Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Lên men, sấy và đánh giá chất lượng ca cao ở Việt Nam - MS6 " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.65 KB, 11 trang )


Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn



Chương trình Hợp tác nông nghiệp và phát triển nông thôn





013VIE/05
Lên men, sấy và đánh giá chất lượng ca cao ở Việt Nam




MS6: Báo cáo 6 tháng lần 3







Tháng 08/2007


1
1. Thông tin cơ quan
Tên dự án


Lên men, sấy và đánh giá chất lượng ca cao ở Việt Nam
Cơ quan Việt Nam
Trường Đại học Cần Thơ
Điều hành dự án phía Việt Nam
Tiến sĩ Hà Thanh Toàn
Cơ quan Việt Nam
Trường Đại học Nông Lâm TP. HCM
Điều hành dự án phía Việt Nam
Tiến sĩ Phạm Hồng Đức Phước
Cơ quan Việt Nam
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm Tây Nguyên
Điều hành dự án phía Việt Nam
Tiến sĩ Nguyễn Văn Thường
Tổ chức Úc
QDPI&F
Nhân sự
Neil Hollywood
Ngày bắt đầu
02/2006
Ngày hoàn thành (lúc đầu)
02/2008
Ngày hoàn thành (lúc sau)
04/2008
Thời gian báo cáo
6 tháng lần 3 đến 08/2007
Nhân viên liên hệ
Phía Úc: Điều hành
Tên:
Neil Hollywood
Telephone:

617 34068643
Chức vụ:
Nhà vi sinh vật học
Fax:
617 34068699
Tổ chức:
QDPI&F
Email:



Phía Úc: Liên hệ hành chính
Tên:
Michelle Robbins
Telephone:
617 33462711
Chức vụ:
Nhân viên kế hoạch
Fax:
617 33462727
Tổ chức:
QDPI&F
Email:



Phía Việt Nam
Tên:
Hà Thanh Toàn
Telephone:

84 71 830604
Chức vụ:
Giám đốc Viện NC&PT CNSH
Fax:
84 71 830604
Cơ quan:
Trường Đại học Cần Thơ
Email:



1
2. Tóm lược dự án



















3. Tóm lược kết quả chính đạt được
Chính phủ Việt Nam đang tập trung vào chất lượng cao của hạt ca cao Việt Nam và đề ra
mục đích sẽ có 10.000 hecta trồng ca cao đến 2010, với trọng tâm là ở tỉnh Đắc lắc và với
18.000 ha ở đồng bằng Sông Cửu Long, nơi là vùng ưu tiên cho dự án CARD. Các hộ
nông dân sản xuất nhỏ sẽ canh tác hầu hết ở vùng này và thấy rằng giá trị cao của ca cao
có thể giúp sự phát triển nông thôn. Tuy nhiên, có ý kiến rằng Việt Nam sản xu
ất ca cao
được lên men chất lượng cao với giá cao chênh lệch, điều đó sẽ tăng thêm thu nhập cho
người nông dân trồng ca cao Việt Nam. Phương thức tốt nhất để đảm bảo chất lượng tốt là
huấn luyện những chuyên gia Việt Nam về phương pháp đánh giá các chỉ tiêu chất lượng
ca cao, các phương pháp lên men và sấy khô. Những nhà khoa học của nhóm phát triển ca
cao Việt Nam sẽ được chọn để huấn luyện bao gồ
m các nhà khoa học của Đại học Nông
lâm, Đại học Cần Thơ (nằm tại một trong những vùng trồng ca cao rộng lớn nhất Đồng
bằng Sông Cửu Long), và WASI (Viện nghiên cứu ca cao của chính phủ, đặt tại tỉnh Đắc
Lắc). Trong dự án, phương pháp lên men và sấy mặt trời hạt ca cao ở phạm vi hộ gia đình,
đã được phát triển ở các nước khác, sẽ được kiểm chứng và điề
u chỉnh trong điều kiện
Việt Nam và sự chấp nhận làm theo các yêu cầu thực tiễn của người dân. Những phương
pháp này sẽ được chuyển giao cho các hộ nông dân và các hệ thống khác. Kế tiếp sau đó,
đội ngũ cán bộ được tập huấn phân tích hóa học và cảm quan ca cao dưới sự chỉ đạo của
QDPI&F. Điều này sẽ đáp ứng mục đích sản xuất ca cao với chất lượ
ng mong muốn, từ
đó ca cao có thể được kiểm soát bởi các đơn vị Việt Nam tham
g
ia dự án.
Một chuyên gia Úc đã đến Việt Nam vào tháng 4 năm 2007. Trong chuyến đi, ông đã đến
thăm 3 cơ quan hợp tác.
Mục đích của chuyến thăm được mô tả sơ lược trong tài liệu dự án mục 3.2 “Kế hoạch thực

hiện” và cơ bản hoàn thành mục 9-14. Cụ thể như sau:

Thí nghiệm lên men trong “nhà nóng” (hot house) đã được tiến hành tại WASI vào tháng 4,
trong chuyến làm việc của chuyên gia Úc. Thí nghiệm này thực hiện với 2 nghiệm thứ
c, trãi
hạt và phơi nắng 2 giờ và 4 giờ trước khi cho hạt lên men. Kết quả của thí nghiệm đã được
báo cáo và gửi cho CARD, Hà Nội như là yêu cầu của khung kế hoạch 7. Một thí nghiệm
khác tiến hành trên việc sử dụng tiến trình rửa hạt lên men, trước khi sấy, chưa hoàn thành.

Trong quá trình thí nghiệm, dưới các điều kiện thời tiết khác nhau, đã được hoàn thành vào
năm 2006 tại Đại học Cần Thơ. Thí nghiệ
m được thực hiện tại WASI, chỉ ra rằng ở vùng Cao
Nguyên, điều kiện khí hậu, nhiệt độ, độ ẩm cho thấy rằng việc sử dụng thiết bị sấy bằng năng
lượng mặt trời thì không cần thiết. Một qui trình sử dụng ánh nắng mặt trời để sấy chuẩn đã
được sử dụng bởi các nông hộ đã đạt được kết qu
ả tốt, không xuất hiện nấm. Tuy nhiên, ở
điều kiện ẩm hơn ở ĐBSCL, thiết bị sấy năng lượng mặt trời thì cần thiết để chống lại sự
nhiễm nấm trong mùa ẩm.

Các thùng lên men và thiết bị sấy hiện tại đã được triển khai 3 tại Bến Tre, 1 ở Cần Thơ và 1
ở Đắc Lắc. Hai mô hình cũng được lắp đặt tạ
i trường Đại học Cần Thơ và Đại học Nông
Lâm. Chuyên gia Úc đã đến Cần Thơ và Bến Tre tháng 4 để thu thập dữ liệu về kinh tế, nhân
công và các hoạt động khác thông qua một cuộc khảo sát đã được thực hiện.


2
Trong chuyến thăm tháng 4, đã thống nhất sách hướng dẫn nên được in ấn tại Đại học Cần
Thơ. Một số công việc đã bị trễ trong khi đợi thống nhất cuối cùng các góp ý và kế hoạch 5
sẽ hoãn đến tháng 9.

Các hoạt động liên quan đến kết quả được tập huấn tại QDPI&F để đánh giá chất lượng hạt
ca cao đã được thự hiện. Các thăm dò trong t
ương lai, liên quan đến chất lượng ca cao và sự
đóng góp của dự án, cũng được tiến hành trong chuyến thăm. Một buổi hội thảo về chất
lượng ca cao, được tổ chức bởi SUCCESS Alliance (SA) và Masterfoods, tại Đại học Nông
Lâm (NLU), chuyên gia Úc đã tham dự vào tháng 4. Ông ấy cũng đã giới thiệu một số vấn đề
về lên men, sấy và đánh giá chất lượng hạt ca cao.

4. Giới thiệu và cơ sở của dự án
Chúng ta thấy rằng công nghiệp hạt ca cao nghiền và sự tiêu thụ đang tăng nhanh, có sự thiếu
hụt hạt ca cao lên men chất lượng cao ở vùng Châu Á Thái Bình Dương. Hầu hết ca cao lên
men hiện tại chủ yếu từ Tây Phi. Việt Nam có khả năng để lấp đầy ít nhất là phần cần cung
cấp này, nhưng điều cốt yếu là ca cao được sản xuất ra (ở Việt nam) phải đạt tiêu chuẩn chất
l
ượng tương đương ca cao Tây Phi.
Chính phủ Việt Nam đã có mục tiêu tăng sản lượng ca cao đặc biệt tại Tây Nguyên và vùng
đồng bằng Sông Cửu Long. Những nông hộ sẽ trồng hầu hết diện tích này. Vùng ĐBSCL có
đủ tiêu chuẩn để đón nhận sự ưu tiên của dự án CARD. Hiện tại đã có 2.700 ha ca cao đã
được trồng ở vùng này. Vùng ĐBSCL, ca cao chủ yếu là ở tỉnh Bến Tre. Đây là tỉnh lân cận
vớ
i thành phố Cần Thơ, nơi đặt vị trí của trường Đại học Cần Thơ và người đề xuất. Tỉnh
Bến Tre cũng đang được khởi xướng bởi chính phủ như một tỉnh đi đầu trong việc phát triển
ca cao ở vùng ĐBSCL. Những hoạt động phát triển ca cao có sự ủng hộ mạnh mẽ từ Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triể
n nông thôn).
Do việc trồng ca cao tương đối mới ở Việt Nam nên các cơ quan nghiên cứu ở Việt Nam
chưa có nhiều kinh nghiệm về chất lượng ca cao. Một nhóm chuyên về ca cao ở Đại học
Nông Lâm có nhiều kiến thức về ca cao, đặc biệt là các yếu tố nông học liên quan đến việc
thiết lập mùa vụ. Đại học Cần Thơ gần với Bến Tre và WASI có thể phát triển công nghiệp
ca cao ở Tây Nguyên. WASI cũ

