1
Ministry of Agriculture & Rural Development
Báo cáo tiến độ của dự án CARD
004/05VIE
Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nông hộ
tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam
MS7: Báo cáo 6 tháng lần 3
(07/2007 - 01/2008)
2
1. Thông tin về các đối tác:
Tên dự án
Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nong hộ
tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam
Các đối tác tham gia phía Việt
Nam
Viện chăn nuôi Quốc gia (NIAH); Trường Đại học Nông
Lâm Huế (HUAF); Viện Thú Y Quốc Gia (NIVR)
Trưởng đại diện dự án phía Việt
Nam
TS. Nguyễn Quế Côi
Các đối tác tham gia phía
Australia
The University of Queensland/Victorian Department of
Primary Industry/South Australian Research and
Development Institute/University of Sydney
Tên các cán bộ tham gia dự án
phía Australia
Dr Darren Trott, Dr Ian Wilkie, Dr Colin Cargill, Dr Tony
Fahy, Dr Trish Holyoake
Ngày bắt đầu
1 tháng 4 năm 2006
Ngày kết thúc (theo dự định ban
đầu)
tháng 4 năm 2009
Ngày kết thúc (sau khi đã sửa
chữa)
tháng 4 năm 2009
Giai đoạn báo cáo
tháng 07 năm 2007 – tháng 01 năm 2008
Các địa chỉ liên lạc:
Phía Australia: Trưởng dự án
Tên
Dr Darren Trott
Telephone:
617 336 52985
Chức vụ
Giảng viên chính, trường Thú Y,
Đại học Tổng hợp Queensland
Fax:
617 336 51355
Cơ quan
Trường Thú Y, Đại học Tổng hợp
Queensland
Email:
Phía Australia: Quản lý hành chính
Tên
Melissa Anderson
Telephone:
61 7 33652651
Chức vụ
Trưởng văn phòng các dự án
nghiên cứu
Fax:
61 7 33651188
Cơ quan
Trường Tài nguyên đất và thức
ăn, Đại học Tổng hợp Queensland
Email:
Phía Việt Nam
Tên
TS. Đỗ Ngọc Thuý
Telephone:
84 4 8693923
Chức vụ
Nghiên cứu viên
Fax:
84 4 8694082
Cơ quan
NIVR
Email:
3
2. Tóm tắt dự án:
Các hộ chăn nuôi nhỏ ở miền Trung Việt nam chủ yếu nuôi các giống lợn như lợn Móng
Cái, lợn Mini, lợn Soc cao nguyên - những giống lợn đã có khả năng thích nghi rất tốt với các
điều kiện tại miền Trung, nhưng có năng suất và hiệu quả kinh tế kém. Việc nâng cao chất
lượng của các giống lợn địa phương bằng cách đưa cac dòng Móng Cái có năng suất cao cho
các chương trình giống thuầ
n và giống lai sẽ dẫn đến kết quả là mang lại lợi nhuận đáng kể
cho các hộ chăn nuôi nhỏ nếu được tiến hành đồng thời với chương trình chăn nuôi khép kín
từ khi đẻ đến khi vỗ béo (tập trung chủ yếu vào các chương trình thú y, chăn nuôi, chuồng trại
và dinh dưỡng) để nâng cao năng suất chăn nuôi và giảm bớt các rủi ro về bệnh tật. Chương
trình cải tiến liên tục này (CIP) s
ẽ được bắt đầu bằng việc trang bị các kiến thức cần thiết cho
các nhà thú y và chăn nuôi, dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia Australia. Thông qua
phương thức “Tập huấn cho các giáo viên”, chương trình CIP sẽ được mở rộng đến những
người làm thú y cơ sở, những người quản lý trại và một số nông dân được chọn lựa để có thể
thu nhận được các kiến thức và các kỹ năng có thể
áp dụng được thành công trong thực tế.
3. Tóm tắt kế hoạch:
Dự án được thực hiện với 6 mục tiêu chính: 1. Tập huấn cho các giáo viên; 2. Lựa chọn các trại; 3.
Làm quen với các phương pháp chăn nuôi tốt nhất; 4. Đưa lợn giống xuống các nông hộ; 5. Theo
dõi các lợi nhuận; và 6. Củng cố lợi nhuận.
Trong thời gian 6 tháng thứ 2 thực hiện dự án, các tiến độ đáng kể đã được thực hiện đối với các
mục tiêu 2-4, theo đúng như đề cương củ
a dự án, với 1 số những thay đổi nhỏ và yêu cầu kéo dài
thêm thời gian do 1 số tình huống không được dự báo trước.
Một điều tra về các hộ nông dân, do các nhà khoa học Việt Nam và Australia thiết kế trong quá
trình chương trình tập huấn diễn ra tại Australia đã được hoàn thành tại các tỉnh Quảng Nam, Thừa
Thiên Huế, Bình Định và tỉnh Quảng Trị. Một dạng mẫu điều tra online đã do trường Queensland
thiết kế và
đã đưa vào thực hành nhằm mục đích đơn giản hóa việc đăng nhập số liệu và các phân
tích, và cung cấp các công cụ để theo dõi chương trình cải tiến liên tục (CIP) tại các trại đã được
chọn lựa. Hệ thống này còn có khả năng cập nhật các hình ảnh, bởi vậy mà các ảnh hoặc hình vẽ về
kế hoạch xây dựng cải tiến chuồng trại cũng có thể được
đánh giá hoặc trao đổi nhanh chóng giữa
các nhà khoa học. Các dữ liệu này sẽ cung cấp nền tảng cơ bản cho việc mở rộng tiếp tục mô hình
này, vượt ra khỏi cả khuôn khổ của dự án hiện tại.
Trên cơ sở các trả lời của các điều tra, mà đã được phân tích qua bằng chương trình SPSS, 27-30
trại tốt nhất ở mỗi tỉnh đã được chọn lực và các mục tiêu 3-4 đ
ã được bắt đầu đi vào thực hiện (nâng
cấp các trang thiết bị, tập huấn, và nhập lợn giống). Các nhà khoa học Việt Nam, những người mà
dã được tham gia khóa tập huấn tại Australia sẽ tiến hành 2 bài đánh giá về các trình độ thu được.
Thứ nhất, dựa trên các cuộc điều tra tại thực địa và việc thảo luận với các nhà khoa học Australia,
họ đã đặt ra nhiệm vụ thiết k
ế hệ thống chuồng trại thích hợp cho lợn Móng Cái đối với các trại đã
được chọn lựa để công việc có thể chính thức được khởi động. Thứ hai, trong quá trình các nhà
4
khoa học Australia tiến hành các chuyến đi thực địa, họ đã tiến hành các đánh giá và nhận biết ra
các vấn đề tồn tại, thảo luận và đưa ra các ưu tiên.
