Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Ứng dụng nông nghiệp tốt (GAP) để nâng cao chất lượng hạt giống và cây giống rau cho ngành sản xuất rau lai của Việt Nam - MS10 " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.8 KB, 18 trang )


1

Ministry of Agriculture & Rural Development

BÁO CÁO TIẾN ĐỘ


025/06VIE
Ứng dụng nông nghiệp tốt (GAP) để nâng cao chất lượng hạt
giống và cây giống rau cho ngành sản xuất rau lai của Việt Nam


MS10: BÁO CÁO TỔNG KẾT







2
MỤC LỤC
1. Thông tin về đối tác 3
2. Tóm tắt các nội dung thực hiện 4
3. Giới thiệu và tổng quan dự án 4
4. Tiến độ thực hiện đến nay 6
5. Báo cáo các vấn đề phát sinh 9
6. Thực hiện & Các vấn đề về tính bền vững 9
7. Kết quả của dự án và hiệu quả đã đạt được 9
8. Tính bền vững của kết quả dự án và hoạt động của các đối tác 10


9. Thực tế và có khả năng tác động của kết quả dự án về mục tiêu hưởng lợi 15
10. Tính bền vững và lợi ích của dự án 17
11. Hoàn thành các hoạt động 17
12. Chất lượng của những kết quả đạt được 18

3
1. Thông tin về đối tác
Tên dự án
Ứng dụng nông nghiệp tốt (GAP) để
nâng cao chất lượng hạt giống và cây
giống rau cho ngành sản xuất rau lai
của Việt Nam
Đối tác phía Việt Nam Viện Nghiên cứu Rau quả - Trâu Quỳ - Gia Lâm
Chủ trì dự án phía Việt Nam PGS.TS. Trần Khắc Thi
Tổ chức phía Australia Trung tâm khoa học cây trồng và Thực phẩm – Đại học
Tây Sydney
Chủ trì dự án phía Australian Robert Spooner-Hart
Oleg Nicetic
Tony Haigh
Peter Hanson (AVRDC)
Thời gian bắt đầu Tháng 3 năm 2007
Thời gian kết thúc (ban đầu) Tháng 2 năm 2010
Thời gian kết thúc (đề nghị)
Báo cáo giai đoạn Tháng 9 năm 2007

Các quan chức liên quan
Phía Australia: trưởng nhóm
Tên: Robert Spooner-Hart Điện thoại 0245 701429
Chức vụ PGS. Trưởng bộ môn Hệ thống sản xuất Fax: 0245 701103
Cơ quan Trung tâm khoa học cây trồng và Thực

phẩm – Đại học Tây Sydney
Email: r.spooner-


Phía Australia: Hành chính tổ chức
Tên: Mr Gar Jones Telephone: 0247360631
Chức vụ: Giám đốc cơ quan dịch vụ nghiên cứu Fax: 024736 0905
Cơ quan Đại học Tây Sydney Email:

Phía Việt Nam
Tên: Trần Khắc Thi Telephone: 84 4 8276316
Chức vụ: PGS. TS. Phó Viện trưởng Fax: 84 4 8276148
Cơ quan Viện Nghiên cứ
u Rau quả Email:

4
2. Tóm tắt dự án












2. Tóm tắt các nội dung thực hiện

Trong báo các này chúng tôi đã hoàn tất 18 lớp FFS, bao gồm cả các tỉnh mà trước đó
đã bị trì hoãn do thời tiết bất lợi, cụ thể là Hưng Yên và Đà Nẵng. Các thành viên của
nhóm dự án thăm Việt Nam hai lần, tháng 11 năm 2009 (Spooner-Hart) và Tháng 2
năm 2010 (Spooner-Hart, Haigh, Hanson). SSC tiến hành các thí nghiệm đánh giá
thêm để lựa chọn giống lai có triển vọng phục vụ công tác thương mại, đăng ký công
nhận giống và bán cho nông dân, FAVRI tăng đáng kể doanh thu của giống lai F1,
đặc biệt là ở đồng bằng sông Hồng, và PFVC phát triển giống lai mới kháng đa bệnh.
Một kết quả quan trọng từ các FFS thứ hai là sự vượt trội của cà chua ghép, đặc biệt
trong trái vụ. Vì sự quan tâm rộng rãi của nông dân cũng như cán bộ SPPD trong việc
áp dụng công nghệ này ở đồng bằng sông Hồng và Trung bộ, nhóm cán bộ dự án đã
áp dụng công nghệ và sử dụng hiệu quả kinh phí tài trợ từ CARD để đạt được kết quả
mà dự án CARD mong đợi.
Một cuộc đánh giá dự án và kết quả của nó do cán bộ của Việt Nam và Úc thực hiện,
bao gồm các cuộc phỏng vấn / khảo sát nông dân và cán bộ SPPD. Tổng quan về các
hoạt động của dự án và kết quả đã cho thấy rằng dự án đã đáp ứng tất cả những mục
tiêu đề ra, có một số kết quả vượt quá mong đợi ban đầu.
3. Giới thiệu và tổng quan dự án
Trong thập kỷ qua, sản xuất rau của Việt Nam có mức tăng trưởng khá cao
khoảng 30% với diện tích canh tác năm 2005 là 614.500 ha . Năng suất trung bình
năm 2004 là 14,8 tấn/ha với tổng sản lượng vượt 9 triệu tấn. Với khối lượng này, sản
lượng cao hơn làm tăng mức tiêu thụ bình quân đầu người của Việt Nam cũng như
xuất khẩu một số loại rau chủ lực. Sản phảm rau
đóng góp 60% tổng kim ngạch xuất
khẩu rau hoa quả và cây cảnh trung bình trong 5 năm (2000-2004) là 224,4 triệu USD
Mục đích của dự án là tăng cường năng lực cho 3 cơ quan nghiên cứu của Việt Nam là
Viện Nghiên cứu Rau quả, Trường Đại học Nông lâm Huế và Trung tâm Khoa tây, Rau
và Hoa Đà Lạt về đánh giá và sử dụng các giống rau lai kháng bệnh như là một phần của
quy trình GAP trong sản xuất rau. Các giống cà chua lai kháng tốt bệnh do geminivirus từ
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Rau châu Á cũng như các giống rau họ bầu bí kháng
bệnh sương mai và phấn trắ

ng do Viện Nghiên cứu rau quả chọn tạo và đánh giá ở miền
Bắc sẽ được đánh giá tính thích ứng ở miền Bắc, duyên hải miền Trung và cao nguyên
Trung bộ trong 2 mùa vụ. Các giống tốt sẽ được sử dụng trong các thử nghiệm trình diễn
tại 5 điểm của mỗi vùng, kết hợp với các biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp IPDM sử
dụng dầu khoáng và ghi chép lưu giữ s
ố liệu. Nông dân sẽ tham gia đánh giá thử nghiệm
trình diễn, với sự hỗ trợ của các hoạt động tập huấn FFS do PPD tiến hành. Dự án này còn
có sự tham gia của các công ty thương mại chính, những công ty này cũng sẽ tham gia
vào xây dựng quy trình GAP cho sản xuất hạt giống và cây giống rau. Tập huấn bao gồm
cả chuyến thăm quan học tập của cán bộ Việt Nam tại Úc và các hội thảo. Nguồn gen tốt
được tuyể
n chọn sẽ được chuyển giao cho các công ty giống để sản xuất và phân phối cho
nông dân. Dự án sẽ giảm bớt việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất rau, tăng
mức độ an toàn sản phẩm rau cũng như thu nhập cho người dân. Dự án cũng sẽ giúp Việt
Nam ti
ếtkiệm đ
ư
ợcmộtl
ư
ợng ngoạitệ cho việcnhậpkhẩuhạtgiống rau từ n
ư
ớc ngo
ài

