Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 67 trang )

Chương nhập môn
ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP LỊCH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA MÔN HỌC LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Đối tượng nghiên cứu của môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là quá trình ra đời,
phát triển và hoạt động lãnh đạo của Đảng qua các thời kỳ lịch sử. Trong đó tập trung vào các
nội dung sau:
Một là, nghiên cứu hệ thống các sự kiện lịch sử Đảng, bao gồm quá trình Đảng ra đời,
phát triển và lãnh đạo cách mạng, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội
chủ nghĩa, những sự kiện lịch sử này được thể hiện qua Cương lĩnh, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng.
Hai là, nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo, tổ chức quần chúng tiến hành các cao trào
cách mạng rộng lớn như: cao trào 1930-1931, cao trào 1936-1939 và cao trào giải phóng dân tộc
1939-1945; Đảng lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975); lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bảo
vệ Tổ quốc và thực hiện công cuộc đổi mới đất nước (1975-2019).
Ba là, làm rõ những thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Đảng trong sự nghiệp lãnh đạo
đấu tranh giành độc lập dân tộc, kháng chiến giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc và trong
công cuộc đổi mới xây dựng đất nước. Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, Đảng đã rút ra những
bài học kinh nghiệm sâu sắc trong công tác lãnh đạo: Phải nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; phát huy sức mạnh của toàn dân trong chiến tranh cách mạng; khơng ngừng
củng cố, tăng cường khối đồn kết trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta; kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế để chiến thắng kẻ thù;
và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Bốn là, làm rõ hệ thống tổ chức đảng, công tác xây dựng Đảng qua các thời kỳ lịch sử về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Trong đó, về chính trị bảo đảm tính đúng đắn của đường
lối, củng cố chính trị nội bộ và nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng; về tư tưởng “Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.


Xây dựng Đảng về tổ chức: củng cố, phát triển hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Đảng, tuân thủ các nguyên tắc tổ chức cơ bản” [2]. Xây dựng những chuẩn mực về đạo đức
trong Đảng và ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên.
II. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA MÔN HỌC LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
1. Chức năng của khoa học Lịch sử Đảng
Chức năng nhận thức:
Nghiên cứu và học tập môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam giúp người học nhận
thức đầy đủ, có hệ thống tri thức lịch sử Đảng, kể từ khi Đảng ra đời, đấu tranh cách mạng và
Đảng cầm quyền. Nhận thức đúng bản chất, quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, với tư
1


cách là một Đảng chính trị, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nòng cốt, dưới sự tổ chức và lãnh đạo
của giai cấp công nhân.
Chức năng giáo dục:
Môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam có chức năng giáo dục tư tưởng chính trị sâu
sắc, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức, niềm tự hào, tự tôn, ý chí tự lực, tự cường dân tộc. Tinh
thần đó hình thành trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc và phát triển đến đỉnh cao ở
thời kỳ Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Giáo dục lý tưởng cách mạng với mục
tiêu chiến lược là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nâng cao nhận thức về con đường phát
triển của cách mạng Việt Nam. Giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần chiến đấu bất
khuất, đức hy sinh, tính tiên phong gương mẫu của các tổ chức đảng, những chiến sĩ cộng sản
tiêu biểu trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển đất nước.
Ngồi hai chức năng trên, khoa học lịch sử Đảng cịn có chức năng dự báo và phê phán.
Từ việc nắm được diễn biến lịch sử sẽ hiểu rõ được hiện tại và dự báo tương lai của sự phát
triển.
2. Nhiệm vụ của khoa học Lịch sử Đảng
Khoa học Lịch sử Đảng có nhiệm vụ hàng đầu là khẳng định, chứng minh giá trị khoa

học và hiện thực của những mục tiêu chiến lược và sách lược mà Đảng đề ra trong Cương lĩnh,
đường lối từ khi Đảng ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng.
Tái hiện tiến trình lịch sử lãnh đạo, đấu tranh của Đảng: Từ hiện thực lịch sử, các nguồn
tư liệu, khoa học Lịch sử Đảng có nhiệm vụ làm rõ những sự kiện lịch sử nổi bật qua các thời
kỳ, giai đoạn và dấu mốc phát triển căn bản của Đảng.
Tổng kết lịch sử của Đảng: Môn học tổng kết từng chặng đường và trong suốt tiến trình
lịch sử, làm rõ kinh nghiệm, bài học, quy luật và những vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam.
Làm rõ vai trò, sức chiến đấu của hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở trong
lãnh đạo, tổ chức thực tiễn. Những truyền thống nổi bật của Đảng.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP MÔN HỌC LỊCH SỬ ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Phương pháp luận
Phương pháp luận của khoa học Lịch sử Đảng thuộc phương pháp luận khoa học lịch sử,
được xây dựng dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, chỉ lối cho sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc. Do đó, nghiên cứu, nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa
quan trọng để hiểu rõ lịch sử Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh và tư duy, phong cách khoa học của
Người là cơ sở và định hướng về phương pháp nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, không ngừng sáng tạo, chống chủ nghĩa giáo điều, chủ quan duy ý chí.
2. Các phương pháp cụ thể
Phương pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu các sự kiện trong bối cảnh lịch sử nhất
định, theo trình tự thời gian phát sinh, phát triển và kết thúc của nó, làm rõ những nét đặc biệt
của sự kiện, phân biệt sự kiện này với sự kiện khác. Phương pháp này đi sâu vào nghiên cứu để
tìm ra cái đặc thù, cái cá biệt trong cái phổ biến, thấy được bước quanh co, có khi thụt lùi tạm
2