Do chi phí của việc đi lại và do thiếu các kỹ thuật viên cơ sở có kinh nghiệm để hỗ trợ, chúng tôi đã
quyết định là tạm thời để tỉnh Bình Định ra khỏi các mục tiêu 2-4 cho tới sau này của dự án. Thay
vào đó, các c
ố gắng sẽ được tập trung vào việc tiến hành các thay đổi ở tình Quảng Trị (do NIAH tự
quản lý) và Thừa Thiên Huế (do HUAF tự quản lý). NIVR sẽ bảo đảm việc tiến hành các chẩn đoán
về bệnh tiêu chảy và các bệnh khác cho các trại, hỗ trợ về thú y trong việc điều tra các ổ dịch bệnh
và cung cấp vacxin E. coli do cơ quan này chế tạo để phòng bệnh tiêu chảy do E. coli ở lợn con theo
mẹ
cho cả 2 tỉnh này. Tùy địa điểm thích hợp, các nhà khoa học của NIAH và HUAF mà đã được
tập huấn ở Australia sẽ hợp tác với nhau trong các chương trình tập huấn ở cả 2 tỉnh để đảm bảo
việc chuyển giao 1 cách đầy đủ nhất các ý tưởng và các kỹ năng.
Trong quá trình tiến hành điều tra, bất chấp 1 thực tế là các loại hình của hệ thống các trại là rất đa
dạ
ng và chất lượng của chuồng trại là khác nhau rất nhiều, chúng tôi cũng đã quyết định rằng, hơn
vì so sánh các ưu điểm thể hiện giữa lợn nái lai nhập ngoại và lợn Móng Cái, phần lớn các hộ nông
dân (ngoại trừ 1 ngoại lệ là 1 hộ gia đình rất có kinh nghiệm trong việc nuôi các giống lợn ngoại) sẽ
được nhận các lợn nái hậu bị thuần chủng Móng Cái. Nếu các hộ nông dân đạt
được những thành
công với việc nuôi lợn Móng Cái, thì sau đó họ cũng có thể được khuyến khích để mở rộng chăn
nuôi và nuôi lợn F1 hoặc các lợn lai trong tương lai. Có 2 mô hình thích hợp khác nhau đã được thử
nghiệm, mỗi mô hình ở 1 tỉnh. Tại Thừa Thiên Huế, do khoảng cách giữa các trại và HUAF gần
nhau nên các chuyến đi thực địa xuống các trại cũng được tiến hành thường xuyên hơn. Do vậy, các
thay đổi đối v
ới các điều kiện chăn nuôi như việc xây dựng khu chuồng riêng cho các lợn nái đã cạn
sữa, khu chuồng cho lợn nái đẻ và chuồng riêng cho lợn con, tăng mức độ thoáng gió và hệ thống
làm mát bằng nước nhỏ giọt cũng đã được tiến hành cùng thời gian với việc đưa lợn giống sinh sản
vào nuôi, đồng thời với việc tập huấn từng bước 1 đối với từng giai
đoạn có tính quyết định của quá
trình chăn nuôi. Các lợn nái hậu bị mang thai đầu tiên ở Thừa Thiên Huế sẽ đẻ con vào khoảng cuối
tháng 10, đầu tháng 11. Ở tỉnh Quảng Trị, các trại được chọn lựa đã tham gia chương trình tập huấn
về nuôi lợn Móng Cái thuần chủng do NIAH tổ chức ngay sau khi quá trình chọn lựa các trại được
tiến hành xong. Một mô hình chuồng nuôi lý tưởng cho lợn Móng Cái đã được thiết kế
như là mô
hình mẫu cho nông dân để có thể dựa vào đó và tiếp tục phát triển một khi mà đã bắt đầu có lợi
nhuận. Các lợn nái hậu bị được nuôi trong vùng lợn Móng Cái thuần chủng ở miền Bắc được dự
định là sẽ được vận chuyển đến các trại đã được chọn lựa ở tỉnh Quảng Trị trong tháng 7. Tuy
nhiên, các ổ dịch FMD và PRRS nổ ra ở tỉnh Quảng Trị
đã làm cản trở việc chu chuyển gia súc vào
tỉnh này, và bởi vậy các lợn nái hậu bị lại phải bán trở lại cho các hộ nông dân ở miền Bắc. Do vậy,
quá trình nâng cấp chuồng trại đã được tiến hành xong hoàn toàn trước khi đưa lợn giống sinh sản
vào nuôi. Tuy nhiên, sau đó thì tình hình các bệnh FMD và PRRS ở tỉnh Quảng Trị đã ít nhiều sang
sủa hơn nên các lợn nái hậu bị lại đã tiếp tục
được chọn lựa và sẽ được đưa vào đây vào khoảng
tháng 11 hoặc tháng 12, khi mà giá cả là hoàn toàn thích hợp.
Các chương trình tập huấn chính và đồng thời ở mỗi tỉnh đã được lập kế hoạch vào tháng 11, tập
trung chủ yếu vào việc chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái Móng Cái trong quá trình mang thai và nuôi
con, cũng như là việc chăm sóc lợn con ở độ tuổi trước cai sữa. Trong tuần thứ 1, các kỹ thuật viên
cơ sở sẽ
được tập huấn, sau đó là đến các nông dân đã được chọn lựa vào tuần thứ 2. Do sự chậm
trễ về kế hoạch thực hiện trong khoảng 3-4 tháng gây ra bởi dịch bệnh FMD và PRRS ở tỉnh Quảng
Trị, những người tham gia dự án muốn có thêm 1 khoảng thời gian gia hạn là 3 tháng đối với tất cả
các báo cáo tiến độ 6 tháng (tháng 1 và tháng 7 hàng năm).
Các thay đổi về nhân lực tham gia dự án bao gồm: việc biệt phái TS. Côi sang v
ị trí mới là giám
đốc Trung tâm nghiên cứu lợn Thụy Phương, và TS. Tạ Thị Bích Duyên sẽ là người thay thế để
quản lý dự án phía NIAH. TS. Trish Holyoake cũng đã chính thức xin phía trường Sydney rút khỏi
dự án này do bà ta phải tham gia 1 số dự án khác. Do vậy, khoản ngân sách $18,000 trước đây là
vốn hoạt động của phía trường Sydney được yêu cầu là sẽ phân phối đều cho các cơ quan nghiên
5
cứu phía Việt Nam để trang trải các chi phí đi lại do các trì hoãn gây ra ở tỉnh Quảng Trị và việc
phải đi lại nhiều hơn đối với các nhà khoa học ở Huế.
