hạn. Việc duy trì tàn
dư thực vật và che phủ bề mặt phải được sử dụng để duy trì ẩm độ
lớp đất mặt do đó
giảm thiểu hiện tượng đóng váng đất. Để hạn chế tối đa nguy cơ dí dẻ đất, chỉ nên làm
đất khi ẩm độ đất thấp hơn giới hạn dẻo của chúng và cày bừa cũng như di chuyển

máy móc nên hạn chế khi đất ẩm hơn giới hạn dẻo của nó.


4. Các mùa vụ trồng chính trên đất vùng cao ở những h
ộ nông dân sản xuất nhỏ
Dữ liệu thống kê nông nghiệp được sử dụng nhằm xác định những loại cây trồng chính trên
đất vùng cao của những hộ nông dân sản xuất nhỏ ở Gia Lai. Diện tích cây trồng được trình
bày ở Bảng 4. Cây trồng chiếm hơn 5% đất canh tác được là: lúa, bắp, khoai mì, mía, cao su
và cà phê.

7

Bảng 4: Diện tích cây trồng của tỉnh Gia Lai

Cây trồng Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
Lúa 63883 20.4
Bắp 40486 12.9
Khoai mì 24297 7.8
Rau 7618 2.4
Lạc 3787 1.2
Đậu nành 35 0.0
Thuốc lá 2350 0.8
Mía 15543 5.0
Bông vải 5184 1.7
Cao su 57307 18.3
Cà phê 77530 24.8
Điều 12354 3.9
Tiêu 2609 0.8
Tổng cộng 312983






5. Sự thích hợp của đất cho những cây trồng chính ở những hộ nông dân sản xuất nhỏ

Những đánh giá SCAMP của nhóm đất đỏ và đất xám (Phần 3 bên trên) đã xác định nhiều
mặt hạn chế về đất đến khả năng sản xuất của đất. Một số mặt hạn chế ảnh hưởng đến sức sản
xuất cây trồng, bất chấp loại cây trồng: xói mòn (er), CEC thấp (e), khả năng cố định lân cao
(i), carbon hữu cơ thấp (om), thiếu kali (k), đặc tính điện tích biến đổi (geric), đặc tính đóng
váng bề mặt (hs) và các tầng dí dẻ chặt (comp). Tuy nhiên, Các loại cây trồng khác nhau về
khả năng chịu đựng được những hạn chế khác như sự thoát nước và tính chua; trong khi đó
một thu
ộc tính đất đặc trưng hoặc một hạn chế có thể là một giới hạn chính đến sức sản xuất
của một cây trồng nhưng nó có thể chỉ là một giới hạn không đáng kể tới một cây trồng khác.
Khung của FAO (1976) cho việc đánh giá đất sử dụng 5 cấp để phân loại tính thích hợp của
một nhóm đất đặc trưng cho phát triển một cây trồng riêng biệt (Bảng 5). Để thuận tiện cho
việc áp dụng SCAMP, những thuộc tính/hạn chế của đất riêng lẻ xác định cho nhóm đất đỏ và
đất xám được đánh giá theo ảnh hưởng của chúng lên sản xuất bền vững của mùa vụ chính
trên đất cao đối với nông dân sản xuất nhỏ Gia Lai (Bảng 6). Việc đánh giá được dựa trên sự
phối hợp thông tin của Williams (1975), Landon (1984), Page (1984), Schaffer và Andersen
(1994), Robinson (1996) và Dierolf và ctv (2001).





8
Bảng 5. Phân lớp khả năng thích nghi của đất [nguồn: FAO 1976]


Lớp thích nghi Tiêu chuẩn Mô tả
1 Thích nghi cao Đất thích nghi cho sản xuất bền vững mà không
cần cải tạo.
2 Thích nghi trung bình Đất thích nghi cho sản xuất bền vững nếu các biện
pháp cải tạo tối thiểu được áp dụng (Vi du: bón
vôi, lên liếp để cải thiện tính thoát nước cục bộ)
3 Khó thích nghi cho
trồng trọt
Đất chỉ thích nghi cho sản xuất nông nghiệp bền
vững nếu được cải tạo qui mô (ví dụ: xây dựng hệ
thống thoát nước trên qui mô lớn)
4 Không thích nghi Đất không thích nghi cho sản xuất nông nghiệp bền
vững.

