Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Các nhóm đất chính và những mặt hạn chế của đất ảnh hưởng đến sản lượng cây trồng cạn " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.13 KB, 11 trang )



009/06 VIE Báo cáo 6 tháng,tháng 10 năm 2008


Phụ lục 2

VIE 009/06. Nâng cao năng lực khuyến nông viên các tỉnh trong việc
đánh giá những mặt hạn chế của đất đến sức sản xuất thông qua việc sử
dụng hệ thống các quyết định hỗ trợ SCAMP






Các nhóm đất chính và những mặt hạn chế của đất
ảnh hưởng đến sản lượng cây trồng cạn

3. Vùng Đông Nam Bộ










PW Moody


a
và Phan Thi Công
b






a
Bộ Tài Nguyên Thiên Nhiên và Nước Queensland, Indooroopilly, Qld 068, Úc
b
Viện Khoa Học Kỹ Thuật Nông Nghiệp Miền Nam,Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam

2

1. Giới thiệu
‘Bộ trọn gói về việc quản lý các mặt hạn chế đất’ (‘SCAMP’) được phát triển
nhằm đánh giá những mặt hạn chế của đất đến sức sản xuất thông qua một số đặc tính cơ
bản của đất (Moody và Phan Thi Công 2008; Moody và cộng tác viên 2008). Một khi xác
định được những hạn chế của đất, các biện pháp kỹ thuật giúp cải tạo và giảm thiểu nhữ
ng
mặt hạn chế này sẽ được xây dựng. Sức chống chịu của cây trồng thay đổi theo giống cây
và một đặc tính đất nào đó hạn chế sinh trưởng của một loại trồng nào đó nhưng có thể
không ảnh hưởng đến một số cây trồng khác. Do đó, một khi xác định được những hạn chế
của một nhóm đất đặc trưng nào đó, người ta có thể
đánh giá được khả năng của đất đó
đến sản lượng của các loại cây trồng đặc trưng.
Mục tiêu của một loạt các báo cáo này là:
- Đánh giá lại những thông tin hiện hữu trên việc xác định và mở rộng diện tích các loại

đất trồng trọt vùng cao ở một số tỉnh trọng điểm của Việt Nam.
- Xác định các nhóm đất chính được sử dụ
ng cho hộ nông dân sản xuất nhỏ ở các tỉnh
trọng điểm và xác định những mặt hạn chế của nó thông qua việc sử dụng SCAMP.
- Xác định những hệ thống cây trồng chính đã sử dụng ở hộ nông dân sản xuất nhỏ tại
một số tỉnh trọng điểm và soạn thảo những yêu cầu về đất đặc trưng của các hệ
thống
trồng trọt này.
- Kết nối một số những hạn chế với những yêu cầu về đất của những cây trồng cạn và
xây dựng cẩm nang hướng dẫn cho việc quản lý một số dạng đất đặc trưng cho một số
loại cây riêng biệt.
Phần 3 tập trung trên các hệ thống đất và cây trồng vùng Đông Nam Bộ gồm 5 tỉnh
(Bình Phước, Bình D
ương, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu) và ngoại ô Thành phố
Hồ Chí Minh. Vùng này trãi dài từ 105
o
49’ đến 107
o
35’ kinh độ Đông và từ 10
o
20’ đến
12
o
17’vĩ độ Bắc. Tổng diện tích vùng khoảng 2,2 triệu ha (chiếm khoảng 20,3% tổng diện
tích đất Việt Nam).
Vùng Đông Nam Bộ nhận bức xạ mặt trời ở mức cao nhất Việt Nam, hơn 130
Kcal/cm
2
/năm và là vùng thích hợp cho sản xuất nông nghiệp. Nhiệt độ trung bình hàng
năm đạt 26-27