4. Đặt vấn đề và tổng quan về dự án:
Để thoả mãn nhu cầu về thịt lợn ngày càng tăng, một số nông hộ ở miền Trung Việt Nam đã
không ngừng mở rộng chăn nuôi, tăng năng suất, trong khi đó, vấn có một số hộ vẫn giữ chăn nuôi
theo phương thức cũ với các điều kiện chuồng nuôi nghèo nàn. Cùng với việc chăn nuôi được mở
rộng thì cũng kéo theo nhiều bệnh tật xảy ra, đặc bi
ệt là ở giai đoạn lợn con còn đang bú mẹ, do
vậy, không có gì là ngạc nhiên khi các bệnh tiêu chảy gây ra các thiệt hại đáng kể cho lợn ở giai
đoạn này. Bệnh thường được giải quyết và và kiểm soát bởi sự kết hợp giữa quản lý tốt, tiêm phòng
đầy đủ, tuy nhiên các điều kiện môi trường không đảm bảo tại rất nhiều trại chính là nguyên nhân
chính gây ra bệnh, đặc biệt là ở các khu vực chuồ
ng lợn đẻ và cai sữa. Kháng sinh – nguyên nhân
chính làm tăng các chi phí của sản xuất – cũng được sử dụng quá nhiều và việc sử dụng tùy tiện này
cũng đã gây ra mức độ kháng thuốc cao với rất nhiều chủng vi khuẩn phân lập được từ các lợn nuôi
tại Việt Nam. Việc mở rộng chăn nuôi lợn quy mô hộ gia đình ở các tỉnh miền Trung Việt Nam
cũng là nguồn cải thiện thu nhập
đáng kể đối với các gia đình nghèo, nhưng hiện tại cũng bị cản trở
do lợi nhuận thu được là rất thấp do năng suất sinh sản tốc độ tăng trọng kém, thiếu các kỹ năng
trong chăn nuôi và quản lý, thức ăn nghèo nàn và các vấn đề về bệnh tật. Dựa trên các kinh nghiệm
thu được từ dự án CARD hiện tại (001/04VIE), các vấn đề mà người chăn nuôi quy mô nhỏ ở Vi
ệt
Nam hiện đang phải đối mặt là:
• Thiếu các theo dõi ngay tại trại về hiệu quả chăn nuôi hàng ngày
• Thiếu các theo dõi về tăng trọng bình quân ngày, tiêu tốn thức ăn và số lợn bán ra/nái/năm
để đánh giá năng suất chăn nuôi toàn đàn và lợi nhuận thu được
• Chưa đề ra và đạt được các mục tiêu về sinh sản
• Hệ thống thông thoáng gió và làm mát kém, làm hạn chế khả n
ăng tiêu thụ thức ăn của lợn
• Thiếu thức ăn cho các loại lợn, từ sơ sinh đến khi xuất chuồng
• Thiếu các theo dõi về tình hình bệnh tật của đàn lợn, đặc biệt là về tỷ lệ chết, tuổi và nguyên
nhân gây chết
• Chiến lược tiêm phòng vacxin cho các bệnh chưa đứng, do vậy đã làm hạn chế tác dụng
phòng bệnh của vacxin
• Thiế
u chuyên gia thú y và các cán bộ khuyến nông để đào tạo và chỉ dẫn cho nông dân
• Thiếu các mô hình trình diễn tại các tỉnh để tập huấn cho những người cần học
Để có các hiểu biết rõ ràng hơn về các rủi ro làm hạn chế và giảm hiệu quả chăn nuôi lợn,
cần phải có 1 cuộc điều tra trên số lượng nông hộ tương đối lớn tại các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên
Hu
ế, Quảng Nam và Bình Định. Các số liệu theo dõi trước đó về vấn đề chăn nuôi, thú y, chuồng
trại, môi trường và thu nhập sẽ được thu thập và đánh giá để xác định các ưu tiên nghiên cứu. Một
ví dụ đại diện của các trại chăn nuôi quy mô nhỏ (được giới hạn là nuôi <10-15 lợn nái) và các trại
thương phẩm nhỏ (30-100 nái) ở từng tỉnh sẽ được lựa chọn để tham gia vào quá trình điều tra và
đánh giá – các tiêu chuẩn để đánh giá mức độ chăn nuôi, trình độ của người chăn nuôi và các điều
kiện chăn nuôi tại các trại. Trước khi triển khai điều tra, các nhà khoa học phía Việt Nam sẽ được
tập huấn để tổ chức các chuyến kiểm tra thực địa và phòng vấn nông hộ, thu thập số liệu về sức sản
xuất và các điều kiện về trang thiết bị khác.
Tiếp theo các cuộc điều tra ở các trại đã được chọn lựa tại 3 tỉnh, 1 cuộc hội thảo sẽ đựoc tổ
chức tại Trường Đại học Nông lâm Huế để xác định các yếu tố rủi ro chính có ảnh hưởng đến năng
suát chăn nuôi lợn. Những ưu tiên nghiên cứu sẽ được xác lập cho việc cải tiến quản lý, các kỹ thuật
chăn nuôi và chuồ
ng trại tại các nông hộ. Điều này sẽ có dẫn đến kết quả là việc phát triển các mô
hình chuồng nuôi thích hợp cho chăn nuôi lợn (với những cải tiến phù hợp), cũng như là các kỹ
thuật chăn nuôi và quản lý. Một khi mà các mô hình này được đánh giá thông qua, hàng loạt các
chuyến đi thực địa sẽ được triển khai ở các huyện mà các cán bộ khuyến nông và thú y địa phương
là những người đã được
đào tạo sẽ tham gia tích cực. Các nông dân dã được lựa chọn sẽ được mời
tham dự các lớp tập huấn “Tập huấn cho giáo viên” ở mỗi vùng. Các buổi hội thảo về chăn nuôi lợn
6
từ sinh sản đến khi bán ra thị trường cũng sẽ được tiến hành để đáp ứng được các yêu cầu và các hệ
thống chăn nuôi theo đó.
Rất nhiều nông hộ nghèo hiện nay vẫn nuôi các giống lợn nội với ý định lai chúng với các
giống lợn ngoại để tăng khá năng phát triển và năng suất ở đàn con F1. Tuy nhiên, các giống lợn
nội nuôi tại các nông hộ hiện tại có nă
ng suất rất kém. Trong số 3 dòng lợn thuần chủng chính,
giống lợn Móng Cái có năng suất cao hơn cả. Giống lợn Móng Cái có năng suất cao đã được tiến
hành lai với lợn Bắc Giang cho đàn con trung bình là 13-14 con/lứa đẻ (so với các giống lợn nội
khác chỉ đạt 8-9 con) và tốc độ tăng trọng bình quân đạt 350-400 g/ngày (các giống khác 200-250
g/ngày). Kết quả này đã bộc lộ rõ các ưu việt của giống lợn Móng Cái. Nếu thay th
ế được đàn lợn
nội bằng lợn Móng Cái thuần chủng có năng suất và chất lượng cao sẽ tạo thành các vùng hạt nhân
về lợn Móng Cái thuần chủng cho vùng Duyên hải miền Trung. Các con nái hậu bị thuần chủng sẽ
được tăng lên về số lượng và sẽ được bán cho các hộ chăn nuôi nhỏ khác trong chương trình lai với
lợn đực ngoại. Các công thức lai trong đàn F1 sẽ cho tốc độ phát triển tốt h
ơn các giống nội hiện
đang nuôi, nhưng lại thích nghi hơn với các điều kiện môi trường của địa phương so với các giống
lợn ngoại. Ngoài ra, chương trình này còn góp phần bảo tồn nguồn gen lợn Móng Cái thuần chủng
tại khu vực Duyên hải Miền Trung.