ng là Viện nghiên cứu ca cao Việt Nam được Bộ Nông
Nghiệp và Phát triển nông thôn ủy quyền. Do đó mà 3 Viện này được tham gia dự án. Mục
tiêu của dự án bao gồm việc chú ý đến khả năng xây dựng trong tất cả các khía cạnh về quy
trình sản xuất ca cao và việc đánh giá chất lượng ca cao ở các Viện này.
Mục đích của dự án bao gồm các nghiên cứu về phương pháp chế biến hạt ca cao, đặc biệt là
thu hoạ
ch, lên men và sấy. Đắc Lắc, do thời tiết lạnh hơn nên có các yêu cầu khác hơn so với
2 tỉnh còn lại. Điều này có thể sẽ làm tăng thêm giá thành hạt ca cao. Sau khi các phương
pháp được thiết lập trên cơ sở lượng hạt thu hoạch thì các thử nghiệm tại vườn sẽ được tiến
hành. Các thí nghiệm này bao gồm việc phân phối các máy sấy, các thùng lên men đến Cần
Thơ, Bến Tre và Đắc Lắc. Các vùng thí điểm khác nhau sẽ cho k
ết quả khác nhau sẽ được
ghi nhận: chất lượng hạt, vấn đề bảo trì, phân phối lao động và cả thu nhập. Các công việc
này phải được tiến hành ít nhất 1 năm để đánh giá một cách tương đối các vấn đề có thể phát
sinh và trong các mùa vụ khác nhau.
Với việc thử nghiệm thành công trên vườn, các hoạt động mở rộng sẽ được nối tiếp. Đây có
thể là các quyển sổ hướng d
ẫn, mô hình đơn giản của thùng lên men và máy sấy, phóng sự
trên các thông tin địa phương và phân bố rộng hơn phạm vi hoạt động thông qua cơ quan
chức năng và các chương trình tập huấn như SA.

3
Đối với việc đánh giá chất lượng, các cán bộ từ 3 cơ quan nghiên cứu sẽ cùng nhau tham gia
tập huấn đánh giá cảm quan, hoá và lý học tại QDPI&F, Brisbane. Họ cũng sẽ được tập huấn
về lên men và sấy hạt ca cao. Trong mục tiêu này, xây dựng khả năng của Viện Trường tham
gia cũng sẽ được thực hiện.

5. Kết quả đạt được đến thời điểm hiện tại
5.1 Các điểm thực hiện nổi bật
Khung kế hoạch dự án, như được chỉ ra ở phụ lục 1 của bảng kế hoạch 2, cho 18 tháng đầu

tiên và kết quả đạt được theo khung đã dự định như sau:


Bản dự án

Số
Tham khảo
khung (kết
quả)
Mô tả kế hoạch
Khả năng: phương tiện
đánh giá việc chi trả
Kế hoạch hoàn
thành
tháng/năm

Thực tế
hoàn thành
1
Ký hợp đồng
CARD
• Thoả thuận nghiên cứu được kí kết.
Khung làm việc và kế hoạch chi trả
được thực hiện
Tháng 02/2006 Tháng 02/2006
2
Kết quả 2 Dữ liệu ca cao Công việc sản suất ca cao hiện tại ở các
vùng trọng điểm bao gồm:
• Qui mô sản xuất
• Sản lượng và chất lượng quả

• Các phương thức chế biến hiện tại,
bao gồm lên men và sấy trong mùa
mưa.
• Thông tin cơ bản về tài chính nông
hộ-thu nhập và chi tiêu trên một
ngày lao động.
• Sự xuất hiệ
n của thị trường và hiệu
quả của việc giới thiệu của các tổ
chức như là sự cộng tác và chính
phủ và người mua tư nhân
• Xác định các điểm tới hạn để cải
thiện chất lượng ca cao.
• Tham khảo các cuộc khảo sát khác
vd: SUCCESS
Tháng 09/2006 Tháng 09/2006
3
Mục tiêu 5 Báo cáo 6 tháng
lần thứ nhất
• Báo cáo đã được gửi theo định dạng
của CARD, tiến độ và kết quả của
các hoạt động (báo cáo tập huấn
ngắn cũng được gửi).
• Các khai báo theo luật, thiết bị và
các dịch vụ khác được cung cấp.
Tháng 08/2006 Tháng 08/2006
4
Mục tiêu 9 Báo cáo 6 tháng
lần thứ 2
• Báo cáo đã được gửi theo định dạng

của CARD, tiến độ và kết quả của
các hoạt động (báo cáo tập huấn
ngắn cũng được gửi.)
• Các khai báo theo luật, thiết bị và
các dịch vụ khác được cung cấp.
Tháng 02/2007 Tháng 08/2007