5
và mục tiêu đến 2010 sẽ đạt 690 triệu USD. Cà chua, dưa chuột và cây họ bầu bí khác
là những sản phẩm rau xuất khẩu ổn định nhất. Cà chua có thể được trồng 9 tháng
trong năm và mang lại lợi nhuận cao hơn nhiều so với trồng lúa (30 triệu đồng/ha với
trồng cà chua và 15 triệu đồng cho trồng lúa), qua đó đưa sản xuất cà chua thành sự
lựa chọn phổ biến nhất của nông dân. Mặc dù s

ản xuất rau của Việt Nam có những
thành công lớn và liên tục trong những năm qua, nhưng sản xuất rau vẫn còn đang
phải đổi mặt với nhiều vấn đề, đặc biệt là sản xuất hạt giống, cây giống và rau an toàn
có chất lượng. Mỗi năm ở Việt Nam sử dụng hết khoảng 8000 tấn hạt giống rau .
Hơn một nửa trong số này được nhập khẩu, 41% do ngườ
i dân tự sản xuất và chỉ có
7% là do các công ty giống trong nước cung cấp. Hạt giống do người dân tự sản xuất
nói chung có chất lượng kém, do vậy cho năng suất thấp, còn hạt giống nhập khẩu
làm tổn thất cho nền kinh tế của Việt Nam hàng triệu đô la. Cây giống sản xuất trong
vườn ươm hoặc do người dân tự sản xuất sử dụng công nghệ rất đơn giản với chi phí
lao động cao, điều này càng làm cho năng suất và hiệu quả sản xuất thấp hơn. Với nhu
cầu sản xuất rau tăng nhanh, thì những lo ngại về sự an toàn của sản phẩm rau cũng
ngày càng tăng, đặc biệt là việc sử dụng một lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật (10 -12
lần/ vụ trồng) và phân bón cho một diện tích trồng rau nhỏ, đặc biệt là ở vùng ngoạ
i ô,
nơi đang có gắng để thúc đẩy sản xuất tăng sản lượng rau. Việc thiếu các giống kháng
sâu bệnh đã làm cho vấn đề này càng đáng lo ngại . Những nghiên cứu gần đây cho
thấy ở Hà Nội 9% các mẫu rau vượt quá ngưỡng cho phép về dư lượng thuốc bảo vệ
thực vật 5-10 lần và 7% mẫu rau phân tích có dư lượng của thuốc bảo vệ thực vật cấm
sử dụng. Và kết quả là hàng năm có hàng ngàn vụ ngộ độc thực phẩm do ăn phải rau
có dư luợng thuốc bảo vệ thực vật cao (MALICA, 2003). Bên cạnh đó, việc sử dụng
quá mức thuốc bảo vệ thực vật cũng là nguyên nhân làm gia tăng sâu bệnh hại vì nó
làm hủy diệt nguồn thiên địch tự nhiên và phát triển những loài có khả năng kháng
thuốc.
Quy trình nông nghiệp tiên tiến (GAP), cùng với kế
t quả của một số dự án quốc tế mà
đặc biệt là dự án CARD 004/04VIE “ Nghiên cứu xây dựng mô hinh sản xuất rau an
toàn dạng công nghệ cao và tăng cường năng lực về kiểm tra chất lượng, quản lý sau
thu hoạch cho ngành sản xuất rau của Việt Nam", dự án ACIAR CS2/1998/078 “
Phòng trừ bọ phấn – một loài côn trùng – một vecto truyền bệnh Virus ở châu Á (pha

2) và pha III của dự án phòng trừ tổng hợp bọ phấn vùng nhiệt đới
được điều phối bở
trung tâm nông nghiệp nhiệt đới quốc tế (CIAT) tại Columbia, cung cấp những cơ sở
vững chắc để sản xuất hạt giống, cây giống sẽ tăng cường năng lực sản xuất rau an
toàn chất lượng cao. Mục đích của dự án là sẽ sử dụng những kết quả của dự án trước
để phát triển những mô hình sản xu
ất hạt giống và cây giống cà chua, dưa chuột, có sử
dụng những giống cà chua kháng tốt với bệnh xoăn vàng lá do Virus mà nguồn gen
được cung cấp từ trung tâm Rau Thế giới (AVRDC) và giống dưa chuột kháng bệnh
sương mai, phấn trắng được cung cấp từ Viện Nghiên cứu rau quả (FAVRI). Dự án
này cũng sẽ xây dựng quy trình nông nghiệp tiên tiến (GAP) cho sản xuất cà chua và
dưa chuột và tập huấn kỹ thuật cho các cán bộ Cụ
c Bảo vệ thực vật về sản xuất rau an
toàn. Dự án này cũng sẽ cung cấp các địa chỉ liên hệ cho lãnh đạo dự án phía Việt

6
Nam và Úc các công ty sản xuất hạt giống và cây giống cũng như các thiết bị sản xuất
công nghệ cao đến Việt Nam.
4. Tiến độ thực hiện đến nay
4.1. Các nội dung đã thực hiện
Khóa đào tạo FFS cuối cùng của vụ thứ 2 được hoàn thiện tháng 4 năm 2010. Ở Thái
Bình (1 cà chua, 1 dưa chuột), ở Hải Phòng 1 cà chua, 1 dưa chuột), Hà Nam (1 dưa
chuột, 1 cà chua), Hà Nội (1 cà chua, 1 dưa chuột) Vĩnh Phúc (1 cà chua, 1 dưa chuột)
Hưng Yên (1 cà chua, 1 dưa chuột), Quảng Nam (1 cà chua, 1 dưa chuột), và Đà Nẵng
(1 cà chua, 1 dưa chuột). FAVRI sản xuất và cung cấp cây giống cà chua ghép và hạt
giống dưa chuột cho tất cả các FFS ở đồng bằng sông Hồng. Ông Phong, sản xuất cây
giống cà chua ở Lâm Đồng, sản xuất cây giống cà chua ghép cho FFS ở duyên hải
miền Trung với giống giống ngọn ghép là giống mà FAVRI cung cấp cho ông Phong.
Tổng cộng có 380 nông dân được đào tạo ở vụ FFS thứ hai. Mô hình trình diễn là một
phần quan trọng của mỗi FFS. Một danh sách các nông dân tham dự vòng gần đây của

FFS được trình bày tại Phụ lục 3.

Tổng cộng có 36 FFS (dưa chuột 16 và 20 cà chua) đã được tiến hành trong dự án,
nhiều hơn 6 FFS so với kế hoạch ban đầu. Tổng cộng có 860 người tham gia nông dân
đã tham dự các FFS trong dự án. Một số nông dân tham dự FFS ở cả hai vụ FFS với
một loại cây trồng. Một số nông dân đã tham dự FFS với cả cà chua và dưa chuột,
nhưng điều này đã không được phổ biến.