5. Các tiến độ của dự án
5.1. Điểm qua các công việc đã được thực hiện:
1) Cải tiến hệ thống dữ liệu trực tuyến
Trang web có thể được tìm thấy tại địa chỉ URL: />. Tên đăng
nhập (AUSAIDCARD) và mật khẩu (pigproject) đã được kiến tạo cho các thành viên ban quản lý
dự án CARD có thể tiếp cận và xem xét các dữ liệu (nhưng không thể làm thay đổi các báo cáo theo
dõi) tại bất kỳ thời điểm nào bởi vì nó sẽ liên tục được cập nhật trong suốt quá trình thực hiện dự
án. Trang web đã được cải tiến không ngừng nhờ các nỗ lực hiệp đồng của Ms Tarni Cooper (UQ)
và Mr Warren Ham (UQ), cùng với sự trợ giúp của TS.
Đỗ Ngọc Thúy (NIVR), Mr Hồ Ngọc
Phương (HUAF) và Mr Đặng Hoàng Biên (NIAH) (dịch và tham gia cải tiến thiết kế bộ câu hỏi
nhằm thu được nhiều thong tin hơn). Bao gồm:
a) Cải tiến bộ câu hỏi để có thể thu nhận được các dữ liệu chính xác hơn về sinh sản của đàn lợn,
quy trình tiêm vacxin, …
b) Tạo 1 phiên bản ngắn gọn của bảng điều tra để có thể được sử dụng như m
ột hệ thống đánh giá
ngắn gọn mà và các thông tin có thể được hoàn chỉnh trên cơ sở các nét cơ bản nhất trong suốt quá
trình thực hiện dự án
3) Các nhiệm vụ tập huấn chủ yếu đối với phía Việt Nam và các đánh giá kiểm tra tại trại do
các thành viên của đội dự án phía Australia thực hiện (Từ tháng 11/2007 đến tháng 2/2008):
a) Các chương trình tập huấn lớn vào tháng 11 năm 2007 do Dr Colin Cargill, Dr Tony Fahy và Mr
Patrick Daniel (xem Phụ lục 1: Báo cáo về chuyến đ
i tháng 11 của Colin Cargill)
Mục đích chính của chuyến công tác này là tiến hành đánh giá các tiến độ của dự án và trợ giúp
trong việc tập huấn cho một nhóm hạt nhân trong số những người làm công tác thú y cơ sở và các
kỹ thuật viên về cách tiếp cận và đánh giá kiểm tra phương thức quản lý và nuôi dưỡng tại các trại
lợn (chăn nuôi, dinh dưỡng và thú y), và về chuồng trại (mức độ thông thoáng gió, khống chế nhiệt
độ, quản lý ch
ất thải).
Tuy nhiên, chỉ có 2-3 thú y viên cơ sở và kỹ thuật viên tại mỗi huyện hoặc xã là có khả năng tham
gia vào các tập huấn như vậy (nhưnghọ cũng không thể hiện năng khiếu hay mối quan tâm của họ
7
trong việc học thêm những kỹ năng mới), và những ý niệm chung của tập huấn và những kinh
nghiệm của các dịch vụ triển khai tại địa phương dường như là bị mất đi trong quá trình do việc
dịch giữa 2 thứ tiếng. Điều này có thể là do sự hiểu nhầm về mục đích của khóa học, hoặc là do văn
hóa khác nhau trong việc chuyển tải các thông điệp c
ủa quá trình tập huấn. Việc tập huấn và các
chuyến kiểm tra tới các trại cũng bị gián đoạn do thiên tai (ngập lụt) và đã lãng phí mất 2 ngày vào
thời gian đầu của chuyến đi.
Trong chuyến kiểm tra tới Thừa Thiên Huế, 10 trại mô hình của dự án đã được tiến hành kiểm tra
trong 2 ngày. Các đàn này có kích cỡ từ 3-9 nái, và đa số các trại đã đựoc xây dựng chuồng giành
cho lợn nái. Hai mươi trạ
i đã được nhận hộp sưởi cho lợn con và cho dù các gia đình nông dân đếu
rất thích và có nhu cầu về các hộp sưởi này, nhưng cũng chỉ có 1 gia đình đã tự tiến hành làm lấy
hộp dạng này. Chi phí cho 1 hộp như vậy là khoảng 400.000 – 500.000 VNĐ (28-30 đôla Úc),
nhưng dường như là đối với các gia đình nông dân cũng là hơi đắt. Mỗi trại của dự án cũng đã được
nhận 5-6 lợn hậu b
ị Móng Cái, và đa số trong số này đã mang thai và đẻ con. Đội dự án của trường
Huế đã chọn được tổng cộng 27 trại, nhưng sau đó 3 trại đã được loại ra khi dự án chính thức bắt
đầu.
Ở tỉnh Quảng Trị - nơi mà đội dự án của Viện Chăn nuôi đã chọn lựa được 30 trại, sau đó 10 trại đã
được tiến hành kiểm tra trong vòng 2 ngày. Chưa một tr
ại nào trong số này được cung cấp hộp sưởi
cho lợn con, một vài trại đã xây dựng được chuồng cho lợn nái. Chưa có 1 con lợn hậu bị nào được
đưa vào nuôi do xảy ra ổ dịch lở mồm long móng, nhưng Mr. Biên đã cam đoan rằng các trại mô
hình ở Quảng Trị sẽ được sẵn sàng vào tháng giêng năm 2008.
Tóm lại, có một vài vấn đề đã được nhận ra ở các trại lợn này, bao gồm:
i) Thông thoáng gió. Phần lớn các trại có rèm che kín mít và dường như là cần quá nhiều
công sức cho việc nâng lên và hạ xuống. Tuy nhiên, một dạng rèm rất đơn giản có thể
nâng lên hạ xuống dễ dàng đã được ông Patrick Daniel trình diễn.
ii) Các hộp sưởi cho lợn con. Có lẽ đã không được sử dụng với khả năng tối đa của chúng,
nhưng chắc chắn là các hộp này có hiệu quả.
iii) Các chuồng nuôi lợ
n hậu bị, nái mang thai và nái cạn sữa. Phần lớn các trại có chuồng
cho lợn nái trong thời kỳ cạn sữa, nhưng tất cả các lợn này đều bị giới hạn khẩu phần ăn
và nước uống cũng đã không được cung cấp một cách liên tục
iv) Các ghi chép và theo dõi. Chỉ có rất ít theo dõi được lưu giữ và cũng rất khó để có thể
tính toán được số lượng lợn nái được nuôi trong 1 năm, do v
ậy, những cải tiến nhằm
thay đổi việc này là cần thiết và nên làm.
v) Thiếu những kiến thức về quy trình sử dụng thuốc và vacxin hợp lý. Một quy trình chính
thống về sử dụng thuốc và vacxin cho các bệnh thường gặp đã được cung cấp cho các
trại trong báo cáo MS5 (báo cáo 6 tháng lần 2). Ts. Tony Fahy đã nhận xét rằng: mặc dù
vacxin là có sẵn, nhưng phần lớn các nông dân, cũng như là các thú y viên cơ sở, đã
không nhận thứ
c hết được liệu là các vacxin nào nên được dùng và sử dụng chúng như
thế nào. Tương tự như vậy, họ có rất ít kiến thức về loại thuốc thích hợp để có thể sử
dụng cho loại bệnh nào và cách sử dụng chúng như thể nào.