Bảng 6. Phân lớp thích nghi của thuộc tính và hạn chế đất đối với sức sản xuất của những cây
trồng đặc trưng.

Thành phần cơ
giới đất
Miêu tả
SCAMP
Lúa nước Bắp Khoai mì Mía Cà phê
S
L
C
O
4
1
1
4

2
1
1
3
2
1
2
2
2
1
1
3
2
1
1
3
Phân loại tính
thoát nước
1 (g)
2 (g
-
)
3
4
5
6
2
1
3
4

4
4
4
4
3
1
1
1
4
3
3
2
1
1
4
3
2
1
1
1
4
4
3
2
1
1
Độ dốc (%) 0-2
2-5
5-10
>10

1
2
3
4
1
1
2
3
1
1
2
3
1
1
2
2
1
1
2
3
pH đất a
-
1
2
2
3
1
2
1
2

2
3
Độ mặn s
-

s
2
3
3
4
3
4
2
4
3
4
Khả năng chịu
hạn
L L H L L
Đinh dưỡng
chính/ vùng lấy
nước (cm)
<50 80-100 >100 >100 >100
Đòi hỏi dinh
dưỡng
N cao N, K
cao
Chịu
được độ
phì thấp

N, K cao N, K
cao


9
Những đề nghị dưới đây áp dụng cho các biện pháp kỹ thuật cần được thực hiện để thỏa mãn
những nhu cầu của từng loại cây trồng ngoài những biện pháp đã trình bày ở Phần 3.

Thành phần cơ giới đất
S: Do đặc tính cố hữu của đất cát là lượng nước hữu dụng thấp, do đó tưới nước rất cần thiết
cho những cây trồng có khả năng chịu hạn thấp như bắp, mía và cà phê. Sử dụng lớp
phủ bề mặt từ tàn dư thực vật sẽ làm giảm sự bốc thoát hơi nước và tăng khả năng giữ
ẩm của đất.
Đối với những cây trồng đòi hỏi nhu cầu dinh dưỡng cao như bắp, mía và cà phê, đất
cát có ECEC thấp đòi hỏi những ion dinh dưỡng như kali cần được bón làm nhiều đợt
theo nhu cầu của cây trồng. Việc trồng cây phân xanh hoặc bón thân lá những cây
trồng này (như quỳ dại) sẽ làm gia tăng khả năng giữ dinh dưỡng (CEC) của đất.
C: Đối với những cây lấy củ như khoai mì không thích hợp trên đất có nhiều sét bởi vì khó
thu hoạch. Đất nhiều sét không thích hợp với những cây trồng không có khả năng chịu
đựng đất có ẩm độ cao trong thời gian dài như cây cà phê; tính thấm nước thấp ở
những đất có nhiều sét làm cho khả năng giữ ẩm kéo dài hơn so với những đất có
thành phần cơ giới nhẹ hơn.
Tiêu thoát nước
Đất thoát nước kém không thích hợp cho những cây trồng không có khả năng chống chịu
trong điều kiện ngập úng như cà phê và bắp, và việc lên luống cũng như tăng cường hệ thống
tiêu thoát nước trên diện rộng cần được thực hiện khi trồng những cây này.

Độ chua
a: Những đất có mặt hạn chế này không thích hợp cho những cây trồng có sức chịu đựng đối
với độc tố nhôm hoặc mangan từ thấp đến trung bình như bắp và cà phê trừ khi một kế

hoạch bón vôi triệt để được thực hiện.
a
-
: Những đất này đòi hỏi một kế hoạch bón vôi nếu chúng được sử dụng để trồng những cây
có sức chịu đựng kém đối với độc tố nhôm như bắp và cà phê. Việc bón tàn dư
Tithonia trên các nhóm đất chua cho thấy có sự cải thiện độ chua đất từ việc tăng pH
đất. Một lợi ích từ việc sử dụng phân lân nung chảy (FMP) như một nguồn phân lân
cho thấy nó cũng có hiệu quả như bón vôi.

Dinh dưỡng chính/vùng hấp thu nước
Các cây trồng có bộ rễ hoạt động nông sẽ không nhạy cảm như những cây trồng có bộ rễ sâu
hơn như cà phê và mía đối với những hạn chế của đất như sự nén chặt bề mặt (comp).