Đào tạo khác

Anh Tăng Đức Hùng, một nhân viên của SSC, người đã được đào tạo chọn giống cà
chua 2 tháng tại AVRDC từ tháng 5-6/2010. Chủ đề chính là tạo giống cà chua chống
bệnh TYLCV, vi khuẩn và sương mai, bằng cách sử dụng phương pháp truyền thống
và sinh học phân tử, Tạo dòng thuần với cà chua, canh tác cà chua trong chương trình
chọn tạo giống cà chua. Chương trình được trình bày chi tiết trong Phụ lục 5. Đào tạo
này là kết quả của sự
hợp tác phát triển trong dự án CARD 06/025, và ở cuộc thảo
luận giữa chúng tôi với SSC trong chuyến thăm hồi tháng 2-3/2010. SSC trả tiền cho
đào tạo, tuy nhiên Tiến sĩ Hanson sắp xếp mức chi phí thấp để đào tạo do mối quan hệ
đặc biệt đã phát triển trong dự án. Thực tế là SSC thấy cần thiết và đã chuẩn bị kinh
phí để chi cho đào tạo cán bộ chọn tạo giống cà chua của SSC, đây là ho
ạt động vượt
ra ngoài kế hoạch của dự án.

Chúng tôi sau đó thảo luận về đào tạo tương tự cho các học viên cao học như bà
Hằng, từ Đại học Đà Lạt, làm việc với Tiến sĩ Tùng, về tạo giống cà chua trong dự án
CARD bao gồm giống kháng bệnh sương mai với nguồn giống từ AVRDC. Sương
mai được xem là bệnh quan trọng với sản xuất cà chua ở Lâm
Đồng (công nghệ ghép


7
để tránh bệnh héo xanh vi khuẩn đã phát triển rất tốt). Chúng tôi dự đoán các sinh
viên sẽ thăm AVRDC trong tháng 11 năm 2010, thời gian lý tưởng cho đào tạo về
bệnh sương mai. UWS sẽ cung cấp một số hỗ trợ tài chính cho đào tạo này.

Sản xuất giống lai F1
Để đánh giá thêm với những giống cà chua lai F1 triển vọng –con lai được tạo ra từ
vật liệu bố/mẹ (do Tiến sĩ Peter Hanson, m
ột cộng tác viên trong dự án, từ Trung tâm
Rau Thế giới (AVRDC), Đài Loan cung cấp) xác định trong dự án CARD 025 và sản
xuất bởi Công ty Giống cây trồng Miền Nam (SSC), được SSC tiến hành vụ xuân năm
2010. 2 giống lai F1 của AVRDC được xác định là có khả năng thương mại hóa được
là WVCT2 và WVCT8. Robert Spooner-Hart và Peter Hanson (AVRDC) thăm thí
nghiệm đánh giá cà chua của SSC tại Long An, Lâm Đồng và Hưng Yên, trong
chuyến thăm của họ hồi tháng 2/2010. Công việc này là vượt quá phạm vi kế hoạch
ban đầu c
ủa dự án nhưng nó là rất đáng khích lệ để thấy rằng SSC rất muốn tiếp tục
công việc của dự án 025 CARD vượt qua kết quả mong đợi của dự án.

CARD 025 cũng đã hỗ trợ FAVRI để mở rộng sản xuất hạt giống dưa chuột của CV5,
giống thể hiện có ưu thế ở đồng bằng sông Hồng. Tăng khả năng cung cấp h
ạt giống
và nông dân sẵn sàng mua hạt giống dưa chuột CV5, giống CV5 đã được công nhận,
đây cũng được xem như kết quả rất tốt của dự án.

Sản xuất giống cà chua lai F1 WVCT2 và WVCT8 cũng đang được thực hiện ở
FAVRI, mặc dù có những khó khăn trong sản xuất do phát sinh các bệnh khác ngoài
TYLCV. Nguyên nhân là do các giống cà chua khác, cây trồng khác cũng đang được
trồng trên cùng một thửa ruộng sản xuất.


4.2 Chuyến thăm của nhóm cán bộ dự án
Kết luận về thí nghiệm đánh giá cà chua lai F1 của họ, và quan tâm của họ trong việc
đăng ký thương mại giống cho sản xuất, chúng tôi cũng thảo luận về việc đề xuất áp
dụng IPM cho sản xuất hạt giống rau trên tài liệu quảng cáo. Sau đó ông thăm
FAVRI, ông được khu thí nghiệm đánh giá giống cà chua và sản xuất giống cà chua
lai và dưa chuột. Ngoài ra, ông tới thăm FFS tại Hưng Yên và Hà Nội.

Robert Spooner-Hart, Tony Haigh và Peter Hanson kiểm tra các hoạt động của dự án
tại Việt Nam trong thời gian cuối tháng Hai-đầu tháng 3 năm 2010. Trong thời gian
này, nhóm cán bộ dự án đã gặp nhân viên SSC ở TP HCM để thảo luận về việc giống
cà chua lai của AVRDC (WVCT2 và WVCT8). Nhóm thăm khu thí nghiệm đánh giá
cà chua tại Long An, Lâm Đồng và Hưng Yên. Họ cũng thăm và làm việc tại FAVRI,
tại đây họ được nghe một bài trình bày về đánh giá giống cà chua, đặc biệt là thí
nghiệm đánh giá các giống lai của AVRDC. Tiến sĩ Hanson thảo luận cụ thể về công
việc của mình, và sau đó nhóm thăm các mô hình, thí nghiệm về cà chua tại FAVRI,

8
bao gồm thăm khu sản xuất hạt giống lai và đánh giá giống cà chua. Robert Spooner-
Hart, Phạm Mỹ Linh và cán bộ FAVRI sau đó thăm các chi cục SPPD và nông dân
tham gia FFS tại Hải Phòng và Thái Bình, sau đó thăm SPPD và nông dân tham gia
FFS tại Đà Nẵng và Quảng Nam để xem xét kết quả của dự án cũng như đánh giá
năng lực.

4.3 Lợi ích của các đối tác
Các báo cáo tiến độ trước đưa ra vấn đề nông dân tham gia vào FFS rất quan tâm đến
cách sử dụng cây giống cà chua ghép, bởi vì họ đã thấy những lợi ích từ các mô hình
trình diễn. Tuy nhiên, cà chua ghép không được phổ biến rộng rãi, và một số nông dân
nghĩ rằng giá như vậy là quá cao (850 đồng / cây trồng cho cây giống cà tím-ghép từ
FAVRI và so với 300 đồng / cây cà chua không ghép mua tại địa phương ở đồng bằng
sông Hồng). Phát triển cây giống cà chua ghép các cơ sở đào là vượ

t quá phạm vi của
dự án.

Tuy nhiên, hồ sơ của chúng tôi xin CARD tài trợ cho Dự án Tăng cường CARD với
các kết quả đạt được và kết quả là đơn xin đã được chấp nhận và phần lớn công việc
này bây giờ đang được triển khai thực hiện. Điều này sẽ để lại phía sau cơ sở vật chất
và năng lực để sản xuất cây giống cà chua ghép tại các khu v
ực mà trước đây nó đã
không tồn tại, hoặc sẵn có của cây giống đã được hạn chế.

4.4. Tăng cường năng lực
Trong thời gian báo cáo này, đã tăng cường năng lực cho một số đối tác. Đào tạo kỹ
thuật chọn tạo giống cà chua cho ông Tăng Đức Hùng từ SSC, tại AVRDC trong
tháng 5-6/ 2010 sẽ góp phần cải thiện đáng kể năng lực cho công ty này.