Các kết luận được rút ra từ các chương trình tập huấn với rất nhiều cố gắng này là: còn quá sớm
để có thể hướng dẫn cho những ng
ười làm cơ sở về các kỹ năng cần thiết, và cần phải đầu tư
nhiều hơn nữa thì mới có thể đảm bảo rằng các trại mô hình tiếp tục có lợi và các việc này cũng
đã được ghi chép lại một cách rõ ràng. Vì những lý do này, một phiên bản ngắn gọn hơn về bộ
câu hỏi là cần thiết để các đánh giá kiểm tra về trại có thể được thực hiệ
n trong mỗi lần thăm
trại.
8
b) Bộ câu hỏi đánh giá/điều tra về trại được xây dựng vào tháng 12/2007/tháng 1/2008. Việc dựa
Ms. Tarni vào trong đội dự án đã có những tác động rất lớn. Ms. Tarni (người vừa mới hoàn thành
năm thứ 2 chuyên ngành thú y của Đại học Tổng hợp Queensland) đã được tạo cơ hội ở lại Việt
Nam và làm việc với các đồng nghiệp Việt Nam trong 8 tuần (từ tháng 12/2007 đến cuối tháng
1/2008). Ms. Tarni đã rất nhiệ
t tình với công việc và muốn làm việc toàn bộ thời gian sau khi tôt
nghiệp và trở thành bác sĩ thú y vào cuối năm 2010, có cơ hội sống và làm việc tại Việt nam trên cơ
sở các kiến thức thu nhận được trong suốt quá trình này. Thông qua các công việc của cô ý với
những người đã được tham gia tập huấn phía Việt Nam (Mr Phương từ trường Đại học Huế và Mr
Biên từ Viện Chăn nuôi), cùng với những quan sát rất cẩn thận t
ới từng chi tiết của cô ý, bởi vậy,
chúng tôi đã cắt giảm các chu kỳ thăm trại bởi các chuyên gia Australia - những người mà đã vạch
ra/chỉ ra cùng các vấn đề mà chưa hề được giải quyết giữa các chuyến công tác khác nhau. Ms.
Tarni cũng đã cam kết với việc thử nghiệm định dạng điều tra điện tử - một công việc mà chưa
được giải quyết trong các chuyến công tác trước
đây bởi các nhà khoa học Australia (có nghĩa là nó
đã chỉ được sử dụng vào lúc bắt đầu điều tra để thu được các dữ liệu về một số lượng lớn các nông
trại, nguyên nhân là do yếu tố thời gian của các chuyến công tác của dự án quá ngắn, chỉ khoảng 2-
3 tuần, và lại cần phải thể hiện càng nhiều càng tôt “các thông tin thực hành” trong các chuyến công
tác tại trại). Một lợi ích thêm nữa của việc này là Ms. Tarni và Mr. Ph
ương đã có thể đi thăm các
trại đã được lựa chọn bằng xe máy, bởi vậy mà họ đã linh động hơn rất nhiều và có thêm rất nhiều
các ý tưởng tốt về lĩnh vực này. Ms. Tarni đã đưa ra các mục đích sau trong các chuyến công tác tới
trại của cô ý.
1. Tiến hành đánh giá lại các số liệu trên cơ sở hệ thống dữ liệu của bộ các câu h
ỏi trực tuyến
và kiểm tra các lỗi nhập dữ liệu từ các bản gốc ban đầu ở trường Đại học Huế và Viện Chăn
Nuôi
2. Tiến hành kiểm tra tới mỗi, trong số các trại được chọn lọc (24 ở Thừa Thiên Huế và 30 ở
Quảng Trị)
- Tiến hành các kiểm tra đánh giá bằng cách sử dụng bộ câu hỏi đã được sử dụng
trước đây và thực hiện những thay đổi khi thấy cần thiết
- Tạo một sơ đồ tổng thể về chuồng nuôi và tải lên hệ thống dữ liệu trực tuyến
3. Quan sát các thực hành thú y tại cơ sở và báo cáo lại với những người có trách nhiệm trong
dự án
4. Phát triển nguồn nhân lực:
- Được trang bị tốt hơn với các kỹ năng
để có thể làm việc với các văn hóa khác nhau
ở các nước đang phát triển
- Học hỏi nhiều hơn nữa về các bệnh của lợn, về vấn đề chuồng trại, nuôi dưỡng và
phối giống trong tình hình thực tế tại các hộ chăn nuôi nhỏ
- Học hỏi về các khía cạnh khác nhau của văn hóa Việt nam, bao gồm cả ngôn ngữ và
nhiều các vấn đề xã hội khác
Một báo cáo hoàn chỉnh về chuyến đi của Tarni được gửi kèm theo báo cáo này (Xem phụ lục 2:
Báo cáo về chuyến đi của Tarni Cooper). Tuy nhiên, công việc chính đã đạt được là việc phát triển
một phiên bản ngắn gọn bộ câu hỏi nhằm phục vụ cho các mục đích kiểm tra, đánh giá tại trại; các
điều chỉnh đối với các câu hỏi như hệ thống trong trường phổ thông, và quan trọng hơn là tạo cơ hội
để đánh giá lại các tiến độ tại trại từ chuyế
n công tác đầu tiên của cô tới Việt Nam. Lòng tin và sự
ủng hộ đã được phát triển giữa các nhà khoa học Việt Nam và Ms. Tarni – đây chính là một tài sản
vô giá của dự án. Ms. Tarni đã có thể tiến hành đánh giá việc giới thiệu hộp sưởi cho lợn con vào
các trại mô hình tại Quảng Trị - tại đúng thời điểm trong năm, do các tỉnh miền Trung Việt Nam có
mùa đông lạnh rất bất thường, và những trại đ
ã sử dụng các hộp úm này đã không hề bị ảnh hưởng
bởi các tỷ lệ chết trước cai sữa. Đây chính lầ động lực, tuy đơn giản, nhưng là lớn nhất đối với
những trại khác để có thể từ làm và đưa vào sử dụng những hộp úm kiểu tương tự. Các kiểm tra,
đánh giá được thực hiện bởi Ms. Tarni tại mỗi trại mô hình ở mỗi tình s
ẽ hình thành nên dạng cơ
9
bản cho các đánh giá hoặc cho điểm trong tương lai. Các kết quả này có thể được xem lại trên mạng
ở bất kỳ thời gian nào bởi các thành viên của đội dự án.