10
Kết luận
Đất đỏ (Ferralsols) và đất xám (Acrisols) là những nhóm đất chính ở Gia Lai. Những hạn chế
khá phổ biến trên nhóm đất đỏ là độ chua đất, hàm lượng dinh dưỡng thấp, khả năng cố định
lân cao và đặc tính điện tích biến đổi, sự thoát nước theo chiều sâu là chiều dòng chảy chính.
Đối với đất xám (Acrisols) các mặt hạn chế phổ biến là tỷ lệ chất hữu cơ thấp đến trung bình,
hàm lượng kali dự trữ thấp đặc biệt là ở tầng dưới, và các vấn đề về lý tính đất như đóng váng
bề mặt và dí dẻ. Vài nhóm đất xám bị hạn chế trong vấn đề thoát nước dẫn đến hiện tượng
ngập úng và đọng vũng.
Những cây được trồng phổ biến nhất ở những hộ nông dân sản xuất nhỏ của Tỉnh là lúa nước,
bắp, khoai mì, mía và cà phê. Mỗi cây trồng chịu đựng được vài hạn chế nhất định, và do đó
quản lý đất nhằm cải thiện hoặc giảm thiểu những tác động từ những mặt hạn chế này đến sức
sản xuất cây trồng cũng thay đổi theo. Tuy nhiên việc áp dụng một chương trình bón vôi và
bón cây phân xanh cho đất đỏ Ferralsols cần thiết cho tất cả các cây trồng, trong khi đó cải
thiện quá trình tiêu thoát nước, duy trì lớp phủ bề mặt, và bón cây phân xanh là vấn đề thiết
yếu cho đất xám Acrisols.


Tài liệu tham khảo

Aitken, R.L., Moody, P.W. & Dickson, T. 1998. Field amelioration of acidic soils in south-
east Queensland. I. Effect of amendments on soil properties. Australian Journal of
Agricultural Research, 49, 627-637.

Berding, F.R., Tran Mau Tan, Truong Dinh Tuyen, Tran Van Hue, Deckers, J. & Langhor, R.
1999. Soil Resources of Gia Lai Province. National Institute of Agricultural Planning
and Projection (Vietnam) and Katholieke Universiteit Leuven (Belgium).

Dierolf, T., Fairhurst, T. and Mutert, E. 2001. Soil Fertility Kit. Potash and Phosphate
Institute: Singapore.

FAO. 1976. Framework for land evaluation. Soils Bulletin No. 32. FAO:Rome.

Landon, J.R. (ed.) 1984. Booker Tropical Soil Manual. Longman Inc.: New York
.
Le Trung Lap 2000. Land use and sustainable development for soil resources of Gia Lai
Province. Proceedings of Workshop on Environment and Sustainable Development of
the Central Highland. Pleiku, Sept 2000. Department of Science, Technology and
Environment, Pleiku.

Moody, P.W. and Cong, P.T. 2008. Soil Constraints and Management Package SCAMP):
guidelines for sustainable management of tropical upland soils. ACIAR Monograph
No. 130, 86pp. Australian Centre for International Agricultural Research, Canberra.

Moody, P.W., Phan Thi Cong, Legrand, J.

& Nguyen Quang Chon 2008.



11
A framework for identifying soil constraints to the agricultural productivity of tropical
upland soils. Soil Use and Management, 24, 148-155.

Noble, A.D., Ruaysoongnern, S., Penning de Vries, F.W.T., Hartmann, C. & Webb, M.J.
2004. Enhancing the agronomic productivity of degraded soils in northeast Thailand
through clay-based Interventions. In: Water and Agriculture (eds. Seng, V., Craswell,
E., Fukai, S. & Fischer, K.), ACIAR Proceedings No. 116, ACIAR, Canberra, pp.
147-160.

Page, P.E. 1984. Tropical Tree Fruits for Australia. QDPI Information Series QI 83018.
Queensland Department of Primary Industries: Brisbane.

Phan & Merckx Phan, T.C. & Merckx, R. 2005. Improving phosphorus availability in two
upland soils of Vietnam using Tithonia diversifolia H. Plant and Soil, 269, 11-23.

Robinson, J.C. 1996. Bananas and Plantains. CAB International: Oxon.

Schaffer, B. & Andersen, P.C. 1994. Handbook of Environmental Physiology of Fruit Crops.
CRC Press: Florida.

Williams, C.N. 1975. The Agronomy of the Major Tropical Crops. Oxford University Press:
London.