Phạm Mỹ Linh, từ FAVRI, đã được trao bằng tiến sĩ , để hoàn thành luận án, một số
nội dung nghiên cứu có liên quan đến dự án CARD 06/025. Robert Spooner-Hart
cũng đã thảo lu
ận với cán bộ FAVRI trong chuyến thăm và làm việc hồi tháng 2-3, đề
xuất một số ý tưởng phát triển các dự án nghiên cứu ứng dụng, và sẽ tiếp tục hỗ trợ
nhân viên tại FAVRI, nếu có thể. Điều đó là rất tốt vì chúng tôi thấy được sự quan
tâm và đóng góp của các cộng tác viên dự án, đặc biệt FAVRI và SSC, trong đơn xin
Tăng cường kết quả dự án CARD và ứng dụng các kết quả
.

4.5.Các ấn phẩm
Không có ấn phẩm đặc biệt nào liên quan đến dự án này trong kỳ báo cáo.

4.6. Quản lý dự án
Nicetic Oleg từng là một người của Đại học Tây Sydney (UWS) chủ chốt tham gia

trong dự án này, đã rời Đại học Tây Sydney (UWS) từ giữa năm 2009 để tham gia
một dự án ACIAR phối hợp với Đại học Queensland. Trong tháng bảy 2010, ông

9
chấm dứt việc làm của mình tại UWS. Trong suốt thời gian này, ông đã không tham
gia được nhiều trong dự án CARD 025, bởi vì các công việc khác của ông. Robert
Spooner-Hart và Tony Haigh, sau đó, đã chịu trách nhiệm nhiều hơn cho các hoạt
động của dự án. Điều này có nghĩa là phải tăng thêm số lần đến Việt Nam của các cán
bộ dự án phía Úc.

Chúng tôi trước đây đã báo cáo rằng một trong những người quan trọng tham gia dự
án phía Việt Nam, Ph
ạm Mỹ Linh từ FAVRI, đã hoàn thành luận án tiến sĩ của mình,
phần lớn nghiên cứu của mình, TS Phạm Mỹ Linh đã gắn liền với dự án CARD.
Chúng tôi đang vui mừng thông báo rằng học vị tiến sĩ của cô đã được công nhận.

Hiện đã có một khoản kinh phí để tiếp tục dự án. Điều này được thấy rõ khi chúng ta
cùng nhau sử dụng tài trợ từ Dự án Tăng c
ường CARD. Việc trao giải thưởng của quỹ
có nghĩa là các cộng tác viên Việt Nam sẽ làm việc cùng nhau ít nhất cho đến tháng
12 năm 2010. Chúng tôi dự đoán rằng các liên kết giữa UWS, AVRDC, FAVRI,
PVFC và SSC sẽ tiếp tục tốt vượt xa so với kế hoạch.

5. Báo cáo các vấn đề phát sinh
5.1. Môi trường
Không có vấn đề gì quan trọng trong suốt kỳ báo cáo này.
5.2. Vấn đề về giới và xã hội
Kết quả của FFS trong vụ gần đây nhất (Phụ lục 3) cho thấy tổng thể, có nhiều phụ nữ
tham gia đây là điểm rất tốt. Ở hầu hết các FFS, phụ nữ chiếm đa số những người
tham gia, Tại Vĩnh Phúc phụ nữ tham gia với tỷ lệ 100% trong FFS dưa chuột. Tỷ lệ

nữ tham gia tại Đà Nẵng là thấp nhất, 35% trong cả FFS dưa chuột và cà chua.
6. Thực hiện & Các vấn đề về tính bền vững
6.1. Vấn đề và hạn chế
6.2. Tùy chọn
6.3. Tính bền vững
Không có vấn đề khác được xác định cho đến nay, khác với các quy định trên.

7. Kết quả của dự án và hiệu quả đã đạt được
Một bảng tóm tắt tình trạng của các kết quả dự án và Hiệu quả của các biện pháp như
nêu trong Khung Lôgíc dự án được trình bày tại Phụ lục 1. Tất cả các kết quả đầu ra
dự án đã đạt được, được xác định bởi các biện pháp thực hiện.
Như dự kiến và các đầu vào thực tế của Úc (và AVRDC, Đài Loan) nhóm được trình
bày trong Bảng 1. Nhìn chung, đã có số chuyến thăm đến Việt Nam nhiều hơn và một

10
thời gian dài hơn cho hoạt động dự án, cho cả ở Việt Nam và Australia nhiều hơn dự
kiến ban đầu.

Bảng 1. Kế hoạch (hợp đồng) và thực tiễn về nhân sự của nhóm cán bộ dự án Úc
Số ngày ở Việt
Nam

Số ngày ở Uc

Số chuyến thăm
Việt Nam
Nhân sự phía Úc
Kế hoạch Thực
tế
Kế hoạch Thực

tế
Kế hoạch Thực
tế
Robert Spooner-
Hart
UWS 40 72 25 68 7 7
Oleg Nicetic UWS 60 66 75 101 8 10
Dr Tony Haigh UWS 10 21 60 66 2 3
Dr Peter Hanson AVRDC 25 24 20 52 5 4 +1 *
Total 135 173 180 307 22 24 +1*
* Thăm Australia
Do những thay đổi về đội ngũ nhân viên trong các tổ chức hợp tác, đặc biệt là FAVRI,
một số người có tên ban đầu nhưng không tham gia trong suốt thời gian thực hiện dự
án. Tuy nhiên, họ được thay thế bằng người khác, do đó không phải là thiếu nguồn
nhân sự trong các tổ chức của Việt Nam. Trong khi sự hợp tác của HUAF được ít hơn
dự định ban đầu, sự tham gia nhiều hơn của các đố
i tác như SSC bù lại sự thiếu hụt
này. Ngoài ra, Tiến sĩ Vinh, IAS (ban đầu không phải là một người tham gia có tên
trong dự án) tiến hành một cuộc thử nghiệm đánh giá dưa chuột (tại Củ Chi) và đóng
góp cho TOT thứ hai và hội thảo ở Lâm Đồng. Các SPPD tiến hành 36 FFS, vượt 6
FFS so với dự kiến ban đầu của dự án, do đó, đầu vào của họ cho dự án cao hơn tính
toán ban đầu.