thời của quá trình lịch sử. Phương pháp lịch sử đòi hỏi nghiên cứu thấu đáo mọi chi tiết lịch sử
để hiểu vai trị, tâm lý, tình cảm của quần chúng, từ tổng thể đến cụ thể, chú trọng về không

gian, thời gian, tên đất, tên người để tái hiện lịch sử đúng như nó đã diễn ra, từ đó lý giải được
tính sáng tạo cách mạng trong đường lối, chủ trương của Đảng. Vì vậy, cần phải quán triệt quan
điểm lịch sử cụ thể khi nghiên cứu lịch sử Đảng.
Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình thức
tổng qt, nhằm mục đích vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng chung của sự vận động và
phát triển của sự vật hiện tượng, từ đó khái quát thành lý luận. Phương pháp logic đi sâu tìm
hiểu cái bản chất, cái phổ biến, cái lặp lại của các hiện tượng, các sự kiện, phân tích, so sánh,
tổng hợp với tư duy khái quát để tìm ra bản chất các sự kiện, hiện tượng.
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic có quan hệ mật thiết với nhau và đó là sự
thống nhất của phương pháp biện chứng mác xít trong nghiên cứu và nhận thức lịch sử. Các
phương pháp đó khơng tách rời mà ln ln gắn với ngun tắc tính khoa học và tính đảng
trong khoa học lịch sử và trong chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngoài ra, trong nghiên cứu và học tập môn Lịch sử Đảng cần đảm bảo một số phương
pháp khác như: Phương pháp tổng kết thực tiễn, phương pháp so sánh, thống kê, đối chiếu, phân
tích, phương pháp vận dụng lý luận vào thực tiễn. Trong đó khi vận dụng lý luận vào thực tiễn
địi hỏi nắm vững lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, bao gồm triết học, kinh tế chính trị,
chủ nghĩa xã hội khoa học, nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, ln nghiên cứu lý luận với thực
tiễn Việt Nam để nhận thức đúng đắn bản chất của mỗi hiện tượng, sự kiện của lịch sử lãnh đạo,
đấu tranh của Đảng.
Như vậy, mục tiêu của nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là
nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về Đảng, đội quân tiên phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam
đi đến thắng lợi cuối cùng của cách mạng Việt Nam, khẳng định vị trí, vai trị của Đảng Cộng
sản đối với cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa to lớn của đường lối cách mạng trong tiến trình
phát triển của lịch sử dân tộc.

CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Nêu các phương pháp nghiên cứu môn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 2. Tại sao khi nghiên cứu LSĐ cần phải nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh?
Câu 3: Khái quát đối tượng, chức năng, nhiệm vụ của khoa học lịch sử Đảng.


Chương 1
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO
ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945)
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU
TIÊN CỦA ĐẢNG (2-1930)
1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Tình hình thế giới những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
3


Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Chủ nghĩa đế quốc tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược, biến các dân tộc
nhỏ yếu thành thuộc địa của chúng. Sự áp bức và thơn tính của chủ nghĩa đế quốc càng tăng,
mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và thực dân đế quốc ngày càng gay gắt. Phong trào đấu
tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa trở thành vấn đề mang tính thời đại. Điều này đã
tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước Việt Nam.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành cơng đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế
giới và tác động mạnh mẽ đến phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Điều đó làm
cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa liên hệ chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu tranh cùng chống kẻ thù chung.
Tháng 3-1919, Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản được thành lập, trở thành bộ tham mưu chiến
đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế giới. Quốc tế Cộng sản không những vạch
ra phương hướng chiến lược cho cách mạng vơ sản, mà cịn giúp đỡ, thúc đẩy phong trào giải
phóng dân tộc thuộc địa phát triển. Năm 1920, tại Đại hội II của Quốc tế Cộng sản, Luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin được thông qua, với khẩu hiệu: Vô sản tất cả các nước
và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại. Luận cương đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng
các dân tộc bị áp bức. Tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam.
b. Tình hình trong nước
Là một nước phong kiến lạc hậu có vị trí địa chính trị quan trọng của châu Á, Việt Nam là
một trong những mục tiêu xâm lược của thực dân Pháp. Đêm ngày 31-8, rạng ngày 1-9-1858,