o
C và không thay đổi trong suốt cả năm. Vùng này có lượng mưa trong bình
hàng năm cao, từ 1800-2400 mm. Lượng mưa tập trung vào mùa mưa (tháng 5 đến tháng
11, 200-300 mm/tháng) gây ra xói mòn đất ở vùng đồi dốc và rữa trôi mạnh mẽ phẫu diện
đất. Lượng bốc hơi trung bình hàng năm khoảng 1200-1400 mm. Do khí hậu khá thuận
lợi, vùng Đông Nam Bộ sản xuất nhiều nông sản có giá trị cao như cao su, cà phê, tiêu,
mía, bắp, cây ăn quả và rau màu.
2. Đá mẹ
Vật chất có nguồn g
ốc bazan thuộc thời kỳ Pleistocene và Pleistocene-Holocene
che phủ hơn 25% diện tích vùng (Phan Liêu, 1992). Trải qua tiến trình thời tiết ẩm ướt dài
hạn, đất với lớp ‘laterit’-bauxite kết von lại được tìm thấy ở phía bắc tỉnh Bình Dương
(huyện Phước Long và Đồng Phú). Vật liệu bazan trẻ hơn hình thành nên các loại đất màu
đỏ nâu với độ dày trung bình từ 8-10 m. Những loại đất này đươc tìm thấy ở các huyện

3
Lộc Ninh, Bình Long, Phú Riềng, Xuân Lộc, và Đất Đỏ và vùng gần biên giới Cam-pu-
chia ở tỉnh Tây Ninh.
Đất phù sa cổ bao phủ diện tích khoảng 33% diện tích vùng Đông Nam Bộ, Độ sâu
của lớp vật chất này thay đổi từ 2-7 m và chủ yếu là màu xám. Kích cỡ của đất phù sa từ
cát thô đến sét. Dựa vào tiến trình hình thành, đất phù sa cổ bị phong hóa thành 2 nhóm
đất khác nhau: đất xám bạc màu và đất nâu vàng.
Những vật chất đá mẹ khác gồm đá granite (huy
ện Núi Bà, tỉnh Tây Ninh; Bà Rá,
tỉnh Bình Phước) và đá phiến vùng núi thuộc huyện Tân Uyên, Đồng Phú, và huyện
Phước Long, tỉnh Bình Phước.
3. Những loại đất chính sử dụng cho canh tác của hộ nông dân sản xuất nhỏ
Vùng Đông Nam Bộ có 9 nhóm đất chính (Bảng 1) Trong đó đất xám (Acrisols) và
đất đỏ (Ferralsols) là hai nhóm đất chính, chiếm 75% tổng diện tích cả vùng.
Bảng 1. Những nhóm đất chính ở vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam

(Nguồn: Phạm Quang Khánh, 1997)
STT Nhóm đất Diện tích
(ha)
Tỉ lệ
(%)
1 Đất đỏ (Ferralsols) 1.018.786 43
2 Đất xám (Acrisols) 744.652 32
3 Đất phèn (Fluvisols) 170.445 7
4 Đất đen (Luvisols) 99.100 4
5 Đất phù sa (Alluvial soils) 87.218 3
6 Đất dốc từ Ferralsols (Colluvial soils) 53.882 2
7 Đất cát (Arenosols) 28.058 1
8 Đất xói mòn trơ sỏi đá (Leptosols) 13.195 < 1
9 Đất mặn (Saline soils) 2.500 < 1

Đất đỏ Ferralsols là loại đất có tính chất vật lý tốt nhưng lại có độ phì hóa học
nghèo. Loại đất này rất quan trọng đối với cây trồng lâu năm như tiêu, cao su, cây ăn quả,
điều và cây cà phê.
Phần nhỏ diện tích đất xám nằm ở vùng trũng thấp do đó hầu hết diện tích này
được sử dụng để trồng lúa. Những diện tích đất ở vùng cao thuộc Đông Nam Bộ thường
sử dụng cho canh tác các cây trồng lâu năm (cao su, cà phê, điều, mía) và cây trồng
thường niên như sắn, đậu phộng, bắp và rau quả.
Đất phèn xuất hiện tại vùng có địa hình thấp gần Thành phố Hồ Chí Minh. Một vài
cây trồng như cây bạch đàn, dứa, mía và lúa được trồng trên đất này.
Đất đen chỉ có ở tỉnh Đồng Nai trên vùng có nguồn gốc từ basal và ở chân núi tỉnh
Tây Ninh.

4

4. Một số hạn chế đất và biện pháp kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp bền vững

Hầu hết các loại đất vùng Đông Nam Bộ có tính chua, hàm lượng carbon hữu cơ
và khả năng trao đổi cation thấp. Một số mặt hạn chế của đất đến sản lượng cây trồng sẽ
được thảo luận cho 2 nhóm đất chính: đất đỏ ( Ferralsols) và đất xám (Acrisols).