8. Tính bền vững của kết quả dự án và hoạt động của các đối
tác.
Các kết quả chính là:
• Xác định được giống lai có triển vọng và cung cấp cho nông dân thông
qua các công ty của Việt Nam
Việc đánh giá giống cà chua và dưa chuột của các đối tác dự án (FAVRI, HUAF,
PVFC, SSC và IAS), và của nông dân với Cục BVTV tại mô hình trình diễn FFS xác

định được các giống cà chua, dưa chuột có năng suất cao, chất lượng tốt, kháng bệnh
hơn các giống hiện đang sử dụng.
Đối với cà chua, những giống lai F1 từ AVRDC đã được xác định cho đồng bằng
sông Hồng, Duyên hải miền Trung và miền Nam Việt Nam (mặc dù khu vực này lúc
đầu không có trong dự án). Hạt giống của những giống này hiện nay có thể sẽ được

11
sản xuất tại Việt Nam. SSC, một đối tác quan trọng, đã được bổ sung 1 khóa đào tạo
về chọn tạo giống và đánh giá nhiều loại giống cà chua tại AVRDC, và đã sản xuất
hạt giống cà chua lai F1 của mình cho các thí nghiệm đánh giá trong 3 vụ. SSC hiện
đang tiến hành thí nghiệm đánh giá cuối cùng với 2 giống để xin đăng ký công nhận
giống tại Bộ Nông nghiệp và PTNT xây dựng 10 mô hình trình diễn cho nông dân và
người mua hạt giống ở miền Bắc Việt Nam, Lâm Đồng và Đồng bằng sông Cửu
Long. Ngoài ra, họ còn chuyển các gen kháng bệnh (đặc biệt là gen kháng bệnh
TYLCV- mục tiêu chủ yếu của CARD 06/025) tham gia vào chương trình tạo giống
cà chua cho Việt Nam. Rõ ràng là từ các hoạt động này mà SSC cam kết sử dụng lâu
dài kết quả của dự án này (cụ thể là cung cấp các giống cà chua tốt) để mang lại hiệu
quả kinh tế cho nông dân. FAVRI cũng sản xuất cà chua lai F1, nhưng có vẻ không
phải là một nhà cung cấp hạt giống cà chua chuyên nghiệp cho nông dân trong tương
lai gần.

Đối với dưa chuột, giống lai F1 từ FAVRI, đặc biệt là CV5, được xác định cho vùng
đồng bằng sông Hồng. FAVRI đ
ã chứng tỏ khả năng của mình để sản xuất các giống
lai F1, và CV5 đã được Bộ NN & PTNT công nhận là giống Quốc Gia. FAVRI đã mở
rộng diện tích sản xuất với giống CV5 và phân phối trực tiếp cho nông dân trong dự
án, và năm ngoái bán được 50 kg hạt giống. Thu nhập từ hạt giống bán được phục vụ
cho chính lợi ích của FAVRI, do đó, nó là động cơ để tiếp tục và mở rộng ho
ạt động
này. Trong khi CV5 thể hiện rõ ưu điểm tại mô hình trình diễn ở duyên hải miền

Trung, nhưng kế hoạch bán giống này cho vùng duyên hải miền Trung chưa được thể
hiện rõ như ở miền bắc Việt Nam.

• Nhân viên PPD được đào tạo tốt hơn trong sản xuất rau an toàn, bao
gồm IPDM, và tăng cường năng lực để thực hiện các mô hình trình diễn và
FFS trong sản xuất rau.

Nhìn chung, đội ngũ nhân viên các chi cục BVTV từ 9 tỉnh-6 tại đồng bằng sông
Hồng, Quảng Nam, Đà Lạt, Lâm Đồng đã tham gia vào dự án này và được đào tạo
thông qua 2 cuộc hội thảo TOT cũng như từ kinh nghiệm của họ với mô hình trình
diễn qua 2 vụ. Tổng cộng có 21 giảng viên từ các tỉnh chi cục BVTV đã trực tiếp
tham gia dự án, với hầu hết các giám đốc của chi cục cũng tham gia ít nhấ
t 1 lần.
Tất cả nhân viên SPPD được khảo sát vào cuối dự án đều công nhận rằng dự án đã
mang lại lợi ích cho địa phương, và sẽ còn tiếp tục các hoạt động sau khi kết thúc dự
án CARD. nhân viên PPD tại một số tỉnh ở đồng bằng sông Hồng và các tỉnh duyên
hải miền Trung đã không tiến hành FFS cho sản xuất cà chua hoặc dưa chuột. Tuy
nhiên, việc tập huấn thông qua đào tạo Tiểu giáo viên (TOT) củ
a dự án và sự hỗ trợ
đặc biệt của FAVRI đã đảm bảo rằng các FFS và các mô hình trình diễn đã được tiến
hành đầy đủ, và đạt được mục tiêu đề ra. Mô hình trình diễn cho thấy (ngoài báo cáo
của họ) họ đã nâng cao được kỹ năng kỹ thuật phù hợp, cũng như kiến thức của họ

12
trong việc quản lý của hai loại cây trồng. Khả năng cải tiến của cả nhân viên SPPD và
nông dân đã được thể hiện bởi chất lượng cao của các mô hình trình diễn FFS vụ thứ
hai.

Tại Đà Nẵng, cán bộ SPPD đặc biệt quan tâm đến việc thảo luận mở rộng các kết quả
của dự án (bao gồm cả đào tạo thêm) thông qua một đề xuất dự án lớn ($ US4.5 M)

về sản xuất rau an toàn trong nhà kính và ngoài đồng, tài trợ của Ngân hàng Phát triển
Châu Á. Đó cũng được xem là một ví dụ tổng quát hơn của tính bền vững của kết quả
dự án là SPPD tham gia vào sự phát triển của cây giống cà chua ghép trong tỉnh đồng
bằng sông Hồng và duyên hải miền Trung. Ngoài raTOT và bổ sung FFS, để đưa
công nghệ đến một các địa phương. Những hoạt động này đang được tài trợ từ dự án
CARD Tă
ng cường và chủ động kết quả đầu ra. Sáng kiến này, cùng với sự sẵn lòng
của nhân viên SPPD và nông dân góp phần đảm bảo tốt tính bền vững của những kết
quả đầu ra của dự án.

• Nông dân được tập huấn lưu giữ các ghi chép trong sản xuất cà chua và
dưa chuột an toàn.

Tổng cộng có 860 người tham gia nông dân tham dự FFS trong dự án, và 36 FFS (16
dưa chuột và 20 cà chua) đã được tiến hành. Hầu hết những người nông dân được điều
tra đều cho thấy lợi ích của dự án đối với sản xuất của họ, bao gồm cả sản xuất cà
chua và dưa chuột an toàn và lưu giữ lại các ghi chép. Tất cả chương trình đào tạo
FFS và mô hình trình diễn được sử dụng thực hành kế
t hợp IPDM để sản xuất an toàn,
bao gồm các giống kháng bệnh, công nghệ ghép cà chua (ít nhất là trong vụ thứ hai),
sử dụng các PSO và thuốc trừ sâu phòng trừ tổng hợp khác phù hợp, sử dụng an toàn,
xử lý, lưu trữ các thuốc trừ sâu, và xử lý chất thải thuốc trừ sâu. Ngoài ra, tất cả các
bài giảng của FFS bao gồm đào tạo dịch hại trên cà chua và / hoặc dưa chuột. Nhận
dạng chính xác triệu chứng củ
a sâu bệnh là bước quan trọng đầu tiên trong bảo vệ
hiệu quả và an toàn cho cây trồng.