4) Giới thiệu các báo cáo mốc quan trọng đối với các cơ quan tham gia dự án phía Việt Nam
Nhằm giữ cho các tiến độ của dự án phù hợp với tiến trình giải ngân, các yêu cầu về các mốc báo
cáo từ các đối tác phía Việt Nam đã được
đưa vào thực hiện (Xem Phụ lục 3: Các căn cứ cho việc
chi trả tiền). Một báo cáo mốc đã được TS. Linh (trường Đại học Huế) thực hiện trong giai đoạn
này cũng được gửi kèm theo báo cáo này (xem Phụ lục 4: Báo cáo 6 tháng lần 2 của HUAF). Điểm
nổi bật trong thời gian này là khóa tập huấn tới 30 trại đã được chọn lọc tại tỉnh Thừa Thiên Huế,
bao gồm 2 ngày lý thuyết (do TS. Linh, Duyệ
t và Toàn giảng dạy) về các vấn đề chuồng trại và
dinh dưỡng, sinh sản và phòng chống bệnh tật (trước chuyến công tác tháng 11 của các chuyên gia
Australia). Trong giai đoạn này, có 3 lợn Móng Cái bị chết đã được báo cáo lại: 1 con chết do tụ
huyết trùng và 2 con khác không rõ nguyên nhân. Các hộp sưởi cho lợn con trên cơ sở các nguyên
mẫu đầu tiên, có sự tư vấn từ các chuyên gia đã được tạo nên và đưa vào các trại đã được chọn lựa
(mỗi trạ
i được nhận 1 hộp miễn phí). Cho dù là việc làm các hộp này có giá thành hơi cao, nhưng
hiệu quả của chúng là rất tốt, đặc biệt là trong những tháng mùa đông lạnh. Hộp úm đã có tác dụng
rõ rệt với việc giảm nhiệt độ trong chuồng nuôi 1 cách đột ngột, các tác động cộng hợp của các yếu
tố stress và gây lạnh cho lợn con, cung cấp các bằng chứng rõ ràng về hiệu quả và chính điều này đã
nhanh chóng được nh
ững người nông dân khác học tập theo. Các báo cáo chi tiết về năng suất sinh
sản của các lợn hậu bị Móng Cái cũng đã được báo cáo. Nhìn chung, nếu các kết quả này là chính
xác, thì thật là đáng khích lệ tại giai đoạn này của dự án, với 83 đàn lợn con được sinh ra (trong
tổng số dự tính trước đó là 99 đàn), tổng số có 634 lợn con (549 con sinh ra và sống sót, một số chết
trong quá trình đẻ, và một số chết ngay sau khi sinh), 533 con đ
ã được cai sữa. Giá lợn con hiện tại
là 47.000 VNĐ/kg, trọng lượng trung bình của các lợn giống lúc bán là 7 kg, do vậy tổng cộng lợi
nhuận (đã trừ đi các chi phí đầu vào) là khoảng 91.932.000 VNĐ. Đó là tính trung bình trên 1 nái
hậu bị hoặc 1 nái, với 7.6 lợn con sinh ra, 6.6 sinh ra và sống sót (có nghĩa là 1 lợn con hoặc bị chết
trong quá trình sinh hoặc chết trong vòng 24 giờ sau khi sinh do các nguyên nhân khác nhau) và 6.4
được cai sữa. Điều quan trọng là các số liệu này, kết hợp với các số li
ệu về sinh sản (có nghĩa là
khoảng cách giữa các lứa đẻ) để thu được các thông tin về số lợn sinh ra sống sót trên 1 nái trong 1
năm. Nếu các lợn nái đang trong thời kỳ không nuôi con được cho ăn tốt hơn, và chú ý đến bầu tiểu
khí hậu chuồng nuôi cho các lợn con và lợn nái, thì những kết quả thu được này sẽ được cải thiện
hơn rất nhiều.
Một điểm quan trọng đã được nêu ra/
đề xuất theo đánh giá của các nhà khoa học phía Việt Nam là:
“Các quan sát, theo dõi đã cho thấy rằng vacxin E. coli đã không cung cấp bảo hộ 100% chống lại
bệnh do E. coli đối với các con con được sinh ra từ các con mẹ đã được tiêm vacxin này”. Vấn đề
này cần phải được nghiên cứu một cách hết sức kỹ lưỡng (như TS. Cargill đã nêu trong báo cáo)
trong suốt thời gian còn lại của dự án về các vấn đề như tuổi c
ủa lợn, loại tiêu chảy (cầu trùng cũng
có thể gây tiêu chảy, phân có dạng kem và các biểu hiện của lợn con, các bệnh khác như
Clostridium perfringens, rotavirus và TGE cũng đã được chẩn đoán ở Việt Nam trong khuôn khổ
của dự án CARD thứ hai. Đối với vấn đề bệnh tiêu chảy ở lợn con được chẩn đoán là do vi khuẩn E.
coli, thì các loại yếu tố bám dính và độc tố của các chủng này cần phải
được tiến hành xác định xem
liệu chúng có phải là nguyên nhân làm cho vacxin không phát huy hiệu quả hay không, đối với các
chủng mang F4, F5 đang chiếm ưu thế và 1 loại fimbriae mới được mang trong các chủng O8 (tất
cả các chủng này đều có trong thành phần của loại vacxin đa giá đang được sử dụng), hoặc là liệu
đó có phải là trường hợp tiêu chảy do các chủng có mang kháng nguyên bám dính F6 mà chưa có
trong thành phần của vacxin hay không. Tuy nhiên, các chủng F6 này, hiện vẫn chưa được công bố
chính thức là có l
ưu hành ở Việt Nam. Vacxin đã được kiểm nghiệm các chỉ tiêu về an toàn và hiệu
lực trong khuôn khổ một dự án CARD khác.
Trong giai đoạn báo cáo này, Dr. Phu, Viện Thú Y đã gửi các thông tin cập nhật sau:
10
“Chúng tôi đã tiến hành cung cấp 300 liều vacxin E. coli phòng bệnh tiêu chảy lợn con, trong đó,
150 liều cho Viện Chăn nuôi dùng tiêm ở Quảng Trị và 150 liều cho trường Đại học Huế, dùng tiêm
ở Huế. Các thành viên đội dự án của NIVR cũng đã tham gia vào chương trình tập huấn cho nông
dân về cách phòng và trị các bệnh thông thường ở lợn.
Trong suốt chuyến công tác, Mr. Huyên và Mr. Tuấn đã tiến hành lấy 7 mẫu ngoáy trực tràng của
các lợn bị tiêu chả
y. Kết quả chẩn đoán như sau: 2 mẫu lầy từ trại nhà Mr. Trang (2 đàn đã cai sữa
bị tiêu chảy nặng vài ngày trước khi đoàn công tác tới, một số con có biểu hiện của phù đầu. Các
lợn này, sau đó đã bị chết sau khi đoàn công tác rời đi). Cả 2 lợn sau đó đã có kết quả dương tính
với vi khuẩn E. coli dung huyết – là nguyên nhân chính gây ra tiêu chảy và phù đầu (Dr. Thuy, sau
đó đã tiến hành phả
n ứng PCR để xác định các yếu tố gây bệnh – và các kết quả này sẽ được báo
cáo trong 1 dự án CARD khác). Hai mẫu khác (từ trại Mrs. Tram) và 3 mẫu (từ trại Mr. Hung) cũng
đã dương tính với vi khuẩn E. coli, nhưng không dung huyết”. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng tại
thời điểm khi đoàn công tác tiến hành chuyến đi này thì các trại lợn vẫn chưa được tiêm vacxin
phòng E. coli.