thực dân Pháp chính thức nổ súng đánh chiếm Việt Nam bằng cuộc tấn công vào bán đảo Sơn
Trà - Đà Nẵng. Trước sức ép của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn từng bước khuất phục và
đầu hàng. Ngày 6-6-1884, nhà Nguyễn ký kết với Pháp Hiệp ước Partơnốt, thừa nhận sự thống
trị của thực dân Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
Sau khi hồn thành cơng cuộc xâm lược và bình định vũ trang, thực dân Pháp tiến hành
các cuộc khai thác thuộc địa. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam biến
chuyển trên tất cả mọi lĩnh vực:
Về chính trị, Pháp thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề. Mọi quyền
hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, vua quan Nam triều trở thành bù
nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố các cuộc
đấu tranh của nhân dân Việt Nam, thi hành triệt để chính sách chia để trị. Xã hội Việt Nam từ xã
hội phong kiến độc lập trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Về kinh tế, thực dân Pháp đã tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa với quy mô lớn (lần
thứ nhất từ 1897-1914, lần hai từ 1919-1929). Âm mưu của Pháp là nhằm biến Việt Nam và
Đông Dương thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của “chính quốc”, nơi vơ vét tài nguyên, bóc lột
sức lao động rẻ mạt của người bản xứ.
Về văn hóa - xã hội, thực dân Pháp thực hiện triệt để chính sách văn hóa nơ dịch, “ngu
dân” để dễ cai trị, gây tâm lý tự ti vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi
phong bại tục, mở nhà tù nhiều hơn trường học; cấm đoán mọi hoạt động yêu nước của nhân
dân; bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam.
Dưới áp bức của thực dân Pháp, các giai cấp cũ phân hóa, giai cấp, tầng lớp mới xuất hiện với
địa vị kinh tế khác nhau, và do đó cũng có thái độ chính trị khác nhau đối với vận mệnh của dân tộc.
4


Giai cấp địa chủ phong kiến là giai cấp tồn tại từ rất lâu trong xã hội Việt Nam. Giai cấp
địa chủ bị phân hóa thành ba bộ phận: tiểu, trung và đại địa chủ. Một bộ phận địa chủ câu kết với
thực dân Pháp và làm tay sai cho Pháp, bộ phận còn lại nêu cao tư tưởng dân tộc khởi xướng và
lãnh đạo các phong trào chống Pháp.
Giai cấp nông dân chiếm số lượng đông đảo nhất, khoảng hơn 90% dân số. Đồng thời là

một giai cấp bị phong kiến, thực dân bóc lột nặng nề nhất. Vì thế, đây là lực lượng có tinh thần
đấu tranh kiên cường bất khuất và khao khát giành lại độc lập và ruộng đất nên khi được tổ chức
lại và có lực lượng tiên phong lãnh đạo sẽ phát huy vai trị quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh
vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.
Giai cấp công nhân được hình thành vào khoảng cuối thế kỷ XIX, gắn với các cuộc khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp. Giai cấp công nhân Việt Nam khi mới ra đời chỉ chiếm
khoảng 1% dân số, sống tập trung tại các thành phố, các trung tâm công nghiệp và các đồn điền.
Mặc dù ra đời muộn, số lượng ít, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam mang đầy đủ những đặc
điểm của giai cấp công nhân quốc tế như: đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý
thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách mạng triệt để, mang bản chất quốc tế, giai cấp công
nhân Việt Nam cịn có những đặc điểm riêng: phải chịu ba tầng áp bức bóc lột, phần lớn xuất
thân từ nông dân, ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc nên nội bộ thuần nhất, không bị phân tán
về lực lượng và sức mạnh. Với những đặc điểm ưu việt của mình, giai cấp cơng nhân Việt Nam
sớm vươn lên tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời đại, thể hiện là giai cấp có năng lực lãnh đạo
cách mạng.
Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Trong quá
trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân hóa thành hai bộ phận. Một bộ phận có lợi ích gắn
liền với lợi ích tư bản Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của chính quyền thực dân
Pháp, được gọi là tư sản mại bản. Một bộ phận là tư sản dân tộc, bao gồm những tư sản bị thực dân
Pháp chèn ép, kìm hãm, lệ thuộc, nhỏ bé về địa vị kinh tế. Phần lớn tư sản dân tộc Việt Nam có
tinh thần dân tộc, yêu nước nhưng khơng có khả năng tập hợp các giai tầng để tiến hành cách
mạng.
Tầng lớp tiểu tư sản bao gồm: Trí thức, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh, sinh viên. Họ có
địa vị kinh tế bấp bênh, ln bị đe dọa phá sản, bị đế quốc, tư bản chèn ép nên có tinh thần dân
tộc, yêu nước, nhạy bén với cái mới, do đó họ đi vào lực lượng cách mạng ngày càng đơng đảo.
Dưới chính sách cai trị của thực dân Pháp và chính quyền tay sai, Việt Nam từ xã hội
phong kiến thuần túy trở thành một xã hội thuộc địa. Mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam
cũng thay đổi, ngồi mâu thuẫn giữa nơng dân với địa chủ phong kiến, xuất hiện thêm mâu
thuẫn mới là giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và chính quyền tay sai. Trong đó
mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng gay gắt là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với

thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai. Yêu cầu cấp bách đặt ra cho cách mạng Việt
Nam lúc này là giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản đó.
c. Các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Ngay từ khi Pháp xâm lược, phong trào đấu tranh của nhân dân diễn ra liên tục, rộng khắp
theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau.
Các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng phong kiến, tiêu biểu là phong trào Cần
Vương (1885-1896) của vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết diễn ra sôi nổi với các cuộc khởi
nghĩa: Ba Đình (Thanh Hóa), Bãi Sậy (Hưng n), Hương Khê (Hà Tĩnh). Cuộc khởi nghĩa của
5