Tại các tỉnh được khảo sát, nông dân cho biết họ đã tăng kiến thức và kỹ năng trong
các lĩnh vực sau: chọn giống tốt để sản xuất, sử dụng cây giống cà chua tốt để giảm
thiệt hại, phát hiện kịp thời và chính xác các loài côn trùng gây hại quan trọng và bệnh

hại. Tăng cường năng lự
c lựa chọn thuốc trừ sâu, bệnh tốt nhất để phòng trừ sâu bệnh
chính, lưu giữ hồ sơ về hoạt động sản xuất và đó là một phần của GAP. Một số khía
cạnh khác mà không được coi là không tăng hoặc tăng ít đã được xác định là công
nghệ quản lý cây trồng. Điều này đặc biệt đúng đối với sản xuất cà chua, chẳng hạn
như c
ắt tỉa, và do phối hợp với nhân viên SPPD, họ ít có kinh nghiệm trong sản xuất
cà chua. Mặc dù, tất cả nông dân được khảo sát báo cáo rằn năng suất tăng do việc áp
dụng các công nghệ thông qua đào tào FFS trong sản xuất của riêng họ, và các mô
hình trình diễn cho thấy năng suất trung bình cà chua tăng 43-50% hơn so với ruộng
sản xuất của "nông dân". Sự khác biệt này thể hiện rõ ràng nhất trong mùa mưa hay

13
trái vụ, và tăng hơn nữa nếu sử dụng cà chua ghép hoặc dầu khoáng PSO thay vì sử
dụng thuốc trừ sâu tổng hợp. Trong dưa chuột, sự khác biệt ít rõ ràng, nhưng áp dụng
thực hành tốt nhất cũng làm tăng 20-30% năng suất, và với việc giảm số lượng thuốc
trừ sâu sử dụng. Vì vậy, dự án đã thể hiện hiệu quả kinh tế bền vững thông qua các
k
ết quả mà nông dân thu được.

Trong khi sổ tay hướng dẫn thực hành nông nghiệp tốt (GAP) được xây dựng, nông
dân đã lưu giữ các ghi về tình hình sản xuất, đây được coi như là một kết quả của dự
án, tài liệu không được sử dụng trực tiếp giảng dạy cũng như các hình thức sử dụng
cho các hồ sơ lưu giữ. Trong khi nhiều nông dân đã được hướng dẫn để l
ưu giữ ghi
chép trong FFS, đa số nông dân chúng tôi khảo sát vẫn không giữ hồ sơ đầy đủ, phù
hợp với yêu cầu VIETGAP. Có khả năng là một số nông dân trong dự án này, đặc biệt
là ở Đà Nẵng, Quảng Nam và một số huyện ở đồng bằng sông Hồng bán sản phẩm
trực tiếp tại các thị trường địa phương và sẽ không có được chứng nhận GAP hoặc
chứng nhận rau an toàn, ít nh

ất là trong tương lai. Nông dân ở Lâm Đồng nói chung
đều lưu giữ hồ sơ, nhưng những dữ liệu chủ yếu được sản xuất, bán hàng, và đôi khi
mua đầu vào-nhưng chưa đạt được mức độ cần thiết của VIETGAP.

Ngoài ra, SSC đã sửa đổi các tài liệu quảng cáo như kỹ thuật sản xuất cà chua và dưa
chuột, để làm cho chúng thêm phù hợp với IPDM. Những sửa đổi này dựa trên hoạ
t
động của CARD 06/025. Sáng kiến này cũng sẽ hỗ trợ cho tính bền vững của nông
dân thông qua các thực hành sản xuất an toàn cho các loại cây trồng.

• Cải thiện sự tiếp thu các nguyên tắc của IPDM và sản xuất rau an toàn
hơn, trong khi đồng thời gia tăng lợi nhuận cho nông dân.

Vấn đề này đã được thảo luận chủ yếu theo quan điểm trước đó. Hai khía cạnh quan
trọng mà rất nhiều tác động đến tính bền vững của kết quả này là sự sẵn có của hạt
giống của các giống xác định, giống rau cao cấp và sẵn có của cây giống cà chua
ghép. Như thảo luận trước đó, hạt giống của giống đăng ký ngay bây giờ CV5 dưa
chuột đang được sản xuất và phân phối trên toàn vùng đồng bằng sông Hồng, và SSC
hiện đang hoàn tất đăng ký của giống cà chua cao, và các trang trình diễn trên khắp
Việt Nam. Như đã nói, đã có trung bình 43-50% sản lượng cao hơn trong cà chua hơn
tương tự "nông dân" thực hành "khối, và trong một số trường hợp, nó có nghĩa là sự
khác biệt giữa thu hoạch một vụ mùa và mất mùa. Sự khác biệt này là rõ ràng nhất
trong off (mưa) mùa giải, và hơn hiệ
u số bất kỳ chi phí đầu vào gia tăng, như cây
giống cà chua ghép hoặc PSO thay vì thuốc trừ sâu tổng hợp. Với dưa chuột, sự khác
biệt là ít rõ ràng, nhưng mô hình tình diễn, năng suất đã tăng 20-30%, và với số lượng
giảm của các ứng dụng thuốc trừ sâu. Những dữ liệu này cho thấy nông dân áp dụng
các kết quả đầu ra của dự án sẽ tăng hiệu quả kinh tế cho sản xu
ất của họ. Điều này
được xác nhận bởi các cuộc điều tra nông dân ở cuối của dự án, thực hiện trong bốn

tỉnh, trong đó tất cả các nông dân đều nói rằng lợi nhuận tăng lên.

14

• Xây dựng năng lực cho các đối tác trong dự án


Bốn tổ chức chính của Việt Nam thực hiện dự án: FAVRI, PVFC, PPD và SSC đã
được hỏi về lợi ích thu được từ sự tham gia của họ trong dự án. HUAF là không có,
bởi vì họ không có sự tham gia sau khi các thử nghiệm khác nhau đánh giá ban đầu.

FAVRI

FAVRI báo cáo những lợi ích lớn về tăng cường năng lực cho họ là:
9 Bằng văn bản, báo cáo của họ và các kỹ năng tiếng Anh được cải thiện bởi vì
họ đã được trực tiếp làm việc với các nhóm cán bộ dự án của Úc.
9 Tăng cường mối quan hệ của họ với các chi cục BVTV ở nhiều tỉnh (không
chỉ ở đồng bằ
ng sông Hồng mà còn ở những nơi khác) và tăng cơ hội gặp gỡ
làm việc, trao đổi của họ với "nông dân nghèo".
9 Các nhà chọn giống ở FAVRI đã có thể làm việc cởi mở với một chuyên gia
tạo giống cà chua, Tiến sĩ Peter Hanson, và qua đó họ được nâng cao kỹ năng
9 FAVRI nhận được dòng bố mẹ cà chua, phục vụ cho sản xuất giống cà chua
lai để cung cấp cho nông dân Việt Nam.

Đối với hoạt động trên-đi từ dự án, FAVRI đề gnhij cung cấp các vật liệu
ghép, đào tạo cán bộ BVTV và nông dân.
PVFC:
PVFC báo cáo những lợi ích lớn cho họ, về xây dựng năng lực, đó là:
9 Phát triển của những hiểu biết mới vào sản xuất rau quả theo GAP

9 Khả năng cung cấp giống cà chua mới chống bệnh bằng cách giới thiệu giống
lai F1 mới và vật liệu phục vụ công tác chọn tạo giống.
9 Hợp tác tốt và tăng cường hiểu biết giữa các nhà khoa học t
ừ Đại học Tây
Sydney và tại Việt Nam sẽ dẫn đến nghiên cứu nông nghiệp lâu dài và hợp tác
phát triển
9 Dự án đã giúp trong một số cách để xác tiến sự phát triển VIETGAP trong
tỉnh, và trong Viện.