Đất đỏ
Những mặt hạn chế chính được xác định cho đất đỏ trong vùng là độ chua (a), khả
năng giữ dinh dưỡng thấp (e) và khả năng cố định lân cao (i). Không giống như đất đỏ ở
vùng Tây Nguyên, đặc tính về điện tích biến đổi (geric) không phổ biến trong đất đỏ vùng
Đông Nam bộ. Điều này có thể được lý giải là do vật chất badan vùng Đông Nam bộ trẻ
hơn do vậy đất bị
phong hóa ít hơn so với đất basal ở Tây Nguyên. Thoát nước theo chiều
sâu là đặc tính thường thấy nhất trong dòng chảy nhưng chảy tràn bề mặt là một vấn đề
nghiêm trọng, vì đất đỏ vùng này có địa hình dốc hơn là ở đỉnh của các Cao Nguyên vùng
Tây Nguyên.
Với những mặt hạn chế nêu trên, cơ sở dự liệu SCAMP đã đưa ra những chiến
lược quản lý dưới đây cho sản xuất bền vữ
ng:
a: Trồng những cây trồng chịu đất chua nhằm phục vụ chiến lược ngắn hạn để chống
chọi lại hạn chế này. Đối với việc phát triển bền vững lâu dài, cần khởi đầu một kế
hoạch bón vôi kết hợp thường xuyên theo dõi diễn biến pH đất.
e: CEC cần được gia tăng bằng cách làm tăng hàm lượng chất hữu cơ đất (duy trì tàn

thực vật, bón tàn dư chất hữu cơ, trồng cây phủ đất hoặc cây phân xanh) kết hợp
với bón vôi để tăng pH đất và như vậy làm tăng điện tích phụ thuộc của đất (Aitken
và cộng tác viên., 1998; Phan & Merckx, 2005). Tính thực tiễn của việc bón sét hoạt
tính cao để làm tăng điện tích thường xuyên có thể được đánh giá (Noble và cộng
tác viên, 2004).
i: Đất có khả năng cố định lân cao cho thấy cần phả
i sử dụng một lượng lớn phân lân
để bón vào trong đất hoặc sử dụng những phương pháp quản lý lân đặc biệt (tức là

chọn loại phân và phương pháp bón phân) cần thiết phải thực hiện. Trong những hệ
thống canh tác mà phân lân được bón ở mức tối thiểu, nên bón trực tiếp với một
lượng nhỏ theo băng hoặc hốc gần với hạt và việc sử dụng những cây trồ
ng có nhu
cầu lân ít. Việc bón phân lân dễ tan trong nước theo băng hoặc hốc sẽ hạn chế mất
lân do hiện tượng cố định. Tuy nhiên, cách bón này sẽ tập trung bộ rễ cây xung
quanh khu vực có phân và do đó làm giảm khả năng lan rộng và ăn sâu xuống đất
của bộ rễ. Ở một số vùng có xảy ra những đợt hạn ngắn, việc bón như vậy có thể ảnh
hưởng đến năng suấ
t do hạn chế khả năng hút nước của bộ rễ. Bón rải một lượng
nhỏ phân ban đầu sau đó bón băng giúp cho bộ rễ phân bố rộng khắp. Đánh giá dinh
dưỡng lân trong đất nên xác định theo định kỳ mới thể hiện được tình trạng lân trong
đất.

5
Đất xám
Diện tích lớn đất xám của vùng được sử dụng cho trồng mía, trong đó Tây Ninh
chiếm diện tích trồng mía lớn nhất. Những tính chất đất ở một số vùng trồng mía được
trình bày ở Bảng 2.
Bảng 2. Đặc tính đất của một số vùng trồng mía ở tỉnh Tây Ninh.
(Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường, Viện KHKT NNMN)

ST
T
pH
KCl
C hữu

(%)


N
tổngsố
(%)
P
Olsen
(mg/10
0g)

K
+
trao đổi
(cmol
c
kg
-1
)

Ca
2+
trao đổi
(cmol
c
kg
-1
)

Mg
2+
trao đổi
(cmol

c
kg
-1
)