4
5
Mục tiêu 11,
12
Tài liệu hướng
dẫn về ca cao
Tài liệu để cải tiến chất lượng hạt ca
cao bao gồm:
• Thiết kế và chế tạo các thùng lên
men, “nhà nóng” và thiết bị sấy
thích hợp cho nông dân.
• Chỉ dẫn phương pháp thu hoạch và
sau thu hoạch hạt ca cao.
• Mở rộng vùng nguyên liệu và giúp
đỡ nông dân trong việc phân loại,
đánh giá ca cao để cải thiện thu
nhập.
Tháng 07/2007 Dự kiến tháng
09/2007
6
Mục tiêu 13 Báo cáo 6 tháng
lần thứ 3
• Báo cáo đã được gửi theo định dạng

của CARD, tiến độ và kết quả của
các hoạt động (báo cáo tập huấn
ngắn cũng được gửi.)
• Các khai báo theo luật, thiết bị và
các dịch vụ khác được cung cấp.
Tháng 08/2007 Đã gửi tháng
09/2007
7
Mục tiêu 7,
8, 12
Bài báo cáo
chuyên ngành và
bài báo
• Thí nghiệm sấy hạt ca cao
• Thí nghiệm lên men hạt ca cao
• Tóm tắt các thí nghiệm tại vườn ca
cao
• Sản xuất sô-cô-la và đánh giá cảm
quan.
• Thuộc tính về chất lượng hạt ca cao
ở Việt Nam
Tháng 09/2007 Dự kiến tháng
09/2007
8
Mục tiêu 2,
3, 4, 6, 10,
14
Năng lực nhóm
hoạt động của
Cần Thơ, Đại

học Nông Lâm
và WASI
Đánh giá khách quan năng lực của
nhóm hoạt động Cần Thơ, Đại học
Nông Lâm và WASI về:
• Thiết kế, lắp đặt và cố vấn cho nông
dân sử dụng máy sấy và dụng cụ lên
men.
• Kỹ năng thiết lập và quản lý bảng
cảm quan và phân tích cảm quan hạ
t
ca cao và tiến trình sinh trắc học.
• Phân tích và báo cáo các thí nghiệm
tại Bến Tre, Tây nguyên và các
điểm của SUCCESS, bao gồm đánh
giá sự can thiệp trong cải tiến chất
lượng với phân thích tài chính.
Tháng 11/2007 Các thành viên
có năng lực
trong quá trình
chế biến, lên
men, sấy và
đánh giá cảm
quan.
Phân tích các
thí nghiệm sẽ
được thực hiện
vào tháng
09/2007.
9

Mục tiêu 7 Đánh giá sự
hưởng lợi của
các nông hộ
• Các lợi ích về kinh tế, xã hội và môi
trường cho các nông hộ thông qua
việc sử dụng các chỉ dẫn của dự án
để cải thiện chất lượng hạt ca cao.
(được so sánh với khảo sát)
Tháng 12/2007 Dự kiến tháng
9/2007
10
Mục tiêu 15,
16, 17 18
Báo cáo toàn bộ
dự án
• Báo cáo đã được gửi theo định dạng
của CARD, tiến độ và kết quả của
các hoạt động (báo cáo tập huấn
ngắn cũng được gửi.)
• Các khai báo theo luật, thiết bị và
các dịch vụ khác được cung cấp.
Tháng 04/2008 hạn cuối vào
tháng 04/2008

Các hoạt động dự án:
Các hoạt động được liệt kê theo tài liệu dự án thì các hoạt động sẽ được mô tả chi tiết hơn là
trong hợp đồng. Các hoạt động đã báo cáo sẽ không được lặp lại. Các hoạt động trong 6
tháng vừa hoàn thành được mô tả như sau:

5

Hoạt động của khung dự án 2.5: Khởi động đóng các thùng lên men, máy sấy năng
lượng mặt trời và “nhà nóng”: Hoạt động này đã được hoàn thành trước tháng 11/2006,
ngoại trừ “nhà nóng” ở WASI. “Nhà nóng” hoàn thành trước tháng 02/2007.
Hoạt động của khung dự án 2.6: Bắt đầu các thí nghiệm lên men và điều chỉnh máy sấy:
Hoạt động này được hoàn thành ở ĐBSCL, tại Đại học Cần Thơ trước tháng 09/2006 và đã
được báo cáo trước
đây. Các thí nghiệm lên men và sấy được tiến hành tại WASI vào tháng
12/2006 và tháng 04/2007 đã cho thấy sự thích hợp của máy sấy cho vùng Tây Nguyên.
Hoạt động của khung dự án 2.7: Các thí nghiệm lên men. Ngoại trừ lên men trong “nhà
nóng”, các thí nghiệm liên quan đến kích cở thùng lên men và thời gian trữ hạt đã hoàn thành
trước tháng 12/2006. Các khó khăn, như đã đề cập trong báo cáo trước, liên quan đến lên
men tại Đại học Cần Thơ đã được vượt qua phần lớn nhờ tiến hành tại Đạ
i học Nông Lâm.
Các thí nghiệm lên men trong “nhà nóng” đã được tiến hành vào tháng 04/2007 và đã được
báo cáo cho CARD. Bài báo cáo này là một phần của khung kế hoạch 7. Các thí nghiệm khác
đã được báo cáo, nhưng sẽ được bổ sung để hoàn thành khung kế hoạch 7 trước tháng
09/2007. Một thí nghiệm lên men, sử dụng công đoạn rửa hạt ca cao lên men, trước khi sấy
cũng hy vọng sẽ hoàn thành vào tháng 9.
Việc thiết lập các quy trình phân tích đã được thực hiện tại mỗi cơ quan và đã đượ
c báo cáo
trước. Các thiết bị cũng được vận chuyển và tiến hành tập huấn tại Đại học Cần Thơ và
WASI. Các đợt tập huấn khác sẽ được thực hiện trong chuyến công tác của chuyên gia Úc
vào tháng 04/2007.
Việc phát hành tài liệu khuyến nông đã được yêu cầu hoãn lại đến tháng 09/2007 do phải
hoàn thành các thí nghiệm lên men cuối cùng và đánh giá kết quả tại các nông hộ.

5.2 Lợi ích cho các nông hộ
Ca cao được lên men và sấy khô thích hợp và có h
ương vị tốt có giá trung bình từ 100 - 200
USD/tấn trên thị trường Đông Nam Á. Điều này có ý nghĩa rằng nếu dự án thành công khi

thiết lập một chuẩn về chất lượng cao thì các hộ nông Việt Nam có thể thu nhập thêm từ 1 - 2
triệu USD/năm cho 10.000 ha vào năm 2010. Đối với Đồng bằng Sông Cửu Long thì hộ
nông trồng ca cao có khả năng thu nhập thêm từ 1,8 - 3,6 triệu USD. Hiện tại, chỉ có một số
ít lượng ca cao được tr
ồng tại vùng duyên hải miền Trung nhưng cũng không có chương trình
phát triển ca cao nào cho vùng này. Vì thế dự án này chỉ tập trung ở đồng bằng Sông Cửu
Long. Dựa theo lượng mưa tương đương, việc phát triển các phương pháp đạt được cho đồng
bằng sông Cửu Long nên chuyển giao cho vùng duyên hải miền Trung nếu việc sản xuất ca
cao được tiến hành tại đây.
Một tổng kết ngắn gần đây về các hộ nông tr
ồng ca cao ở Bến Tre theo SA vào năm 2004
cho thấy cây ca cao 2 năm tuổi có thể cho 50 kg hạt/tháng/ha. Ở cây trồng 4 năm tuổi, sản
lượng tăng đến 200 kg hạt/tháng/ha. Với giá hiện tại là 21.000 đồng/kg cho hạt đã lên men,
nông dân có thể thu nhập 3,6 triệu đồng/tháng/ha (hay 235 USD/tháng/ha) đối với hạt ca cao
có chất lượng tốt.
Những ảnh hưởng của sự thông qua hệ phương pháp từ dự án này hi vọng sẽ được báo cáo
vào tháng 9 năm 2007.
5.3
Xây dựng năng lực
Tập huấn trong việc bố trí các thử nghiệm lên men, s6áy khô và phân tích các thông số có
liên quan hiện tại đang được hoàn thành ở mỗi cơ quan tham gia.