Phan Đình Phùng thất bại năm 1896 là dấu mốc chấm dứt vai trò lãnh đạo của các sĩ phu phong
kiến đối với phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam.
Phong trào nông dân Yên Thế (Bắc Giang) diễn ra từ 1884-1913 dưới sự lãnh đạo của thủ
lĩnh Hoàng Hoa Thám. Nhưng do phong trào mang nặng “cốt cách phong kiến”, khơng có khả
năng mở rộng hợp tác và thống nhất với phong trào giải phóng dân tộc nên cuối cùng bị thực dân
Pháp dập tắt.
Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của trào lưu dân chủ
tư sản, tiêu biểu là Phan Bội Châu với xu hướng bạo động và Phan Châu Trinh với xu hướng cải
cách.
Ngồi ra cịn các phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản Việt Nam: phong trào “tẩy chay
Khách trú” (1919); phong trào chống độc quyền xuất nhập ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh
trong các hội đồng quản hạt, hội đồng thành phố, đòi cải cách tự do dân chủ tiếp tục phát triển.
Từ trong phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng ra đời: Đảng lập hiến (1923); Đảng Thanh
niên (3-1926); Đảng thanh niên cao vọng (1926); Việt Nam nghĩa đoàn (1925), sau nhiều lần đổi
tên, tháng 7-1928 lấy tên là Tân Việt cách mạng Đảng; trên cơ sở các tổ chức yêu nước của tiểu
tư sản, trí thức, Việt Nam Quốc dân Đảng được thành lập (12-1927) tại Bắc Kỳ. Mục đích là
đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, xây dựng chế độ cộng hòa tư sản,
với phương pháp đấu tranh vũ trang. Ngày 9-2-1930, với khẩu hiệu “không thành công cũng
thành nhân”, cuộc khởi nghĩa Yên Bái nổ ra nhưng nhanh chóng bị thất bại.

Nhìn chung, các phong trào yêu nước Việt Nam thời kỳ này diễn ra rất mạnh mẽ, quyết
liệt, liên tục và rộng khắp, tuy nhiên, tất cả đều thất bại do thiếu một đường lối chính trị đúng
đắn, chưa có một tổ chức vững mạnh để tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc, chưa xác
định được phương pháp đấu tranh thích hợp để đánh đổ kẻ thù. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho thế
hệ yêu nước đương thời là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu
nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.
2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện để thành lập Đảng
a. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc
Trước u cầu cấp thiết của lịch sử dân tộc, với lòng yêu nước sâu sắc, ngày 5-6-1911
Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc tại bến cảng nhà
Rồng.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã tác động mạnh tới nhận thức của
Nguyễn Tất Thành. Người đánh giá đây là một cuộc “cách mạng đến nơi”, và hướng sự chú ý
của mình tới cuộc cách mạng này, tới nhà nước Nga - Xô viết.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp vì đây là tổ chức chính
trị tiến bộ ở Pháp lúc bấy giờ. Tháng 6-1919, các nước thắng trận trong đại chiến thế giới thứ
nhất đã tổ chức cuộc họp tại Vécxây (Pháp) để phân chia thị trường thế giới. Thay mặt Hội
những người An Nam yêu nước ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Vécxây Bản Yêu sách
gồm 8 điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam. Bản Yêu sách không được Hội nghị chú ý,
nhưng được báo chí Pháp cơng bố rộng rãi và gây một tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế.
Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Những Luận cương về các vấn đề dân
tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên tờ báo L’Humanite’ (Nhân đạo) số ra ngày 16 và 17-71920. Qua Luận cương, Người đã tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
6


Tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản
tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp. Nguyễn Ái Quốc cùng với những người bỏ
phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản đã tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản tức là Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước
chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc.

b. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng
Về tư tưởng chính trị: Từ giữa năm 1921, tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà hoạt
động cách mạng của các nước thuộc địa ở châu Á, Phi, Mỹ La-tinh tham gia thành lập Hội liên
hiệp các dân tộc thuộc địa, sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ), viết nhiều bài trên các
báo Nhân đạo, Đời sống cơng nhân, Tạp chí Cộng sản, Thư tín Quốc tế nhằm tố cáo chính sách
cai trị, áp bức của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các nước thuộc địa. Tháng 6-1923, Nguyễn Ái
Quốc tới Liên Xô và làm việc tại Quốc tế Cộng sản ở Mat-xcơ-va, tham gia nhiều hoạt động như
tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân và đọc tham luận tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản. Năm
1925, cuốn sách Bản án chế độ thực dân Pháp được xuất bản lần đầu tại Pari, đã tố cáo chế độ
bóc lột, cai trị của thực dân Pháp đối với các nước thuộc địa, làm thức tỉnh nhân dân các dân tộc
bị áp bức, trong đó có nhân dân Việt Nam.
Đường lối cách mạng được phác thảo rõ nét ở nội dung các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc
cho Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên từ năm 1925 đến năm 1927, được Hội Liên hiệp các
dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản thành sách với tên gọi Đường Cách mệnh. Đây là cuốn
sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, thể hiện tư tưởng nổi bật của Nguyễn Ái Quốc
trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trong tác
phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của
cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Về tổ chức, tháng 11-1924, Người đến Quảng Châu, Trung Quốc. Tháng 6-1925, Nguyễn
Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Hội xuất bản tờ báo Thanh niên làm
cơ quan ngôn luận, ngày 21-6-1925 ra số đầu tiên. Báo Thanh niên đánh dấu sự ra đời của báo
chí cách mạng Việt Nam.
Sau khi được thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực
tiếp phụ trách. Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương “Vô sản hóa”, đưa các hội viên vào các nhà
máy, hầm mỏ, đồn điền, cùng sống và làm việc với công nhân, đồng thời truyền bá lý luận cách
mạng giải phóng dân tộc, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
c. Sự phát triển của phong trào công nhân Việt Nam
Trước năm 1919, phong trào cơng nhân mang tính chất tự phát, với các hình thức đấu
tranh sơ khai như: bỏ trốn tập thể, phá giao kèo, đốt lán trại, đánh cai ký sau đó phát triển thành
những hình thức: bãi cơng, biểu tình.