CEC
(cmol
c
kg
-1
)

1 4,43 1,33 0,076 1,4 0,03 0,9 0,5 3,4
2 4,47 1,30 0,067 1,4 0,04 1,0 0,6 4,0
3 5,06 1,35 0,097 1,2 0,06 1,2 0,8 3,5
4 3,87 1,33 0,052 1,9 0,03 0,6 0,2 3,8
5 4,47 1,48 0,120 1,8 0,38 3,0 1,4 7,0
6 4,63 1,43 0,109 2,6 0,50 3,2 2,8 7,7
7 4,45 1,48 0,086 1,1 0,15 1,2 1,0 6,4
8 4,55 1,53 0,084 0,8 0,07 1,1 0,9 4,8
9 3,98 1,38 0,098 0,4 0,05 0,5 0,3 3,8
10 4,13 1,38 0,081 0,4 0,06 1,1 0,7 3,8
11 4,12 1,32 0,083 0,4 0,09 1,0 0,6 3,6
12 4,01 1,38 0,072 1,2 0,04 0,8 1,0 2,6
13 3,85 1,33 0,045 0,1 0,03 0,7 0,5 3,7
14 4,16 1,28 0,067 0,6 0,10 0,6 1,2 3,7
15 4,06 1,28 0,063 0,8 0,04 0,6 0,2 3,0
16 4,00 2,76 0,116 0,8 0,03 0,5 0,3 5,5
17 4,07 2,86 0,073 0,7 0,03 0,6 0,3 6,0
Số liệu ở Bảng 2 cho thấy đất có tính chua. Chất hữu cơ trong đất nhìn chung cao

hơn so với các loại đất xám khác có thể là do sự tích lũy rễ cây từ vụ mía gốc và biện pháp
làm đất tối thiểu (Phan Thị Công, 1997). Đất này có khả năng trao đổi cation và độ bão
hòa base kém.
Các thông tin về những mặt hạn chế của đất xám được bổ sung qua kết quả của dự
án “Phát triển nền nông nghiệp bề
n vững trên đất vùng cao Nam Việt Nam” (IAS-
KUL,1998). Các mặt hạn chế thường gặp nhất là hàm lượng chất hữu cơ từ thấp đến trung
bình, lượng K dự trữ thấp đặc biệt là lớp bên dưới và các vấn đề thuộc về lý tính đất gồm
sự đóng váng bề mặt và sự nén chặt của đất. Một vài vùng tính thoát nước kém dẫn đến
ngập úng và tạo thành hồ nước. Sắt bị trôi r
ữa phẫu diện để lại màu xám đặc trưng trên
phẫu diện trên nhiều loại đất xám trong vùng. Thêm vào đó, kết von plinthite ở tầng bên
dưới đe dọa tính bền vững của những đất này do sự di chuyển đi lên của oxid Fe/ hydroxid

6
Fe là hệ quả của việc mao dẫn kết hợp với sự bốc thoát hơi nước cao. Đặc tính dí dẻ chặt
của đất gần bề mặt là mặt hạn chế phổ biến.
Với những mặt hạn chế nêu trên, cơ sở dữ liệu SCAMP đã đưa ra những chiến
lược quản lý dưới đây:
om (trung bình-thấp): Tăng cường hàm lượng chấ
t hữu cơ trên những nhóm đất này nhằm
cải thiện việc cung cấp dinh dưỡng cho đất, tăng CEC, tăng khả năng giữ nước
và khả năng đệm pH. Quản lý chất hữu cơ đất ở đất nhiệt đới bao gồm việc che
phủ bề mặt và cày vùi cây phân xanh như cây họ đậu hoặc cỏ cho gia súc, giữ
lại tất cả các tàn dư thực vật trên đồng ruộng, không
đốt tàn dư thực vật áp dụng
hệ thống làm đất tối thiểu hoặc không làm đất, trồng cây cao xen cây thấp, giảm
thiểu thiêu đốt tàn dư thực vật từ đồng ruộng và bón phân hữu cơ (phân gia súc,
chất thải từ đô thị đã được xử lý, bùn từ cống và chất thải hữu cơ công nghiệp)
từ nơi khác chuyển đến.