009/06 VIE Báo cáo định kỳ 6 tháng_04/2008

1
Phụ lục 2

Khóa tập huấn SCAMP ở Gia Lai vào tháng 3 năm 2008

Khảo sát trước và sau khóa học

Các câu hỏi trước và sau khóa học được khảo sát trên 85 học viên tham dự tại Khóa tập huấn
SCAMP ở GiaLai vào tháng 3 năm 2008. Những câu hỏi trước khóa học được thiết kế nhằm
xác định những gì mà các học viên xem là các mặt hạn chế chính của đất đối với năng suất
cây trồng trong khu vực họ phụ trách. Các câu hỏi sau khóa học được xây dựng nhằm đánh
giá bất kỳ thay đổi nào trong nhận thức về các m
ặt hạn chế chính của đất và xác định những
hoạt động tiếp theo mà các học viên dự định thực hiện khi họ trở về từ khóa học.

Khảo sát trước khóa học

Hai nhóm đất chính ở Tây Nguyên là Ferralsols và Acrisols. Loại đất này có những đặc tính
trái ngược nhau về mặt vị trí xuất hiện trong địa hình, khả năng thoát nước, sa cấu và khoáng
sét và hy vọng rằng những mặt hạn chế của đất sẽ được các học viên đề xuất, phụ thuộc vào
loại đất ở từng địa phương của họ. Bảng 1 cho thấy đặc tính độ chua của đất, hàm lượng chất
hữu cơ, độ dốc, độ xói mòn và sự thiếu hụt dinh dưỡng được cho là những hạn chế chính yếu.
Các mặt hạn chế quan trọng khác như độ dí dẻ của đất, sự phân tán khoáng sét và tầng đất mặt
nông không được cho là những hạn chế quan trọng.

Bảng 1. Tính chất/mặt hạn chế của đất được cho là có liên quan đến việc suy giảm sức sản xuất
của đất tại Gia Lai


Tính chất đất Trước khóa học Sau khóa học
(%) (%)
1 pH 35.7 33.3
2 Sa cấu 16.7 31.0
3 Hàm lượng chất hữu cơ, mùn 21.4 31.0
4 Khả năng thoát nước 19.0 9.5
5 Cấu trúc, kết cấu đoàn lạp 14.3 16.7
6 Xói mòn, độ dốc 21.4 42.9
7 Độ sâu lớp đất mặt 11.9 4.8
8 Độ dí chặt 4.8 9.5
9 Độ xốp, độ thoáng khí 9.5 11.9
10 Màu 7.1 4.8
11 Độ phân tán khoáng sét 0.0 4.8
12 Sự thiếu hụt dinh dưỡng 23.8 14.3
13 Tạo sỏi sạn 2.4 0.0
14 EC 2.4 0.0
15 Khả năng cố định P, P dễ tiêu 2.4 31.0
009/06 VIE Báo cáo định kỳ 6 tháng_04/2008

2


Khảo sát sau khóa học
Điều nhận thấy rõ ràng nhất sau khóa tập huấn là nhận thức của các học viên tham dự về
một số mặt hạn chế của đất đã được nâng lên một cách đáng kể. Đặc biệt là, tầm quan trọng
của thành phần cơ giới và chất hữu cơ của đất trong việc xác định những tính chất đất cơ
bản được ghi nhận (Bảng 1). Nhận thức xói mòn là một mặt hạn chế cũng được nâng lên
cùng với khóa học. Tuy nhiên, vấn đề nổi bật ở đây là việc nâng đáng kể nhận thức của họ
về sự hữu dụng của P. Rất có khả năng là sự am hiểu tổng quát ban đầu về “sự thiếu hụt

dinh dưỡng” như là yếu tố giới hạn chính đối với sản lượng, bao gồm cả thiếu hụt lân,
nhưng kiến thức của họ không đủ để tách riêng lân ra khỏi các chất dinh dưỡng khác. Khóa
học này đặc biệt đề cập đến lân như là yếu tố bị thiếu hụt thường xuyên ở một số loại đất
vùng cao, và điều này cho phép các học viên nâng cao kiến thức của mình đối với các hạn
chế về mặt dinh dưỡng.
Khiếm khuyết trong kiến thức
Các học viên tham dự nhận ra những chỗ thiếu sót trong kiến thức của họ là làm thế nào để
xây dựng được công thức phân bón và duy trì sự cân bằng dinh dưỡng trong đất (Bảng 2).
Khóa tập huấn SCAMP cấp 3 (bao gồm các chỉ tiêu đo carbon hữu cơ, lân và kali khả trích
trong đất) có thể giúp giải quyết sự thiếu sót này, kết hợp với phân tích đất tại chỗ tại địa
phương bằng cách sử dụng phòng phân tích di động.