Từ năm 1919-1925, giai cấp cơng nhân phát triển nhanh về số lượng, chất lượng. Nhiều
cuộc bãi cơng đã nổ ra, có mục đích chính trị rõ ràng, đánh dấu sự chuyển biến của phong trào
công nhân sang thời kỳ đấu tranh tự giác.
Từ năm 1926-1929, với những yêu sách về kinh tế và chính trị bước đầu phong trào cơng
nhân đã có sự liên kết nhiều ngành, địa phương, chứng tỏ trình độ giác ngộ của cơng nhân đã
nâng lên rõ rệt, có sức quy tụ và dẫn đầu phong trào yêu nước nói chung.
3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
7


a. Các tổ chức cộng sản ra đời
Đến năm 1929, các phong trào cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, tổ chức Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên không cịn thích hợp và đủ sức lãnh đạo phong trào. Trước tình hình
đó, tháng 3-1929 Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam được thành lập do Trần Văn Cung làm Bí
thư.
Tháng 5-1929, Đại hội đại biểu của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp tại Hương
Cảng đã xảy ra sự bất đồng giữa các đoàn đại biểu xung quanh việc xúc tiến thành lập Đảng
Cộng sản. Ngày 17-6-1929, đại biểu các tổ chức cộng sản ở Bắc kỳ họp tại số nhà 312 phố
Khâm Thiên, Hà Nội, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, xuất bản tờ báo Búa
Liềm làm cơ quan ngôn luận và cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng. Tháng 81929, những thanh niên yêu nước ở Nam Kỳ theo xu hướng cộng sản đã thành lập An Nam Cộng
sản Đảng.
Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng Đảng - một tổ chức thanh niên yêu nước chịu tác động
mạnh mẽ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tháng 9-1929, ra tuyên ngôn thành lập
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng nửa cuối năm 1929 đã
khẳng định bước phát triển về chất của phong trào yêu nước Việt Nam. Tuy nhiên, cả ba tổ chức
đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính, khơng tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu sự
thống nhất về tổ chức. Nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực
lượng tồn dân tộc và đảm nhiệm vai trị lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc ngày càng trở
nên bức thiết đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.

b. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên
của Quốc tế Cộng sản, ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái Quốc đến Hồng Kông (Trung Quốc) triệu
tập các đại biểu của hai nhóm (Đơng Dương và An Nam) họp tại Cửu Long, Hương Cảng (Hồng
Kông).
Hội nghị bắt đầu từ ngày 6-1 và ngày 8-2, các đại biểu về nước. Tham dự Hội nghị có 2
đại biểu của Đơng Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu
của An Nam Cộng sản Đảng (Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu), và Nguyễn Ái Quốc, đại biểu
của Quốc tế Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đã gửi báo cáo cho Quốc tế Cộng sản vào ngày 18-21930 nêu rõ: “Chúng tôi họp vào ngày 6-1. Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có
đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, tôi nói
cho họ biết những sai lầm và họ phải làm gì. Họ đồng ý thống nhất vào một Đảng. Chúng tôi
cùng nhau xác định cương lĩnh và chiến lược theo đường lối của Quốc tế Cộng sản… Các đại
biểu trở về An Nam ngày 8-2” [5]. Ngày 24-2-1930 mở cuộc hội nghị ra quyết nghị chấp nhận
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập vào Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh dấu q trình
hồn tất việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất.
Về nội dung, Hội nghị đã thông qua Năm điểm lớn do đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra, thơng
qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng,
Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.
c. Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Trong những văn kiện được Hội nghị thành lập Đảng thông qua, có hai văn kiện đã phản
ánh đầy đủ đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách
8


mạng Việt Nam, đó là Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng, hợp thành
bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (hay cịn gọi là Cương lĩnh Nguyễn Ái Quốc). Nội
dung cơ bản như sau:
Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Phương hướng chiến lược đã chỉ rõ tính chất và
phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc,

giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho người cày, đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản.
Nhiệm vụ chính trị chủ yếu là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho
nước Nam được hồn tồn độc lập, dựng ra chính phủ cơng nơng binh, tổ chức ra quân đội công
nông.
Về kinh tế, thủ tiêu hết quốc trái, thâu hết sản nghiệp lớn (công nghiệp, vận tải, ngân hàng,
v.v…) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ cơng nơng binh quản lý. Tịch
thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế cho
dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành ngày luật làm tám giờ.
Về văn hóa - xã hội, dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ được bình quyền, phổ thơng
giáo dục theo hướng cơng nơng hố.
Về lực lượng cách mạng, giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là lực lượng cơ bản, trong
đó giai cấp cơng nhân là lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết các giai cấp, các lực lượng tiến
bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Đảng phải thu phục được đại bộ phận giai cấp
mình, phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày, hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nơng, Thanh niên, Tân Việt,v.v… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Cịn đối với phú nơng,
trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới
làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến,v.v.) thì phải
đánh đổ.
Về đồn kết quốc tế, cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới. Trong khi thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đồng thời tranh thủ sự
đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản
Pháp, “Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền
và thực hành liên lạc với những dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp thế giới” [7].
Về vai trò lãnh đạo của Đảng, “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục
cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng” [8].
“Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho
họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng” [9].
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị hợp nhất, dù “vắn tắt” nhưng
đã phản ánh một cách đầy đủ những luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh là

sản phẩm của sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách
sáng tạo, phát triển trong điều kiện lịch sử mới, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng
tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong
những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam.
Đồng thời, Cương lĩnh đã đánh giá đúng đắn thái độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp, nhiệm vụ và lực lượng cách mạng
để đưa cách mạng Việt Nam sang một giai đoạn lịch sử mới.
9


4. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân
tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu
nước những năm đầu thế kỷ XX, chứng tỏ rằng giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành và đủ
sức lãnh đạo cách mạng.
Đảng ra đời đã đưa cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng
vô sản thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thơng qua đã đáp
ứng nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định
hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Khẳng định sự lựa
chọn con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam - con đường cách mạng vô sản.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển
của dân tộc Việt Nam, là nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác.
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO Q TRÌNH ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945)
1. Phong trào cách mạng 1930-1931 và khôi phục phong trào 1932-1935
a. Phong trào cách mạng 1930-1931 và Luận cương chính trị (10-1930)

Trên thế giới, những năm 1929-1933, Liên Xơ đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc
xây dựng đất nước. Các nước tư bản chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng kinh tế trên quy mô lớn với
những hậu quả nặng nề, làm cho mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản phát triển gay gắt. Phong
trào cách mạng thế giới dâng cao.
Ở trong nước, phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng
nổ ra liên tiếp nhiều nơi.
Từ tháng 5-1930 đến tháng 9-1930, phong trào cách mạng phát triển đến đỉnh cao với
những hình thức đấu tranh quyết liệt. Trước sức mạnh của quần chúng, bộ máy chính quyền thực
dân tay sai nhiều nơi bị tê liệt ở cấp huyện và tan rã ở cấp xã. Cách mạng đã giành quyền làm
chủ ở một số nơi. Các tổ chức đảng ở những địa phương này chủ động lãnh đạo Ban Chấp hành
nông hội đứng ra quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Các “khu đỏ” tự do hình thành ở nhiều vùng
nơng thơn của Nghệ An, Hà Tĩnh … trong đó hình thành một chính quyền cách mạng của nơng
dân theo hình thức các Uỷ ban tự quản kiểu Xô-viết.
Từ cuối năm 1930, thực dân Pháp tập trung mọi lực lượng đàn áp khốc liệt, kết hợp thủ
đoạn bạo lực với những thủ đoạn chính trị như cưỡng bức dân cày ra đầu thú, tổ chức rước cờ
vàng, nhận thẻ quy thuận. Đầu năm 1931, hàng ngàn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn người yêu
nước Việt Nam bị bắt, bị giết hoặc tù đày. Tháng 4-1931, toàn bộ Ban Chấp hành Trung ương bị
bắt, khơng cịn một ủy viên nào. Các tổ chức của Đảng và của quần chúng tan rã hầu hết, bị tổn
thất nặng nề. Cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn đấu tranh đầy khó khăn gian khổ.
Mặc dù bị tổn thất nặng nề, nhưng phong trào cách mạng 1930-1931 cũng để lại cho Đảng
những bài học kinh nghiệm quý báu về kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và chống
phong kiến, kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân với phong trào đấu tranh của nông dân,
10


thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, kết hợp phong trào đấu
tranh ở thành thị và nông thôn, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.
Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10-1930
Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương đã
họp tại Hương Cảng (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của Trần Phú. Hội nghị quyết định đổi tên

Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đơng Dương. Hội nghị bầu Trần Phú làm Tổng
Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương và thông qua Nghị quyết Về tình hình hiện tại ở Đơng
Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, Điều lệ Đảng; thảo luận bản Luận cương chánh trị của
Đảng Cộng Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng).
Luận cương xác định mâu thuẫn giai cấp ở Đông Dương diễn ra gay gắt giữa một bên là
thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc chủ
nghĩa.
Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương lúc đầu là cách mạng tư sản dân
quyền, có tính chất thổ địa và phản đế. Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách
mạng. “Tư sản dân quyền cách mạng được thắng lợi. Lúc đó sự tranh đấu sẽ thêm sâu, thêm rộng, làm cho
cách mạng tư sản dân quyền tiến lên con đường cách mạng vô sản. Sẽ nhờ vô sản giai cấp chuyên chánh
các nước giúp sức cho mà phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ
nghĩa”.
Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là “tranh đấu để đánh đổ các di tích phong
kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hiện cách mạng ruộng đất một cách
triệt để, một mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đơng Dương
hồn tồn độc lập” [13]. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít, mật thiết với nhau,
có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm thổ địa được thắng lợi; mà có
phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa. Luận cương nhấn mạnh “vấn đề thổ
địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền” [14], là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
Về lực lượng cách mạng, giai cấp vơ sản và nơng dân là hai động lực chính, trong đó giai
cấp vơ sản là động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Về lãnh đạo cách mạng, Luận cương xác định điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách
mạng Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản. Đảng phải có một đường lối chính trị
đúng, kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, từng trải tranh đấu mà trưởng thành.
Về phương pháp cách mạng, “võ trang bạo động giành chính quyền khơng phải là một việc
thường, chẳng những là theo tình thế trực tiếp cách mạng, mà lại phải theo khuôn phép nhà binh,
cho nên cần phải chú ý” [15].
Về quan hệ quốc tế, cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới, vì thế vơ sản Đơng Dương phải có quan hệ đồn kết gắn bó với giai cấp vơ sản trên thế

giới, nhứt là giai cấp vô sản Pháp. “Trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, quần chúng cách mạng
Đông Dương lại phải liên lạc với quần chúng cách mạng ở các nước thuộc địa và bán thuộc địa,
nhứt là ở Tàu và Ấn Độ, v.v..” [16].
Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã xác định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến
lược cách mạng mà Chánh cương vắt tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu. Tuy nhiên, Luận cương
chưa phân tích và làm rõ mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc
Pháp xâm lược, từ đó khơng đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu, nặng về đấu tranh giai
cấp, về cách mạng ruộng đất; đánh giá không đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản,
11


phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc, cường điệu mặt hạn chế của họ, chưa thấy được khả
năng phân hố và lơi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc,
cho nên không đề ra liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc,
tay sai. Từ nhận thức hạn chế như vậy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10-1930 đã
không chấp nhận những quan điểm đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc trước đó.
b. Cuộc đấu tranh khơi phục tổ chức và phong trào cách mạng (1932-1935). Đại hội
Đảng lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3-1935)
Trong năm 1931 nhiều cán bộ Trung ương bị bắt và bị giết hại, trong đó có Trần Phú,
Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh ở Hồng Kơng bắt giam.
Năm 1932, Lê Hồng Phong thành lập Ban Chỉ huy ở hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông
Dương nhằm khôi phục tổ chức đảng và phong trào cách mạng trong nước. Tháng 3-1935, Đại
hội lần thứ nhất họp ở Ma Cao (Trung Quốc), có 13 đại biểu tham dự Đại hội. Đại hội đề ra ba
nhiệm vụ trước mắt:
Một là, củng cố và phát triển Đảng, phát triển lực lượng của Đảng trong các xí nghiệp, nhà
máy, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng. Đồng thời phải đưa nông dân lao động và
trí thức cách mạng đã qua rèn luyện thử thách vào Đảng.
Hai là, đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng, chú ý các dân tộc ít người, phụ nữ,
binh lính… Củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng như Đoàn thanh niên cộng sản, Công
hội đỏ, Nông hội đỏ, Cứu tế đỏ. Lập Mặt trận thống nhất phản đế. Thâu phục quảng đại quần

chúng là một nhiệm vụ trung tâm, căn bản, cần kíp của Đảng hiện thời.
Ba là, mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, ủng hộ
cách mạng Trung Quốc…
Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, các Nghị quyết về vận động quần
chúng. Đại hội bầu Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư, bầu đồn đại biểu đi dự Đại hội VII Quốc
tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc được bầu làm ủy viên dự khuyết của Đảng bên cạnh Quốc tế
Cộng sản. Đại hội đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ chức đảng và phong trào cách mạng quần
chúng, đặt dưới sự chỉ đạo thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương.
2. Đảng lãnh đạo phong trào dân chủ 1936-1939
a. Hồn cảnh lịch sử
Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và nguy cơ của chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm trọng nền hịa
bình, an ninh quốc tế. Tháng 7-1935, Quốc tế Cộng sản họp Đại hội lần thứ VII tại Mat-xcơ-va xác
định kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít. Nhiệm vụ trước mắt
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới là chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh,
bảo vệ dân chủ và hịa bình. Để thực hiện nhiệm vụ đó, giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động
toàn thế giới phải thống nhất hàng ngũ, lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít.
Ở Việt Nam, để thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế và ngột ngạt về chính trị do
chính sách khủng bố trắng của thực dân Pháp gây ra, mọi tầng lớp xã hội đều mong muốn có
những cải cách dân chủ. Đảng Cộng sản Đông Dương đã phục hồi sau thời gian đấu tranh gian
khổ và tranh thủ cơ hội thuận lợi xây dựng, phát triển hệ thống tổ chức đảng và các tổ chức quần
chúng rộng rãi để tăng cường lực lượng cách mạng.
b. Chủ trương và nhận thức mới của Đảng
12