6
Huấn luyện sử dụng phương pháp HPLC phân tích axit hữu cơ và GC-MS phân tìch các hợp
chất thơm, cho đội ngũ cán bộ Việt Nam của mỗi cơ quan tham gia, được diễn ra vào tại
QDPI&F vào tháng 08/2006. Các cơ quan tham gia, chỉ có NLU là có thiết bị để thực hiện
các phân tích này.
Tập huấn đánh giá cảm quan và sinh trắc học của các kết quả cũng được thực hiện trong hội
thảo này. Tiếp theo là khóa tập huấn được thự
c hiện bởi phía đối tác Úc trong chuyến đi vào

tháng 12/2006 và vào tháng 04/2007. Thiết bị cối và chày cho sản xuất sô-cô-la và dịch lỏng
ca cao được gửi đến WASI và một máy chế biến sô-cô-la hay sản xuất dịch lỏng được gửi tới
CTU. NLU đã có thiết bị trước khi bắt đầu dự án.
5.4 Sự quảng bá
Các điểm sau có thể được áp dụng để quảng bá các liên quan về AusAID và CARD
• Qua báo chí, tài liệu và truyền hình, truyền thanh.

Các điểm tham quan và ký kết với các nơi thí điểm, các buổi hội thảo tập huấn (Máy
sấy năng lượng mặt trời và các thùng lên men được trình bày ở tỉnh Bến Tre trong
“Hội thảo ca cao quốc tế” vào tháng 11/2006 và một Hội nghị chuyên đề về lên men,
sấy ca cao và đánh giá chất lượng ca cao được đưa ra tại một hội thảo ca cao ở Đại
học Nông Lâm (NLU) vào tháng 04/2007).
• Các giới thiệu sách huấn luyện
• Dán nhãn cho thiết bị được cung cấp
• Kí kết giữa chính phủ VN với Úc về hỗ trợ về điều kiện văn phòng/phòng thí nghiệm.

5.5 Quản lí dự án

Các cơ quan Việt Nam chịu trách nhiệm sắp xếp kế hoạch và kiểm soát thử nghiệm lên men
và sấy khô cũng như việc tập huấn phân tích và đánh giá cảm quan. Cơ quan Việt Nam cũng
chịu trách nhiệm việc theo dõi các thử nghi
ệm và các tác động lên nông dân bao gồm lao
động và thu nhập cũng như chất lượng của ca cao mà các nông hộ thu hoạch khi tiến hành
các thử nghiệm. Cơ quan Úc sẽ phối hợp theo dõi, phân tích dữ liệu thu được, việc phát hành
các tài liệu chuyên môn khuyến nông và báo cáo tiến trình dự án đồng thời quản lý kinh phí
dự án.

6. Báo cáo về các vấn đề liên quan
6.1 Về môi trường
Việc trồng ca cao có thể có tác động ít phức tạp lên môi trường hơn các hình thức canh tác

khác của nông nghiệp. Các khu sản xuất thường nhỏ, thường là ca cao được trồng xen với
dừa hay một số nông sản khác. Các báo cáo nghiên cứu, gồm việc giới thiệu tại một hội nghị
ICCO (Braxin, 1996) cho thấy sự đa dạng loài như động vật, chim, côn trùng, v.v ở các khu
trồng ca cao cũng tương tự như
các vùng trồng ca cao gần với các khu rừng nhiệt đới.

Mối nguy hại đến môi trường khi tiến hành dự án này là rất ít. Dự án gồm tiến trình trồng ca
cao hiện tại và tương lai. Việc trồng ca cao tương lai có thể tác động lên quần thể động vật và
thực vật nhưng chương trình không mở rộng diện tích trồng ca cao. Ca cao cũng được xem là
một loại hoa màu ôn hòa. Ở đồng bằng Sông Cửu Long, ca cao được trồng với các h
ệ hoa
màu khác, thường là dừa hoặc trong một hệ thống rất đa dạng có thể đến 15 loại cây trồng

7
khác nhau như cây cho quả, hạt, cây bụi, dây leo và cây thuốc tạo nên sự đa dạng sinh học
cao.
6.2 Về giới tính và xã hội
Nhiều nông hộ trồng ca cao ở Việt Nam đã thực hiện việc lên men và sấy ca cao do chính các
hộ này thu hoạch và vì thế có nhiều kinh nghiệm trong các công đoạn này. Trong suốt thử
nghiệm tối ưu hóa kỹ thuật lên men, một nỗ lực để kết hợp chặt chẽ nhằ
m thu được kết quả
tốt nhất khi tiến hành các phương pháp do chúng tôi đề nghị. Sự kết hợp này bao gồm các kê
khai nguyên liệu sử dụng và môi trường, công việc thử nghiệm và yếu tố xã hội.
Một điều tra của Success Alliance cho thấy:
SA có 4 tỉnh tham gia gồm Bình Phước (1.095 hộ dân), Bà Rịa Vũng Tàu (1.560), Tiền
Giang (1.600) và Bến Tre (1.679). Ở các tỉnh này, lao động phụ nữ chiếm từ 9% ở Bình
Phước đến 20% ở B
ến Tre. Tiền Giang có 16% và Bà Rịa Vũng Tàu là 13%.