k: Bổ sung phân kali hoặc bón chất chấ
t hữu cơ có chứa kali là rất cần thiết. Những
đất có khả năng dự trữ kali kém ở các tầng đất bên dưới, cây trồng sẽ thể hiện
triệu chứng thiếu kali trong giai đoạn bị hạn. Trong trường hợp này, việc bón
phân kali bên dưới hạt lúc gieo hoặc trộn phân kali tại hốc trồng là chiến lược
quản lý hiệu quả hơn rải phân kali theo hàng bên trên bề mặt đất. Cây trồng cầ
n
được theo dõi sâu sát các triệu chứng thiếu kali.
hs, comp: Đóng váng bề mặt làm giảm tốc độ thấm và làm cho cây sinh trưởng kém trong
khi hiện tượng dí dẻ chặt làm hạn chế sự phát triển bộ rễ và giới hạn độ sâu của
rễ nên cây gây hại như khi bị hạn. Giữ lại tàn dư thực vật và trồng cây che phủ
đất sẽ duy trì được ẩm độ đất do đó hạn chế đất b
ị đóng váng. Để hạn chế sự dí
dẻ, đất nên được canh tác vào thời điểm khô hơn giới hạn dẻo của chúng và
tránh cày bừa và sử dụng phương tiện cơ giới khi đất ẩm hơn giới hạn dẻo.
5. Các mùa vụ trồng chính trên đất vùng cao ở những hộ nông dân sản xuất nhỏ
Bảng 3. Tổng diện tích (x 1000 ha) bắp, mía và đậu phộng trồng ở vùng Đông Nam
Bộ năm 2006 và 2007 (Nguồn: Niên giám thống kê 2007)
Tỉnh Bắp Mía Đậu phộng
Năm 2006 2007 2006 2007 2006 2007
Bà Rịa Vũng Tàu 19,0 18,8 0,4 0,5 1,4 1,7
Bình Dương 0,8 0,6 1,1 1,1 3,6 3,0
Bình Phước 7,0 6,3 0,8 0,7 1,7 1,2
Đồng Nai 56,7 58,2 8,8 8,9 1,6 1,4
Tây Ninh 7,8 7,1 38,0 31,3 20,9 21,3
TP. Hồ Chí Minh 1,2 1,1 2,3 2,0 0,7 1,0


7
Bắp, mía và đậu phộng là những cây trồng chính đối với những hộ nông dân sản

xuất nhỏ và diện tích sản xuất được trình bày trong Bảng 3.
Bắp là cây trồng chính ở tỉnh Đồng Nai trên đất Luvisol hay Lixisol. Đối với
những loại đất khác, bắp có thể cho năng suất bắp cao đạt đến 10 tấn/ha. Ở tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu và Tây Ninh, bắp được trồng trên đất đỏ và đất xám. Trong khi đó, mía
được
trồng chủ yếu ở Tây Ninh và Đồng Nai nhưng với qui mô nhỏ hơn. Một vài năm trước
diện tích khá lớn mía được tìm thấy trên đất xám ở tỉnh Bình Dương nhưng loại cây trồng
này đã nhường bước do quá trình đô thị hóa. Đậu phộng được trồng trên đất xám bạc màu
tỉnh Tây Ninh hơn 40 năm và đến nay vẫn là cây trồng chủ lực của tỉnh.
Nguồn cung cấp nước là y
ếu tố chính quyết định kiểu mẫu cây trồng cho vùng. Sau
mùa khô dài, những cây trồng thường niên như lúa và bắp được trồng khi mùa mưa đến.
Lúa nước là cây trồng chính ở vùng địa hình thấp trong khi bắp được trồng trên vùng cao.
Đậu phộng hay đậu xanh được trồng vào cuối mùa mưa trùng với vụ Đông Xuân. Cây
trồng lâu năm có tầm quan trọng cao như tiêu hoặc cà phê được trồng ở nơi có địa hình
thấp và có thể quản lý nướ
c tưới trong mùa khô. Bón phân mất cân đối cũng là mặt hạn
chế trong biện pháp kỹ thuật của người nông dân trong vùng. Hiệu quả sử dụng dinh
dưỡng là rất thấp.
Ở vùng Đông Nam Bộ, 83% nông dân đốt xác bã mía (lá và ngọn mía) (Nguyễn
Thị Rạng, 2002). Ảnh hưởng của những kỹ thuật phủ đất khác nhau sử dụng xác bã thực
vật của vụ đầu để phủ lên mía gốc trên tỉ lệ giữa thu nh
ập và chi phí đầu tư được trình bày
ở Bảng 4. Kết quả cho thấy phủ đất đã cải thiện năng suất và thu nhập so với đốt xác bã
thực vật.
Bảng 4. Ảnh hưởng của các kỹ thuật che phủ khác nhau đến tỉ lệ thu nhập và chi phí
đầu tư (Nguồn: Đỗ Ngọc Diệp, 2005)
ST
T
Kỹ thuật phủ đất