Bảng 2. Những đề mục mà các học viên cho là cần thiết sau khóa tập huấn

Đề mục

(%)
Cân bằng dinh dưỡng/kỹ thuật bón phân 47.6
Làm thế nào để đưa ra công thức phân bón cho những cây trồng
chính
90.5
Tăng cường thực hành ngoài đồng trên nhiều loại đất 66.7
Tổ chức thêm nhiều khóa tập huấn cho các nông dân khác 19.0
Sản xuất hạt giống cây phân xanh 35.7
Tập huấn SCAMP cấp 3 81.0
Bổ sung phòng phân tích lưu động 69.0

Những kế hoạch dự kiến thực hiện trong tương lai
Kế hoạch của các học viên sắp tới bao gồm việc phổ biến SCAMP cho các cán bộ khuyến
nông khác, hội nông dân và nông dân ở mức độ xã (Bảng 3), nhấn mạnh chính vào việc quản

lý đất đặc thù và chống xói mòn. Ngoài ra, việc sử dụng cây phân xanh họ đậu để quản lý xói
mòn và cung cấp đạm để thay thế phân bón hóa học (nhằm giảm lượng tiền đầu tư vào phân
bón) là một chiến lược quản lý mà nhiều học viên có ý định thực hiện. Ngoài ra cũng có kế
hoạch dự định lập bản đồ các mặt hạn chế của đất ở cấp độ địa phương.
009/06 VIE Báo cáo định kỳ 6 tháng_04/2008

3

Bảng 3. Những hoạt động mà các học viên dự định đảm nhận trong mạng lưới khuyến nông
địa phương sau khi tham dự khóa học

Nội dung

(%)
Tổ chức khóa tập huấn SCAMP cho những người phụ trách nông
nghiệp xã (tận những thôn xóm)
28.6
Chống xói mòn bằng trồng cây họ đậu/cỏ vetiver theo
đường đồng mức.
45.2
Lập bản đồ các mặt hạn chế đất cho các
làng, xã của họ
14.3
Đề nghị những cách quản lý thích lợp cho từng loại đất trong vùng
dựa vào SCAMP
61.9
Tiết kiệm tiền để mua máy đo pH và EC 7.1
Yêu cầu người nông dân đo pH, EC và phân tích đất trước khi bón
phân
7.1

Sử dụng các nguồn chất bổ sung khác nhau, ví dụ cây phân xanh, tàn
dư sau mùa vụ, chất thải động vật
11.9
Cải thiện hoạt động của vi sinh vật 19.0


Kết luận
Các câu hỏi trước và sau khóa học đã cho thấy những chuyển biến trong cách nhận thức
của các cán bộ khuyến nông sau khi tham gia khóa học. Đặc biệt là, việc quản lý đất đặc
thù và sự hiểu biết tốt hơn về thiếu hụt dinh dưỡng phải đi đến việc quản lý đất tốt hơn ở
mức độ nông trại. Rõ ràng là các khuyến nông viên muốn truyền đạt kiến thức của họ
đến các nông dân khác.
Về phía dự án, rõ ràng rằng việc bao gồm một phòng phân tích lưu động để phân tích
các mẫu đất tại địa phương và lý giải các kết quả phân tích (trong bối cảnh địa phương)
sẽ làm tăng đáng kể tác động của khóa huấn luyện. Khía cạnh này sẽ được đề cập trong
2 khóa huấn luyện sắp tới của dự án. Thêm vào đó, một bộ phận của khóa học sẽ
được
dành cho việc mô tả làm thế nào đánh giá SCAMP trên loại đất mà nó có thể được sử
dụng để thiết kế một thí nghiệm đơn giản nhằm chứng minh các biện pháp kỹ thuật
được cải tiến.