Dr. Duyên đã thay thế Dr. Côi từ tháng 7/2007 và đã ngay lậ
p tức phải đối mặt với vấn đề về dịch
bệnh lở mồm long móng và “Tai xanh” (Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn, và sau đó là
các nhiễm trùng thứ phát với vi khuẩn đường hô hấp như S. suis và các vi khuẩn khác của hội
chứng này) xảy ra ở tỉnh Quảng Trị trong suốt năm 2007. Chính điều đó đã làm trì hoãn việc đưa
vào nuôi giống Móng Cái thuần ch
ủng vào các trại đã được chọn lựa. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đã
nhận được các thông tin cập nhật về tiến độ của dự án trong suốt giai đoạn báo cáo như sau:
1) Điều tra:
Trong tháng 11 năm 2006, 1 điều tra tại trại đã được tiến hành với 250 hộ chăn nuôi tại 2 xã Hai
Phu và Hai Thuong thuộc huyện Hải Lăng; xã Vinh Trung và Vinh Chap – huyện Vĩnh Linh, tỉnh
Quảng Tri.
Điều tra thứ 2 đã đượ
c tiến hành vào tháng 3 năm 2007 với 50 hộ chăn nuôi tại 2 xã Hai Phu và Hai
Thuong thuộc huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Tri.
Sau 2 cuộc điều tra, 30 hộ chăn nuôi đã được lựa chọn để tham gia vào các hoạt động của dự án.
(Xem phụ lục 4: Các thông tin điều tra tại trại).
2) Tập huấn:
Nhằm trang bị cho người nông dân các kỹ thuật và kiến thức về chăn nuôi lợn Móng Cái, trước khi
đưa lợn nái hậ
u bị Móng Cái vào nuôi tại tỉnh Quảng Trị, một khóa tập huấn về các kỹ thuật chăn
nuôi lợn Móng Cái đã được tổ chức ở Quảng Trị, từ ngày 2 đến ngày 10 tháng 6 năm 2007.
Tóm tắt các nội dung của khóa tập huấn này như sau:
KỸ THUẬT CHĂN NUÔI LỢN MÓNG CÁI
Phần 1: Các đặc điểm, phương thức sinh sản và các phương pháp lựa chọn lợn Móng Cái
Phần 2: Thức ăn, k
ỹ thuật về cách chế biến và bảo quản thức ăn
Phần 3: Kỹ thuật chăn nuôi lợn hậu bị Móng Cái
Phần 4: Kỹ thuật chăn nuôi lợn đực Móng Cái
Phần 5: Phương pháp xác định lợn Móng Cái động dục và phối
Phần 6: Kỹ thuật chăm sóc lợn nái mang thai
Phần 7: Kỹ thuật chăm sóc lợn nái đẻ và lợn con
Phần 8: Kỹ thuật chăm sóc lợn nái đẻ và cho con bú
Ph
ần 9: Kỹ thuật chăm sóc lợn con trước và sau cai sữa
Phần 10: Kỹ thuật chăm sóc lợn nái đẻ và lợn con
Phần 11: Kỹ thuật chăm sóc lợn thịt
Phần 12: Phương pháp theo dõi và tính toán hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn Móng Cái
Phần 13: Vấn đề về thú y trong chăn nuôi lợn Móng Cái
- Vệ sinh phòng bệnh
11
- Phương pháp tiêm phòng một số bệnh thông thường
- Các lưu ý đối với việc sử dụng vacxin
- Phương pháp xác định lợn bệnh
- Một vài bệnh thông thường và các kỹ thuật thú y trong chăn nuôi lợn
- Kỹ thuật can thiệp và chăm sóc lợn nái khi chúng có vấn đề trong quá trình đẻ.
3. Tiến hành nhập dữ liệu vào các mẫu câu hỏi điều tra thông qua website:
Có một số vấn
đề đã phát sinh và được phát hiện thấy trong quá trình nhập dữ liệu vào hệ thống
mạng, do một số nguyên nhân như: tốc độ kết nối internet chậm, một số lỗi phần mềm, làm cho các
dữ liệu, sau khi nhập vào thì không thể lưu lại được. Các bản theo dõi ghi chép thô, do vậy, đã được
lưu giữ lại và sau đó, được Ms. Tarni Cooper tiến hành nhập lại vào máy.
4. Vận chuyển lợn hậu bị Móng Cái t
ới Quảng Trị: Dịch bệnh lở mồm long mong và tai xanh,
hiện đã được khống chế ở tỉnh Quảng Trị. Do vậy, chúng tôi đã tiến hành mua các lợn hậu bị Móng
Cái mới, vận chuyển tới Quảng Trị (tháng 10). Giá cho mỗi kg lợn nái hậu bị là 47.000 VNĐ, tương
đương với 3.5 đô la Úc /kg (tăng 0.5 đô la Úc/kg).
5.3. Các lợi ích của các hộ chăn nuôi nhỏ:
Trong giai đoạn này, các hộ chăn nuôi nhỏ được chọn lựa là các đối tượng trực tiếp được nhận
những thứ sau:
- Thiết kế, thực hiện, thi công và nhận các hộp úm (1 hộp/trại) với những thành công ngay tức
khắc, tại cả 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế
- Các tập huấn về kỹ thuật chăm sóc và nuôi dưỡng lợn Móng Cái từ mỗi đối tác, t
ư vấn trực
tiếp tại trại, trợ giúp và điều tra các vấn đề trong suốt các chuyến công tác tới trại
- Phát triển 1 dạng câu hỏi kiểm tra đánh giá ngắn ngọn trực tuyến để có thể là phương tiện để
xác định và đánh giá những thành công của mô hình “cải tiến liên tục” đối với các trại mô
hình
- Cung cấp miễn phí loại vacxin E. coli được chế tạo n
ội địa cho việc phòng và chống bệnh
tiêu chảy do E. coli
5.4 Trang thiết bị
Dự án đã cung cấp máy ghi chép số liệu, máy đo nhiệt độ laser và bộ đồ mổ khám để trợ giúp cho
việc xác định các nguyên nhân của lợn ốm và tỷ lệ chết. Tuy nhiên, chúng tôi đã quan sát thấy là
các máy ghi chép số liệu đã không được đặt tại các trại mô hình để thu nhận các thông tin về môi
trường, do mối lo ngại rằng, sau khi dự án kết thúc thì khó có thể thu hồi lại được.
5.5 Việc công bố thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng
Một bài báo đã được nộp cho CARD newsletter (do PGS. TS. Darren Trott và Ms Tarni Cooper viết
– xem Phụ lục 5).
5.6 Quản lý dự án
12
Không có gì thay đổi về nhân lực thực hiện dự án, ngoại trừ việc bổ xung thêm Ms. Tarni Cooper
vào đội dự án phía Australia.