Năng suất
ở 10 CCS
(tấn/ha)
Giá trị
nông sản
(1000đ)
Chi phí
đầu tư
(1000đ)
Thu nhập
(1000đ/ha)
Tỉ lệ thu
nhập/chi
phí đầu

1 Đốt xác bã 77,1 29.298 11.741,4 17.556,6 1,53
2
Che phủ tất cả các
hàng
92,8 35.264 12.238,0 23.026,0 1,88
3 Che phủ cách hàng 97,5 37.050 12.706,8 24.343,2 1,92



8
6. Tính thích nghi của đất đối với một số cây trồng cạn chủ yếu được các nông hộ
nhỏ trồng
Đánh giá SCAMP trên đất đỏ và đất xám (Phần 4 bên trên) đã xác định được nhiều
mặt hạn chế của đất đến sản lượng của cây trồng. Một số mặt hạn chế luôn có ảnh hưởng
đến sản lượng của cây trồng, không kể đến lo

ại cây được trồng, bao gồm: mức độ xói mòn
(er), khả năng trao đổi cation thấp (e), khả năng cố định P cao (i), hàm lượng carbon hữu
cơ thấp (om), thiếu hụt K (k), và đóng váng bề mặt (hs). Tuy nhiên, cây trồng có tính
chống chịu khác nhau đối với những mặt hạn chế khác nhau như tính thoát nước và độ
chua, trong khi thuộc tính của một loại đất đặc trưng hay mặ
t hạn chế có thể là yếu tố giới
hạn chủ yếu đến sức sản xuất của một loại cây trồng nhưng nó chỉ giới hạn thứ yếu đối với
cây trồng khác. Theo FAO (1976) khung đánh giá đất sử dụng 5 lớp để phân loại sự thích
ứng cho mỗi đơn vị đất/địa hình đặc thù cho việc canh tác những cây trồng riêng biệt
(Bảng 5). Nhằm tạ
o thuận lợi trong việc sử dụng SCAMP trong vấn đề này, mỗi thuộc
tính/mặt hạn chế đất được xác định trên đất đỏ và đất xám đã được định giá theo những
ảnh hưởng của chúng đến sản xuất bền vững của những cây trồng chính được hộ nông dân
trồng ở qui mô sản suất nhỏ vùng Đông Nam Bộ (Bảng 6). Sự phân cấp dựa trên thông tin
đối chiếu của các tác gi
ả Williams (1975), Landon (1984), Page (1984), Schaffer và
Andersen (1994), Robinson (1996) và Dierolf và cộng sự (2001).

Bảng 5. Phân cấp tính thích hợp của đất [Nguồn: FAO 1976]

Cấp thích hợp Tiêu chuẩn Mô tả
1 Thích hợp cao Đất thích hợp cho sự phát triển bền vững của
cây trồng mà không cần các biện pháp cải tạo.
2 Thích hợp trung
bình
Đất thích hợp cho sự phát triển bền vững của
cây trồng nếu có áp dụng các biện pháp cải tạo
ở mức tối thiểu (Ví dụ: bón vôi, lên liếp để cải
thiện quá trình thoát nước tại chổ).
3 Ít thích hợp Đất chỉ có thể thích hợp cho phát triển cây

trồng nếu các biện pháp cải tạo những giới hạn
chính được thực hiện, (ví dụ,tính thoát nước
trên diện tích rộng)
4 Hiện tại không
thích hợp
Đất không thích hợp cho phát triển bền vững
cây trồng.


9

Bảng 6. Các cấp thích hợp của các thuộc tính/hạn chế của đất ảnh hưởng đến sản
lượng một số loại cây trồng đặc biệt.