1
Phụ Lục 3

Tóm tắt Nghiên cứu thí nghiệm đồng ruộng
tại vùng Tây Nguyên

Vần đề của nghiên cứu

Các hệ thống nông nghiệp bền vững được xây dựng dựa trên việc quản lý đất theo khả
năng và những hạn chế về môi trường. Sức sản xuất của đất được xác định bởi những đặc
tính đất chính: một số thuộc về bản chất (như kết cấu và cấu trúc) trong khi đó những đặt
tính khác (như pH và hàm lượng chất hữu cơ) có thể đ
iều chỉnh thông qua việc quản lý.
Hiểu biết những tính chất thuộc về bản chất của đất cho phép đưa ra những kết luận về
những đặc tính phát sinh như CEC và tính đệm pH. Từ những kết quả này, các chiến lược
quản lý đất có thể được phát triển để tối ưu hóa sức sản xuất của đất.
Để thuận tiện cho việc diễn giải nhữ
ng đặc tính của đất vùng cao cho việc đánh giá, xác
định những mặt hạn chế đất, và đưa ra những chiến lược quản lý đất thích hợp, một khung
các quyết định hổ trợ được phát triển trong Dự án ACIAR SMCN 2002/085.
‘Bộ trọn gói về việc quản lý các mặt hạn chế đất’ (‘SCAMP’). Trong dự án này, SCAMP
được sử dụng để xác định những mặt hạn chế phổ biến ở nhóm đất Ferralsols, m
ột loại đất
trồng trọt chính ở Gia Lai. Mười bốn mẫu đất được thu thập trên nhiều hệ thống cây trồng
khác nhau (bắp-lúa rẫy, bắp-khoai mì, cao su, cà phê, cây bạch đàn, cây ăn trái, điều) tại
các huyện Đak Đoa, Mang Yang, Chư Pah, Ia Grai, Đức Cơ, Chư Prông và Chư sê, bắc
tỉnh Gia Lai.
Các hố nhỏ được đào tại những vị trí khảo sát và SCAMP được sử dụng để xác định
những mặt hạn chế của từng địa điểm cho việc sản xuất bền vững. Một số mặt hạn chế
chính được xác định là: độ chua (a): 14 điểm, khả năng giữ chất dinh dưỡng thấp (e): 12
điểm; khả năng cố định lân cao (i): 14 điểm, mang điện tích biến đổi (geric): 4 điểm; nguy
cơ xói mòn (
er) sắp xếp từ nhẹ (9 địa điểm) đến rất mạnh (ở một vị trí). Sự tiêu thoát nước
chủ yếu theo đường mòn di chuyển của nước.
Từ những mặt hạn chế này, cơ sở dữ liệu về SCAMP cho ra những chiến lược quản lý
nhằm xây dựng nền sản xuất bền vững:
a: Những cây trồng có khả năng chịu
được chua thì chỉ nên trồng chúng trong chiến

lược ngắn hạn, về lâu về dài cần thực hiện chương trình bón vôi và phải theo dõi
pH đất thường xuyên.
e: Nên tăng CEC trong đất bằng cách gia tăng hàm lượng chất hữu cơ trong đất (duy trì
các tàn dư thực vật từ mùa vụ, bổ sung chất hữu cơ, trồng cây che phủ hoặc trồng
cây phân xanh) kết hợp với chương trình bón vôi để gia tăng pH đất và từ đó khả

năng trao đổi cation hữu dụng. Vấn đề thực tiễn của việc bón bổ sung sét hoạt động
cao để gia tăng điện tích vĩnh cửu có thể áp dụng.được.
i: Đối với đất có khả năng cố định lân cao đòi hỏi cần được bón một lượng lân khá lớn
hoặc phải có những biện pháp quản lý lân thích hợp (ví dụ như nguồn và phương
pháp bón phân lân) cần
được thực hiện. Việc bón phân lân trong các hệ thống canh
tác đầu tư tối thiểu nên được hướng dẫn sử dụng liều lượng lân tối thiểu bón theo