Đối với hoạt động trên-đi từ dự án, PVFC nhận xét họ đã được mở rộng diện
tích trồng cà chua lai F1 mới cho tỉnh Lâm Đồng và mở rộng công việc của họ
về th
ực hành IPM.
PPD

PPD báo cáo những lợi ích lớn cho họ, về xây dựng năng lực, đó là:

15
9 Nhân viên các chi cục BVTV được cải thiện kỹ năng kỹ thuật của họ liên quan
đến công nghệ ghép cà chua, hệ sinh thái nông nghiệp của lĩnh vực cà chua
ghép; thay thế cho thuốc trừ sâu hóa học
9 Cải thiện kỹ năng cho cán bộ PPSD, tạo điều kiện cho nông dân ở FFS và
cũng là tạo điều kiện cho nông dân tham gia theo dõi hoạt động FFSs
9 PPSD nhân viên đã có thể chia sẻ kinh nghiệm của họ thông qua các h
ội thảo
quốc gia hàng năm được dự án tổ chức

Đối với hoạt động trên, họ đã báo cáo rằng nông dân, sau khi hoàn thành FFS,
đã được tiếp tục làm việc trong nhóm của mình để chia sẻ kinh nghiệm và thực
hiện các thí nghiệm để hiểu được vấn đề và xác định các giải pháp để cải thiện

các vấn đề với cà chua và cây dưa chuột. Đặc biệt, nhiều nông dân muốn trồng
cà chua ghép, họ đ
ã yêu cầu Viện nghiên cứu cung cấp cho họ, và các SPPD
đã hỗ trợ họ thông qua đào tạo.
SSC

SSC báo cáo những lợi ích lớn cho họ, về xây dựng năng lực, đó là:
9 Thu thập được nguồn giống cây cà chua, và đào tạo từ AVRDC
9 Tăng hiểu biết về GAP (VIETGAP, GLOBALG.AP)
9 Được nhận thức rõ hơn công nghệ hiện đại (từ chuyến thăm nghiên cứu
Australia) bao gồm cả trồng trọt, sản xuất cây giống rau, và sản xuất giống, xử
lý sau thu hoạch và phân phối.

Đố
i với công việc đang diễn ra từ dự án này họ đã báo cáo: đào tạo giống cà
chua tại AVRDC - Đài Loan, và các mô hình giống cà chua mới, đăng ký công
nhận giống mới tại Bộ NN & PTNT và phân phối hạt giống cho nông dân. Họ
cũng xác định cơ hội để kết hợp các gen kháng bệnh có được thông qua lai tạo
trong dự án này đối với cà chua cũng như trong các chương trình chọn tạo
giống khác.

9. Thực tế và có khả năng tác động của kết quả dự án về
mục tiêu hưởng lợi

Ngoài các ý kiến được thực hiện ở trên, đối tượng hưởng lợi từ chương trình này là:



3 tổ chức chính tham gia dự án, cụ thể là FAVRI, PVFC và SSC.
Những lợi ích bao gồm

o Tăng cường năng lực để thực hiện các công việc trong tương lai
o Tăng cường công nhận và hồ sơ, đặc biệt tại Việt Nam
o Cơ hội về thu nhập
- FAVRI có thể bán dưa chuột có khả năng kháng bệnh cao, (và có thể

16
cà chua) hạt giống và cây giống ghép
- PVFC bán giống cà chua kháng nhiều bệnh
- SSC bán hạt giống cà chua lai kháng bệnh


Các chi cục Bảo vệ thực vật (SPPD) của Bộ NN & PTNT tại 9 tỉnh
(Hà
Nội, Thái Bình, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hà Nam, Quảng Nam, Đà
Nẵng, Lâm Đồng)
o Tăng cường năng lực để thực hiện công việc với cà chua và dưa chuột.
o Cải thiện mối quan hệ với các tổ chức nghiên cứu của Việt Nam (đặc biệt là
FAVRI)
o Cơ hội tăng thu nhập từ sản xuất và bán cây giống cà chua ghép


Nông dân sản xuất cà chua và dưa chuột ở
đồng bằng sông Hồng, Trung Bộ
và Lâm Đồng. Sản xuất cà chua ở đồng bằng sông Hồng (RRD) và các tỉnh
duyên hải Trung Bộ (Đà Nẵng, Quảng Nam): giúp cho nông dân thu nhập cao
hơn nhiều so với hầu hết các cây trồng khác (5 lần so với lúa). Tuy nhiên, các
khu vực này thường có thể mất mùa do lũ lụt, ngập úng, bệnh nghiêm trọng,
chẳng hạn như héo vi khuẩn.

Nông dân, cả nhữ

ng người có mặt tại các FFS và những người khác không
được tham gia trong dự án này, sẽ có được tác động tích cực từ các kết quả dự
án. Ví dụ, nông dân cà chua ở miền Nam Việt Nam (ví dụ như đồng bằng sông
Cửu Long) có được hưởng lợi ích mặc dù dự án đã nhắm mục tiêu vào khu
vực này.


Thứ nhất,
hạt giống mới của cà chua và dưa chuột (sản xuất tại Việt Nam) sẽ
tr
ở nên phổ biến rộng rãi trên khắp Việt Nam, không chỉ ở các địa phương nơi
tiến hành FFS. Những giống này đã được thể hiện qua các thí nghiệm đánh giá
giống và mô hình trình diễn. Họ cho rằng, những giống này cho năng suất cao
hơn các giống người nông dân hiện nay, và có có khả năng kháng một số bệnh
(TYLCV đối với cà chua, và sương mai, phấn trắng đối với dưa chuột).

Thứ hai,
s
ẽ được tăng cơ hội tiếp cân với các cây giống cà chua ghép tại các
địa phương nơi mà trước đây họ chưa có hoặc có rất hạn chế. Một trong những
khó khăn chính gặp phải trong vụ đầu tiên của FFS là thời gian cung cấp kịp
thời các cây con khỏe mạnh ghép. Trong một số trường hợp, cây giống đã
được gửi đi từ Hà Nội đến Quảng Nam hoặc Đà Nẵ
ng, và đến trong tình trạng
kém. Nông dân quan tâm đến công nghệ ghép, như là kết quả của dự án, bây
giờ sẽ được tạo điều kiện dễ dàng hơn. sản xuất cây giống cà chua ghép tại địa
phương nên chất lượng cao hơn và chi phí thấp hơn.

Thứ ba,
nông dân được đào tạo tốt hơn kỹ thuật sản xuất cà chua nói chung

và dưa chuột, bao gồm xác định các dịch hại quan trọng, lự
a chọn và sử dụng
thuốc trừ sâu an toàn theo IPDM. Điều này sẽ tăng thêm năng suất cây trồng
cho nông dân cũng là tăng thu nhập cho họ. Nó cũng là kết của việc áp dụng
các kết quả đầu ra của dự án như sử dụng giống chống bệnh và cây giống
ghép, giảm sử dụng thuốc trừ sâu. Kết quả này đã đạt được tại các mô hình
trình diễn, nhưng còn quá sớm để
xác định xem điều có thể thu được ở ruộng
của nông dân.

Thứ tư,
nông dân đã được giới thiệu để lưu giữ các ghi chép, đó là một phần
của GAP. Trong khi cấp giấy chứng nhận GAP cho nhiều nông dân trong dự

17
án này là không chắc trong tương lai gần, người nông dân được khảo sát, cũng
như phản hồi từ các giảng viên FFS chỉ ra rằng người nông dân thấy lợi ích
của một số ghi chép lưu giữ (ngay cả khi chỉ bán hàng của cây trồng và sử
dụng đầu vào và chi phí) sẽ hỗ trợ họ trong tương lai kế hoạch tốt hơn các hoạt
động trồng trọt.