Hầu hết các nông hộ tham gia này thì việc canh tác là thu nhập chính. Số lượng người tham

gia có độ tuổi từ 26 - 55 được xem là lực lượng lao động có kinh nghiệm. Lượng người tham
gia thuộc một gia đình là 3 - 5 thành viên. Tỉ lệ nông dân có trình độ văn hóa cấp II và cấp III
là 69 - 77% trãi đều ở các tỉnh, vì thế tỉ lệ cao người có trình độ văn hóa rất thuận lợi cho
việc tiếp thu kiến thức, kỹ thu
ật mới.

Tại tỉnh Bình Phước có 90% nông dân thu nhập từ 12 - 100 triệu đồng/năm cho tất cả loại
cây trồng. Trung bình là 40 triệu đồng. Ở Bà Rịa Vũng Tàu, gần 90% nông dân thu nhập từ 1
- 45 triệu đồng, trung bình là 17 triệu đồng. Ở Bến Tre, 90% nông dân có thu nhập 1 - 10
triệu đồng, trung bình là 4 triệu đồng. Ở Tiền Giang là 2 - 10 triệu đồng, trung bình 5 triệu
đồng. Ở Cần Thơ chỉ có 1 hộ trồng ca cao có thu nhập hàng năm là 16 triệu đồ
ng từ cacao.

Các cuộc khảo sát, được tiến hành trong dự án này, đã được hoàn tất và đã được trình bài
trong các tài liệu riêng.

7. Vấn đề về sự thực hiện và tính bền vững
7.1 Vấn đề và giới hạn

1. Một vấn đề liên quan là các thiết bị sấy dùng năng lượng mặt trời không phù hợp cho các
nông hộ nhỏ vì giá thành cao và phức tạp. Tuy nhiên có thể thiết kế một dạng thiết bị sấy nhỏ
hơn phù hợp với các nông hộ nhỏ. Sau chuyến thăm của các chuyên gia sấy QDPI&F, giá
thành và sự sẵn có của các vật liệu để lắp đặt máy sấy đượ
c so sánh. Các khung gỗ cho thấy
có giá thành bằng với các nguyên liệu khác như ống thép vuông và sắt mạ kẽm. Các khung
sắt được ưa thích hơn vì không bị mục và bị vênh so với khung gỗ cùng thời gian. Tuy nhiên
máy sấy kích cỡ nhỏ nhất, có thể sấy khô 100 - 150 kg hạt ướt có giá thành 200 USD. Giá
này gấp đôi giá dự đoán ban đầu và nông hộ sẽ phải chuẩn bị chi phí nhiều. Vấn đề này có
thể vượt qua nhờ vào sự chấp nhận kế
t hợp sấy ca cao của các nông hộ với nhau. Các thảo

luận với Success Alliance chỉ ra rằng họ không xem xét đến giá thành cao quá mức đối với
các nông hộ nhỏ.

2. Nhận thấy rằng số lượng lên men giảm đến 10 kg có thể đạt được với các thùng lên men
được yêu cầu. Điều đó không được chứng minh trong trường hợp và số lượng tối thiểu là 25

8
kg được yêu cầu bây giờ. Số lượng không là vấn đề đối với các nông hộ nhỏ vì họ có thể trữ
trái đến khi đủ số lượng để lên men.

3. Các công việc được tiến hành cho thấy rằng phương pháp trữ trái và trãi hạt trước khi đặt
vào các thùng lên men đã tăng được chất lượng ca cao. Cả hai phương pháp này có thể dễ
dàng được thực hiện bởi các nông hộ.
7.2 Các chọn lựa
Ch
ỉ còn một thử nghiệm lên men cần được tiến hành đó là rửa hạt trước khi sấy. Thử nghiệm
này hi vọng được tiến hành ở NLU đúng thời gian hợp tác kiến nghị và phát hành tài liệu
khuyến nông vào cuối tháng 9.
7.3 Tính bền vững
Các thử nghiệm đã được tiến hành tại Cần Thơ thêm vào đó là các huấn luyện chuyên môn
để phân tích hạt ca cao khô do đội ngũ cán bộ thường xuyên từ CTU, NLU và WASI mang ý
nghĩa d
ự án có tính bền vững ở cấp độ cao.
Cùng với khóa tập huấn đánh giá chất lượng cảm quan ở Brisbane, phân phát thiết bị, các
huấn luyện tiếp theo của đối tác Úc, điều đó có nghĩa là chương trình sẽ có tính bền vững
8. Các bước chính tiếp theo
Các bước chính tiếp theo là mỗi một mục nhỏ trong bảng liệt kê hoạt động của đề tài:

Hoạt động 2.7 trong kế hoạch khung của dự án: Tiến hành các thử nghiệm lên men.
Như đã trình bày ở trên, các thí nghiệm lên men tại Cần Thơ không điển hình. Tuy nhiên, vấn

đề đã được giải quyết và các thí nghiệm lên men thực hiện thành công tại CTU từ tháng
04/2006. Việc sử dụng nhà ủ, để tăng nhiệ
t độ môi trường xung quanh, được thực hiện tại
WASI trong chuyến đi của phía đối tác Úc vào tháng 04/2007. Các thử nghiệm còn lại sẽ
được tiến hành có công đoạn rửa hạt trước khi sấy. Thử nghiệm này được tiến hành ở NLU
và kết quả thu thập đúng thời hạn được trình bày trong sổ tay hoàn thành vào cuối tháng 9.

Hoạt động 7.1 trong kế hoạch khung của dự án: Việc nâng cao chất lượng ca cao của
các nông hộ khi tố
i ưu hóa các thực nghiệm lên men: hoạt động này hoàn tất với thử
nghiệm “công đoạn rửa” đang được thực hiện.

Hoạt động 7.2 trong kế hoạch khung của dự án: Đánh giá số liệu của thử nghiệm lên
men: Hoạt động này đã thực hiện được một phần từ các thử nghiệm lên men cuối cùng. Báo
cáo các thử nghiệm này sẽ được trình bày vào cuối tháng 9 sẽ đượ
c bổ sung để hoàn thành
khung kế hoạch 7 theo yêu cầu.

Hoạt động 7.3 trong kế hoạch khung của dự án: Đánh giá số liệu của thử nghiệm sấy.
Hoạt động này đã hoàn thành ở ĐH Cần Thơ và WASI.

Hoạt động 7.4 trong kế hoạch khung của dự án: Lắp đặt thiết bị sấy bằng năng lượng
mặt trời ở ĐH Cần Thơ
, ĐH Nông Lâm và WASI. Hoạt động này đã hoàn thành.

Hoạt động 7.5 trong kế hoạch khung của dự án: Đánh giá thử nghiệm sấy. Hoạt động
này hoàn tất ở ĐH Cần Thơ và WASI. Một báo cáo chi tiết dự kiến vào cuối tháng 9.


9

Hoạt động 8.2 trong kế hoạch khung của dự án: Điều chỉnh thiết kế thiết bị sấy bằng
năng lượng mặt trời. Các thay đổi được đề nghị đã được kiểm tra thành công tại CTU.

Hoạt động 10.1 trong kế hoạch khung của dự án: Chuyên gia Úc làm việc tại Việt Nam.
Chuyến đi này diễn ra vào tháng 04/2007.

Hoạt động 11.1 trong kế hoạch khung của dự án: Phát hành tài liệ
u khuyến nông về
thực hành lên men và thiết kế máy sấy. Hoạt động này bị trì hoãn đến khoảng tháng 9-10
năm 2007 do cần phải hoàn thành các thử nghiệm lên men cuối cùng.
Hoạt động 12.1 trong kế hoạch khung của dự án: Tiến hành các thử nghiệm tại vườn ca
cao ở Bến Tre và Tây Nguyên. Các thử nghiệm này được tiến hành ở 2 nông hộ nhỏ ở Bến
Tre, 1 ở Cần Thơ và 1 ở tỉnh Đắc Lắc.
Sự theo dõi thường xuyên các địa điểm này đang được
tiếp tục.
Hoạt động 12.2 trong kế hoạch khung của dự án: Đánh giá lợi ích kinh tế của các ứng
dụng tại nông hộ nhỏ. Một báo cáo trên các thử nghiệm hiện thời được hoàn thành vào
tháng 08/2006. Một sự theo dõi của các nhân tố kinh tế, với sự viện trợ của máy sấy năng
lượng mặt trời, sẽ được hoàn thành vào tháng 09/2007
Hoạt động 12.3 trong kế hoạch khung của dự án: Thu thập và đánh giá mẫu ca cao từ
các nông hộ tham gia. Hoạt động này được thực hiện từ tháng 09/2006 và sẽ tiếp tục suốt
năm 2007. Một báo cáo về các phương diện chất lượng ca cao sẽ được trình bày các với thử
nghiệm lên men và sấy ca cao vào tháng 09/2007.

9. Kết luận
Các hoạt động của dự án được tiến hành tốt nhưng có một vấn đề chính là đang hoàn thành
một thử nghiệm lên men còn lại. Việc này gây chậm trễ cho việc phát hành tài liệu khuyến
nông. Tài liệu khuyến nông sẽ được hoàn thành vào cuối tháng 09/2007 so với kế hoạch vào
tháng 03/2007.



10

×