2
băng hay theo hốc gần với hạt và sử dụng cây trồng có nhu cầu phân lân ít. Việc
bón phân lân dễ tan trong nước theo hố hay băng sẽ làm giảm việc thất thoát lượng
lân dễ tiêu do hiện tượng cố định lân trong đất. Tuy nhiên, việc bón phân như vậy
sẽ làm cho rễ tập trung xung quanh phân và có thể làm giảm mức độ phân tán bộ rễ
trong đất. Ở những vùng xảy ra những đợt hạn ngắn, điều này có th
ể làm giảm
năng suất cây trồng vì bộ rễ kém phát triển không thể vươn xa để lấy nước. Ngay
từ lúc ban đầu, việc bón vải kết hợp với bón theo băng sẽ giúp phân bố bộ rễ đồng
đều hơn. Việc xác định mức độ lân trong đất phải được thực hiện định kỳ nhằm
giúp cho việc theo dõi tình trạng lân trong đất.
geric: Những nhóm đất này có rất ít điện tích b
ề mặt và do đó khả năng giữ các cation
dinh dưỡng (canxi và kali) hoặc các anion (nitrat) của chúng bị giới hạn. Phân bón
cần được chia thành nhiều đợt bón với một lượng nhỏ phù hợp với những nhu cầu
đòi hỏi của cây trồng. Bón vôi cho tầng đất nâng pH nước lên 5.5 sẽ làm tăng khả

năng giữ cation của đất do gia tăng các điện tích âm biến đổi, và là chọn lưa quan
trọng cho việc quản lý đấ
t. Bổ sung chất hữu cơ như cây phân xanh cần được quan
tâm vì điều này có thể làm gia tăng điện tích âm biến đổi.
Để có thể đưa ra chiến lược quản lý có hệ thống, một điểm thí nghiệm được chọn trên đất
đỏ Ferralsol của huyện Ia Grai (N13
o
58.01, E 107
o
52.98). Một số thuộc tính đất được mô
tả ở Bảng 1.

Bảng 1. Một số thuộc tính của đất thí nghiệm (0-15 cm)
Đất pH
(nướ
c)
pH
(KCl)
EC
1:5

(dS/m)
Carbon
HC (%)
K trao đổi
(cmolc/kg)
ECEC
(cmolc/kg)
Olsen P
(mg/kg)

PBI Sét
(%)
Geric
Ferralsol
5.0 4.2 0.05 3.0 0.08 0.44 9 1040 75

Những hạn chế theo SCAMP của mẫu đất đỏ Ferralsol này là độ chua của đất (a), khả
năng cố định lân cao (i), CEC thấp (e), và hàm lượng kali thấp (k). Các nghiệm thức được
xây dựng để làm giảm tối thiểu những hạn chế ảnh hưởng đến khả năng sản xuất được so
với công thức đối chứng của nông dân trên cây bắp qua 3 năm (Bảng 2). N
ăm cuối cùng
(vụ 2007) một thử nghiệm được bố trí nhằm hổ trợ cho hội nghị huấn luyện SCAMP được
tổ chức tại Gia Lai như một phần của dự án này.
Kích thước ô là 5m với 4 hàng bắp đôi có khoảng cách giữa các hàng đôi là 1,5m. Thí
nghiệm lặp lại bốn lần thiết kế theo khối đầy đủ ngẫu nhiên. Các biện pháp chống xói mòn
đất được thực hiện bằ
ng cách trồng những hàng cây phân xanh và cỏ vetiver theo đường
đồng mức.
Bảng 2. Các nghiệm thức thí nghiệm tại Ia Kha thực hiện trên một loại đất đỏ Ferralsol.
Bắp được chọn làm cây trồng để khảo sát. Tỷ số giữa lợi nhuận/ chi phí được tính
là tổng thu nhập/ tổng chi phí đầu vào. Tổng thu nhập là chi phí bán hạt. Chi phí

3
đầu vào bao gồm chi phí mua hạt giống, chi phí phân bón và chi phí nhân công
cùng với việc thu thập cây Quì dại địa phương để làm nguồn phân xanh. Bentonite
chỉ bón trong hai năm đầu và chi phí cho bentonite được kéo dài suốt 5 năm.

Năm 2005
Nghiệm thức Năng suất
(T/ha)

Thu nhập/
chi phí
1. Công thức nông dân (71N, 21P, 20K, 39S) 0.2 d 0.4
2. Đề nghị mức lân cao (115N, 57P, 140K) 1.8 bc 1.3
3. Sét bentonite @ 5 T/ha (115N, 42P, 140K) 2.3 ab 1.4
4. Vùi Tithonia @ 10 kgP/ha (115N, 42P, 140K) 2.3 ab 1.3
5. Tithonia + sét bentonite (115N, 42P, 140K) 2.8 a 1.3
6. Lân bón (115N, 42P, 140K) theo hốc 1.4 c 1.1
7. Lân bón (115N, 42P, 140K) theo băng 1.6 c 1.2