Ký hiệu
theo
SCAMP
Bắp Mía Đậu
Thành phần cơ giới
S
2 2 2

L
1 1 1

C
1 1 3


O
3 3 3
Cấp thoát nước
1 (g) 4 4 4

2 (g
-
) 4 3 3

3 3 2 3

4 1 1 2

5 1 1 1

6 1 1 1
Độ dốc (%)
0-2 1 1 1

2-5 1 1 1

5-10 2 2 2

>10 3 2 3-4
pH đất
a
-
2 1 1

a


3 2 2
Khả năng chịu hạn
L L M
Vùng (cm) chất dinh
dưỡng/nước được cây hút
80-100 >100
50-
100
Nhu cầu
chất dinh dưỡng

Nhu cầu
N, K cao
Nhu cầu N
cao
Ca trong
vùng đậu
đâm tia
Những gợi ý dưới đây cần được thực hiện trong việc xây dựng các biện pháp kỹ
thuật để đạt được những yêu cầu của từng loại cây riêng nhằm bổ sung vào những phần đã
được trình bày ở Mục 4 bên trên.
Thành phần cơ giới
S: Do lượng nước hữu dụng có trong đất cát rất thấp, việc tưới nước trở thành một
nhu cầu cần thiế
t cho những cây trồng chịu hạn kém như bắp, mía và cà phê.
Việc sử dụng tàn dư thực vật từ đất sẽ hạn chế sự bốc thoát hơi nước và duy trì độ
ẩm đất.
Đối với những cây trồng có nhu cầu dinh dưỡng cao như bắp, mía và cà phê, khi
trồng trên những vùng đất cát có ECEC thấp, những chất dinh dưỡng như kali khi

bón nên chia ra nhiều lần bón. Trồng cây phân xanh hoặc bón chất xanh (ví dụ:
cây cúc quì) sẽ tạm th
ời làm tăng khả năng giữ dinh dưỡng của đất (CEC).
C: Những cây có củ như khoai mì không thích hợp trồng ở đất sét nhiều vì rất khó
thu hoạch. Đất sét không thích hợp cho những loại cây trồng không có khả năng
chịu đựng độ ẩm cao trong thời gian dài như cây cà phê, Tính thấm của đất sét
thấp nên chúng duy trì ẩm lâu hơn so với những đất có cấu trúc nhẹ hơn.

10
Sự thoát nước
Những loại đất với khả năng thoát nước kém thì không thích hợp cho cây trồng
không thể chịu đựng được điều kiện ngập úng như cà phê và bắp vì vậy nếu trồng cần phải
lên líp cao và thiết kế lại hệ thống thoát nước.
Độ chua của đất
a: Những nhóm đất có hạn chế này không thích hợp cho những cây trồng có khả năng
kháng độc nhôm và mangan th
ấp đến trung bình như cây bắp và cà phê trừ phi có
một chương trình bón vôi hoàn chỉnh được áp dụng.
a
-
: Khi trồng những cây có khả năng chống chịu độc tính nhôm kém như cà phê và
bắp đòi hỏi cần có một chương trình bón vôi. Việc bón thân lá cây cúc quỳ cho đất
chua đã được chứng minh là làm giảm độ chua do làm tăng pH đất. Phân lân nung
chảy (FMP) ngoài việc cung cấp lân cũng cho hiệu quả tương tự như bón vôi.
Độ sâu dinh dưỡng/ nước cây hút
Các cây trồng có bộ rễ nông không nhạy cảm như những cây trồng có bộ rễ phát
triể
n sâu như cà phê và mía đối với những đất có tầng dí dẽ chặt (comp).