6. Về một số vấn đề có liên quan
6.1 Môi trường
Không có gì bổ xung so với báo cáo trước
6.2 Các vấn đề về giới tính và xã hội
Không có gì bổ xung so với báo cáo trước
7. Một số vấn đề về việc thực hiện và tính bền vững:
7.1 Một số vấn đề, các khó khăn và giải pháp
Vấn đề thứ nhất: Tiến độ chậm (nhưng ổn định) so với kế hoạch đã đặt ra với CARD
Khó khăn: Trong khi các tiến độ đã được xác định của dự án đang được thực hiện, dự án vẫn chưa
sẵn sàng để có thể cung cấp cho 1 tập huấn/thực hành có tính chuyên sâu và liên tục đối với các thú
y viên cơ sở/thú y vùng với các phương pháp thực hành tốt nhấ
t bởi vì những người nông dân vẫn
chưa có được bằng chứng là hệ thống mới này là hoạt đống tốt. Đã có một sự chứng minh rất ấn
tượng, đó là sự thành công của việc giới thiệu mô hình hộp sưởi cho lợn con với các trại, đặc biệt là
do điều kiện thời tiết rất bất thường trong mùa đông (có nghĩa là nếu các hộp này được đưa vào
trong mùa hè, thì d
ự án sẽ không thể đạt được những thành công như vậy, và khả năng được chấp
nhận của người dân cũng sẽ không nhanh như vậy). Vẫn còn một khoảng cách khá xa để có thể
chứng minh với những người nông dân rằng những biến chuyển của họ sẽ tuyệt vời đến mức như
thế nào, và rằng, sẽ có lợi nhuận đáng kể mà họ sẽ có th
ể thu được, nhờ việc xây dựng hệ thống
thông thoáng gió phù hợp và hệ thống làm mát cho lợn nái, đặc biệt là vào mùa hè. Cũng có những
khó khăn cho các cộng sự phía Việt Nam, một số người có động cơ làm việc tốt, có thể tổ chức và
chọn lựa đúng các đối tượng để tham gia tập huấn, như được thể hiện trong các nỗ lực tập huấn vào
tháng 11 của chúng tôi (những người tham dự
tập huấn đã không tỏ ra nhiệt tình hoặc thể hiện hăng
hái trong việc muốn tiếp thu những kiến thức của các chuyên gia để tạo thành những kiến thức của
bản thân mình)
Giải pháp:
1) Trọng tâm của dự án sắp tới sẽ là làm thay đổi toàn bộ việc chấp nhận của người dân đối với mô
hình cải tiến liên tục ở cấp độ các trại mô hình, vớ
i mục tiêu là chính nông dân sẽ tham gia tập huấn
cho nông dân, thông qua việc mỗi xã sẽ là một phương tiện chính cho các thay đổi này. Điều này
chỉ có thể trở thành hiện thực vào giai đoạn cuối của dự án, khi mà các chính các theo dõi ghi chép
sẽ xác nhận những cải thiện về năng suất và chất lượng thông qua việc chấp nhận những thực hành
tốt nhất. Các tài liệu, dụng cụ cho tập huấn cũng sẽ được phát tri
ển và làm cho phù hợp, sao cho
người dân sẽ cảm thấy dễ học và dễ tiếp thu nhất (có nghĩa là khi kết thúc khóa học, họ sẽ thu nhận
được những kiến thức thiết thực để mang về nhà). Tuy nhiên, cũng không thể không nhấn mạnh
rằng dịch bệnh lở mồm long móng và tai xanh vẫn đang hoành hành ở các tỉnh miền Trung Việt
Nam.
2) Trong nỗ lực này, kế hoạch cải tiến không ngừng thông qua việc chấ
p nhận các đánh
giá/điều tra tại trại là một ưu tiên hàng đầu
13
Vấn đề thứ hai: Tránh hiện tượng “Tư vấn kiểu ngựa gỗ chạy vòng quanh”
Khó khăn: Sẽ rất nguy hiểm nếu dự án của chúng ta trở thành dạng lặp đi lặp lại và không hiệu quả
cho dù là có đến 3-4 chuyến công tác ngắn đã được lên kế hoạch bởi các chuyên gia Australia và
được sự chấp thuận của ban quản lý dự án, các tiến độ của dự án cũng không thu được nhanh nh
ư
các kế hoạch đã được đặt ra trước đó trong đề cương của dự án. Trong bất kỳ trường hợp nào, các
chuyến công tác cũng nên được thực hiện với chất lượng cao để đánh giá các tiến độ của dự án, bởi
vì chúng tôi đã hy vọng rằng ở giai đoạn này, các nhà khoa học Việt nam đã có thể có tính độc lập
và tự chủ cao. Trong mỗi chuyến công tác gần đ
ây, các nhà khoa học Australia sẽ chỉ tham gia chỉ
đạo (chứ không trực tiếp làm) những việc đã được hướng dẫn như trong các chuyến công tác trước
đó. Dường như là có một sự trục trặc trong việc truyền đạt các thông tin từ phía các nhà khoa học
Việt Nam và các hộ chăn nuôi, và chúng tôi cho rằng, đối với các chuyến công tác trong thời gian
tới, chúng tôi sẽ tiến hành các biện pháp mạnh hơn để buộc các hộ chăn nuôi phải thực hi
ện các
việc này nọ, hơn là chỉ nói với họ là họ nên làm gì/không nên làm gì.
Giải pháp: 1) Giảm tần xuất của các chuyến công tác/năm, nhưng tăng thời lượng của các hoạt
động
2) Lập kế hoạch cho các hoạt động chính vào cuối năm (tháng 11 đến tháng 2, phụ thuộc vào thời
gian của Tết), khi các nhà khoa học Australia có thể cống hiến khối lượng lớn thời gian nhằm có thể
hiểu tường t
ận hơn về các khó khăn và các vấn đề có liên quan đến tiến độ của dự án ở cấp độ địa
phương quản lý.
7.1 Tính bền vững
Không có vấn đề gì mới được xác định
8. Các bước tiếp theo
1) Dịch bộ câu hỏi điều tra trực tuyến (dạng đầy đủ và ngắn gọn) sang tiếng Việt.
2) Theo dõi các tiến độ giữa và cuối năm 2008 để thu được các dữ liệu về chăn nuôi và sức sinh sản
của đàn lợn và xác định được những tiến độ chính đã được thực hiện (từ đó có thể làm cơ sở cho
việc đào tạo giữa các nông dân vớ
i nhau)
9. Kết luận
Cho dù là các tiến độ của dự án nhất định sẽ được thực hiện, nhưng một việc cần thiết và nên làm là
phải đánh giá lại các sáng kiến đào tạo của dự án. Các nhà khoa học Australia đã giảm tần suất các
chuyến công tác và kiểm tra, xuống còn hai lần một năm, nhưng đã tăng thời lượng. Khả năng cho
phép của Ms. Tarni Cooper với khối lượng lớn thời gian ở cuố
i mỗi năm học cho phần còn lại của
dự án là một việc đầu tư lâu dài tuyệt vời. Trọng tâm của năm tiếp theo sẽ là bảo đảm cho các biện
pháp can thiệp chính của dự án được hoạt động tốt tại mỗi trại và các nhóm nông dân sẽ cảm thấy
phấn khích 1 cách đúng mức bởi kết quả sản xuất của họ, từ đó hình thành nên các hợp tác xã chăn
nuôi. Các
đợt dịch bệnh chính là một mối đe dọa thường xuyên và không thể biết trước được, làm
ảnh hưởng đến các mục tiêu của dự án, tuy nhiên, từ đó cũng dẫn tới việc làm tăng giá lợn và những
người nông dân, với những kiến thức và kỹ năng tốt sẽ có một lợi thế lớn hơn trong các tình huống
này.