Năm 2006
Nghiệm thức Năng suất
(T/ha)
Thu nhập/
chi phí
1. Công thức nông dân (94N, 21P, 20K, 39S) 1.1 d 1.6
2. Đề nghị mức lân cao (115N, 57P, 100K) 4.4 ab 3.2
3. Sét bentonite @ 5 T/ha (115N, 42P, 100K) 4.2 b 2.5
4. Vùi Tithonia @ 3.5 kgP/ha (115N, 42P, 100K) 4.7 a 2.3
5. Tithonia + bentonite (115N, 42P, 100K) 4.4 a 1.3
6. Lân bón (115N, 42P, 100K) theo hốc 3.8 bc 3.0
7. Lân bón (115N, 42P, 100K) theo băng 3.8 c 3.0


4
Năm 2007
Nghiệm thức Năng suất
(T/ha)
Thu nhập/

chi phí
1. Công thức nông dân (115N, 24P, 50K, 39S) 1.2 1.5
2. Đề nghị mức lân cao (115N, 57P, 50K) 3.0 2.8
3. (115N, 29P, 50K) 3.6 4.1
4. (115N, 29P, 50K) 3.4 3.9
5. (115N, 29P, 50K) 3.4 3.9
6. Lân bón (115N, 29P, 50K) theo hốc 3.1 3.6
7. Lân bón theo băng (115N, 29P, 50K) + 1 tấn silica canxi 2.9 1.9

Phân bón được chia: 30%N, 40%K, 100%P (lúc gieo)
30%N, 20%K (30 ngày sau gieo)
40%N, 40%K (60 ngày sau gieo)
Kết quả
Kết quả thí nghiệm năm cuối cùng cho thấy rằng năng suất tăng theo thứ tự sau:
đối chứng nông dân< đề nghị mức lân cao = Lân bón theo băng = Lân bón phân tán<
bentonite = Tithonia = Tithonia + bentonite.
Ở 2 vụ đầu tiên, kết quả phân tích đất và cây cho thấy rằng cùng với khả năng giải phóng
đạm và lân chậm, Tithonia còn làm tăng pH đất (do đó làm cải thiện độc tính nhôm) và gia
tăng ECEC. Bón bentonite cũng làm tăng ECEC, ngăn ch
ặn sự thất thoát kali bón vào
xuống tầng đất cày. Những kết quả này xác nhận một lần nữa những mặt hạn chế đã nhận
biết ở SCAMP trên nhóm đất đỏ và hổ trợ chiến lược quản lý được đề xuất trong SCAMP
nhằm giảm thiểu những ảnh hưởng từ những mặt hạn chế này đến sức sản xuất.
Tỷ lệ lợ
i nhuận/ chi phí ở vụ cuối cùng cho thấy việc bón độc lập bentonite hay Tithonia
hoặc bón phối hợp đều cho hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, chi phí để bón bentonite rất cao
ngay giai đoạn đầu nên đã làm giảm sức hấp dẫn đối với người nông dân sử dụng
bentonite trong việc quản lý đất so với thu thập cây quỳ dại địa phương sử dụng như
nguồn phân xanh để bón vào đất. Thông qua toàn bộ chu kỳ 3 năm, vi
ệc bón cây quì dại

như một nguồn bổ sung thích hợp cho đất đã vượt trội nghiệm thức đối chứng của nông
dân qua năng suất và tỷ lệ giữa lợi nhuận và chi phí.
Kết luận
Những kết quả này chứng minh SCAMP có thể được sử dụng thế nào đánh giá những mặt
hạn chế đến sức sản xuất và dựa vào những thông tin này đưa ra những chiến l
ực quản lý
nhằm giảm tối thiểu tác động của những mặt hạn chế này đến sức sản xuất. Ích lợi của các
chiến lược quản lý đất đặc trưng này đã được chứng minh qua thí nghiệm. Tuy nhiên rào

5
cản lớn nhất của việc áp dụng kỹ thuật này là kinh phí đòi hỏi ban đầu cho phân bón và
nhân công cùng với việc thu thập cây phân xanh. Chi phí đầu tư ban đầu từ một nguồn vốn
trên cơ sở trở lại lợi nhuận mong đợi trên sự đầu tư sẽ là một cơ chế có giá trị cho một sự
khởi đầu cải thiện các công việc quản lý đất mà được hổ trợ
mang tính khoa học.

×