10. Tính bền vững và lợi ích của dự án

Những vấn đề của cả tính bền vững và lợi ích của dự án đã được thảo luận trước đó
tại mục 8 và 9. Tóm lại, có khả năng ảnh hưởng lâu dài từ dự án này vì
• Giống cà chua mới có khả năng kháng bệnh cao và dưa chuột (hạt giống) là một
trong hai hiện đang có sẵn hoặc sẽ sẵn sàng được cung cấp cho nông dân Việt Nam,
thông qua các tổ chức như (SSC và FAVRI).
• Hai tổ
chức nói trên đã tăng năng lực từ các hoạt động của dự án. Điều này là kết

quả không chỉ của các giống tốt hiện nay, mà còn góp phần phát triển tạo giống mới
hơn trong chương trình tạo giống mới.
• Các giống cà chua và dưa chuột mới có sẵn tại Việt Nam (đặc biệt là cà chua), sẽ
đem lại lợi nhuận nhiều cho nông dân tham gia lớp huấn luyện FFS của dự
án
• Nông dân sẽ được tiếp cận nhiều hơn đến cây giống cà chua ghép tại đồng bằng
sông Hồng và Trung Bộ, như là một kết quả trực tiếp của dự án và các hoạt động
liên quan của Dự án Tăng cường kết quả hoạt động và chủ động của chương trình
CARD. Hơn thế nữa, điều này cũng đem lại lợi ích cho nông dân ở bên ngoài các
hoạt động dự
án. Hoạt động này nên được bền vững, vì nó cung cấp cho các SPPD
và nông dân một cơ hội phát triển nguồn thu nhập mới.
• Lợi ích hữu hình về kinh tế do sản lượng tăng lên, giảm nguy cơ mất mùa, và trong
một số trường hợp, giảm chi phí đầu vào, kết quả từ thực hiện các kết quả đầu ra dự
án và kết quả sẽ là động lực chính của sự bền vững đối v
ới nông dân.

11. Hoàn thành các hoạt động
Bảng tóm tắt về tình trạng của hoạt động dự án, như đã nêu trong Khung Lôgíc dự án,
được trình bày ở Phụ lục 2. Mọi hoạt động, được nêu trong thuyết minh dự án đã được
hoàn thành. Tuy nhiên, có một số yếu tố đó ảnh hưởng về thời gian của các hoạt động,
hoặc trì hoãn các hoạt động. Chúng bao gồm:
• Cái chết đột ngột của con gái của Robert Spooner-Hart, giám đốc dự án phía Úc, vào
giữa năm 2007.
• Mưa lớn, lũ lụt, ngập úng, và bệnh tật (đặc biệt là sương mai). Điều này dẫn đến
chấm dứt một loạt các thử nghiệm đánh giá tại miền trung (HUAF), và chấm dứt một
thí nghiệm và ảnh hưởng nghiêm trọng với thí nghiệm vụ thứ hai tại Lâm Đồng. Rất
may, số liệu đầy đủ được lấy từ các thí nghiệm đánh giá khác hoặc trong các mùa
khác phục v
ụ cho việc đánh giá hiệu quả của giống.

• Lũ lụt ở đồng bằng sông Hồng và Trung bộ cũng bị ảnh hưởng đến một số FFS. Ba
FFS (Hưng Yên, Quảng Nam và Đà Nẵng) đã bị trì hoãn ở vụ thứ hai, và được hoàn

18
thành vào cuối tháng 6, muộn hơn so với dự kiến ban đầu.

12. Chất lượng của những thành tựu hoạt động
Rất khó để đánh giá chất lượng của những thành tựu hoạt động. Nhìn lại, một số vấn
đề có thể đã được xử lý khác nhau, và có thể có ảnh hưởng trên các kết quả dự án.
Thứ nhất, sự tham gia của HUAF trong dự án, như là tổ chức nghiên cứu tại vùng
duyên hải miền Trung, là một vấn đề mà nhóm dự án đã thảo luận trước khi bắt đầu
dự án. Trong khi HUAF cung c
ấp nhiều số liệu đánh giá hữu ích, sự tham gia của các
sinh viên trong hoạt động dự án đã không như kế hoạch. Chỉ có sự tham gia của
Nguyễn Văn Quý của HUAF trong hoạt động dự án tiếp theo là trong chuyến tham
quan học tập tại Úc. Mối quan hệ giữa FAVRI và SPPD tại Đà Nẵng, Quảng Nam đã
dễ dàng và hiệu quả hơn, nhưng điều này bản thân nó cũng xuất hiện mộ
t số vấn đề,
vì khoảng cách giữa các tổ chức này.
Thứ hai, các quyết định về cây giống cà chua ghép như một công nghệ trong dự án
hóa ra lại là một công nghệ rất tốt, mặc dù lúc đầu nó chỉ là một thành phần nhỏ.
Ghép cà chua là một trong những thành công của mô hình trình diễn FFS, và cây
giống ghép tương đối rẻ và khỏe mạnh đã được xác định bởi người nông dân ở hầu
hết các FFS. Tuy nhiên, công tác vận chuy
ển cây giống từ FAVRI cung cấp cho FFS
tại vùng duyên hải miền Trung tỏ ra rất khó khăn, cây xấu và kém chất lượng trong vụ
đầu tiên ảnh hưởng không tốt đến các mô hình trình diễn, SPPD và lợi ích người
trồng cà chua. Ngoài ra, cà chua ghép lên gốc ghép cà tím không được phù hợp như ở
đồng bằng sông Hồng. Trong vụ thứ hai, ông Phong một nhà cung cấp cây giống ghép
chuyên nghiệp từ Lâm Đồng đã cung cấp cây con cho FFS, ghép lên gốc cà chua

kháng bệnh. Các cây con đến kịp thời và khỏe mạnh, và chứ
ng tỏ ưu thế của chúng so
với cà chua không ghép trong các mô hình trình diễn.
Thứ ba, số lượng nhân viên của SPPD tham gia hộithảo đào tạo tiểu giáo viên (TOT)
đủ để tiến hành FFS và các mô hình trình diễn, một số người trong số họ đã có sự
tham gia ít hoặc không có với dưa chuột hoặc sản xuất cà chua. Do vậy mà họ rất
thành thạo trong việc phát hiện và phòng trừ sâu bệnh, IPM và GAP (đến mức độ nào
đó) nhưng họ không quen vớ
i các công nghệ sản xuất như cắt tỉa hoặc ghép. Điều này
có lẽ là một trong những vấn đề cần rút kinh nghiệm trong đào tạo TOT. Nhóm
nghiên cứu dự án hỗ trợ các giảng viên và thảo luận các vấn đề với họ, chẳng hạn như
kỹ thuật cắt tỉa cà chua và ngăn ngừa sự phát triển mầm của gốc ghép. Nó đã được rõ
ràng ở vụ thứ hai, các gi
ảng viên đã có nhiều kiến thức hơn với những kỹ thuật này.
Tuy nhiên tổng thể, các vấn đề đưa ra ở trên là có và khi được phát hiện, những vấn
đề đó đã được khắc phục hoặc giảm thiểu tác động của chúng. Do đó, chúng không
ảnh hưởng đáng kể đến thành tích của các kết quả hoặc kết quả đầu ra của dự án.

×