7. Kết luận
Đất đỏ và đất xám là hai nhóm đất chính vùng Đông Nam Bộ. Những hạn chế xảy
ra khá phổ biến ở đất đỏ là tính chua của đất, khả năng giữ ion dương thấp và cố định lân
cao. Ở đất xám, những hạn chế phổ biến là hàm lượng chất hữu cơ ở m
ức trung bình-thấp,
kali dự trữ thấp đặc biệt ở các tầng bên dưới bề mặt đất và thường có hiện tượng đất bị
đóng váng và dí dẻ chặt.
Một số cây trồng khá phổ biến được các nông hộ nhỏ canh tác là bắp, mía và đậu
phộng. Khả năng chống chịu một số hạn chế của đất thay đổi theo từng lọai cây trồng, do
đó các biện pháp kỹ thu
ật canh tác nhằm cải thiện hoặc giảm thiểu ảnh hưởng của những
hạn chế này đến sản lượng cũng phải thay đổi theo. Tuy nhiên việc bón vôi và cây phân
xanh cho đất đỏ (Ferralsols) là cần thiết cho tất cả các cây trồng, trong khi đó cải thiện khả
năng thoát nước, duy trì thảm che phủ bề mặt và bón cây phân xanh là những biện pháp
cần thiết cho cây trồng trên đất xám.



Tài liệu tham khảo

Aitken, R.L., Moody, P.W. and Dickson, T. 1998. Field amelioration of acidic soils in
south-east Queensland. I. Effect of amendments on soil properties. Australian
Journal of Agricultural Research, 49, 627-637.
Dierolf, T., Fairhurst, T. and Mutert, E. 2001. Soil Fertility Kit. Potash and Phosphate
Institute: Singapore.

11
Do Ngoc Diep 2005. Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật chăm sóc mía ban đầu cho cây
mía ở Nam Bộ. Project Report. Centre for Sugarcane Research and Development.
Institute of Agricultural Sciences of Southern Vietnam.

FAO. 1976. Framework for land evaluation. Soils Bulletin No. 32. FAO: Rome.
Institute of Agricultural Sciences of Southern Vietnam and Katholieke Universiteit
Leuven 1998. Final Report on 'Sustainable Agricultural Development in the
Uplands of South Vietnam. IAS-KU Leuven: HoChiMinh City.
Moody, P.W. and Cong, P.T. 2008. Soil Constraints and Management Package SCAMP):
guidelines for sustainable management of tropical upland soils. ACIAR
Monograph No. 130, 86pp. Australian Centre for International Agricultural
Research: Canberra.
Moody, P.W., Phan Thi Cong, Legrand, J.

and Nguyen Quang Chon 2008. A framework
for identifying soil constraints to the agricultural productivity of tropical upland
soils. Soil Use and Management 24, 148-155.
Noble, A.D., Ruaysoongnern, S., Penning de Vries, F.W.T., Hartmann, C. and Webb, M.J.
2004. Enhancing the agronomic productivity of degraded soils in northeast
Thailand through clay-based Interventions. In: Water and Agriculture (eds. Seng,
V., Craswell, E., Fukai, S. & Fischer, K.), ACIAR Proceedings No. 116, ACIAR,
Canberra, pp. 147-160.
Nguyễn Thị Rạng 2002 Ảnh hưởng của các liều lượng phân bón N K đến năng suất, chất
lượng mía. MSc. Thesis. Centre for Sugarcane Research and Development,
Institute of Agricultural Sciences of Southern Vietnam: HoChiMinh City.
Page, P.E. 1984. Tropical Tree Fruits for Australia. QDPI Information Series QI 83018.
Queensland Department of Primary Industries: Brisbane.
Pham Quang Khanh 1997. Tai nguyen dat Đong Nam Bo.
Phan Lieu 1992. Dat Dong Nam Bo (The soils of the South East Region). Nha xuat ban
Nong Nghiep (Agricultural Publisher)
Phan Thi Cong 1997. Sustainability of different cropping systems on Haplic Acrisols of
South Vietnam. Journal of Science, Technology and Economic Management 11,
482-484.
Landon, J.R. (ed.) 1984. Booker Tropical Soil Manual. Longman Inc.: New York.

Phan, T.C. and Merckx, R. 2005. Improving phosphorus availability in two upland soils of
Vietnam using Tithonia diversifolia H. Plant and Soil 269, 11-23.
Robinson, J.C. 1996. Bananas and Plantains. CAB International: Oxon.
Schaffer, B. and Andersen, P.C. 1994. Handbook of Environmental Physiology of Fruit
Crops. CRC Press: Florida.
Statistical Year Book, 2007. Statistical Publishing House: Hanoi.
Williams, C.N. 1975. The Agronomy of the Major Tropical Crops. Oxford University
Press: London.

×