Ngày 26-7-1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị lần thứ 2 tại Thượng
Hải (Trung Quốc) do Lê Hồng Phong chủ trì. Hội nghị chủ trương “sửa chữa những sai lầm” trước
đó và “định lại chính sách mới”. Hội nghị xác định cách mạng ở Đông Dương vẫn là cách mạng tư
sản dân quyền có nhiệm vụ phản đế và điền địa, nhiệm vụ trước mắt là: chống phát xít, chống chiến
tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa và tay sai. Yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân Việt

Nam là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Hội nghị quyết định “lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng
rãi bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đồn thể chính trị và tín ngưỡng tơn giáo khác nhau, các
dân tộc ở xứ Đơng Dương để cùng nhau tranh đấu để địi những điều dân chủ đơn sơ” [17].
Hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật, khơng hợp pháp sang các hình thức
tổ chức và đấu tranh cơng khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp, kết hợp với bí mật, bất
hợp pháp. Tại Hội nghị, Hà Huy Tập được bầu làm Tổng Bí thư.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm
vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng ở Đông Dương. Trong Văn kiện
“Chung quanh vấn đề Chiến sách mới” công bố tháng 10-1936, Đảng nêu quan điểm: Cuộc dân
tộc giải phóng khơng nhất thiết phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là khơng thể
nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề
điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà
ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết
trước.
Các Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba (3-1937) và lần thứ tư (9-1937)
đã tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược với mục tiêu cụ thể trước mắt của
cách mạng, đặt ra nhiệm vụ chính trị cụ thể, tập hợp rộng rãi những lực lượng chính trị dù là nhỏ
bé, sử dụng các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt, phù hợp với mục tiêu cụ thể nhằm
động viên hàng triệu quần chúng vào trận tuyến đấu tranh cách mạng.
Tháng 3-1938, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa I quyết định lập Mặt
trận Dân chủ Đông Dương để tập hợp rộng rãi lực lượng, phát triển phong trào và quyết định
củng cố và phát triển cơ sở đảng, lập thêm cơ sở mới, bầu Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư thay
Hà Huy Tập.
Cuối năm 1938, từ Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc trở lại Trung Quốc, Người chú ý theo dõi và
chỉ đạo phong trào cách mạng ở Đông Dương. Tháng 3-1939, Đảng ra Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc. Tuyên ngôn kêu gọi các tầng lớp nhân dân phải thống
nhất hành động hơn nữa trong việc đòi các quyền tự do dân chủ, chống nguy cơ chiến tranh đế
quốc.
c. Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hịa bình
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc vận động dân chủ diễn ra trên quy mô rộng lớn, lôi cuốn

đông đảo quần chúng tham gia với những nội dung và hình thức đấu tranh phong phú.
Trong một thời gian ngắn, ở khắp các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, từ thành thị đến nông
thôn đã lập ra các “Ủy ban hành động” để tập hợp quần chúng và bầu đại biểu đi dự Đại hội
Đơng Dương (riêng ở Nam Kỳ đã có 600 Ủy ban hành động).
Bên cạnh đó, Đảng khơn khéo lợi dụng mọi khả năng để xuất bản và lưu hành báo chí
cơng khai. Nhiều báo chí của Đảng và các tài liệu được phổ biến rộng rãi trong quần chúng như:
Tin tức, Đời nay, Tranh đấu, Nhành lúa, Bạn dân, Kinh tế, Dân mới, Phổ thông, Lao động, …
Đặc biệt, báo Dân chúng là cơ quan ngôn luận của Đảng lúc đó mỗi ngày xuất bản từ 5.000 đến
13


15.000 bản. Năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ xuất bản cuốn sách Tự chỉ trích thẳng thắn
chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm và chỉ ra những bài học cần thiết trong lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng. Đây là tác phẩm có ý nghĩa lý luận, thực tiễn về xây dựng Đảng, trong đó nhấn mạnh tự
phê bình và phê bình để nâng cao năng lực lãnh đạo và bản chất cách mạng của Đảng.
Từ năm 1937-1939, Đảng và Mặt trận dân chủ đã giành được nhiều thắng lợi trong các
cuộc tranh cử vào Viện dân biểu Trung Kỳ, Viện dân biểu Bắc Kỳ, Hội đồng thành phố Hà Nội,
Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương và đã thắng lợi trong việc bác
bỏ dự án tăng thuế thân và thuế điền thổ của Viện dân biểu Trung Kỳ.
Phong trào truyền bá chữ quốc ngữ cũng phát triển mạnh từ năm 1937 nhằm tạo điều kiện
để quần chúng hiểu biết về chủ trương, chính sách của Đảng. Do đó, lơi cuốn đơng đảo quần
chúng tham gia với các hình thức tổ chức như Hội Tương tế, Hội Ái hữu, Hội Thể thao, Hội đọc sách
báo... Từ đó, Đảng khơng chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mà còn đấu tranh cho những quyền
lợi thiết thực của nhân dân.
3. Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945
a. Bối cảnh lịch sử
Trên thế giới, ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn cơng Ba Lan, chiến tranh thế giới thứ hai
bùng nổ. Đức lần lượt chiếm các nước châu Âu. Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp, chính phủ
của Thủ tưởng Pêtanh (Pe’tain) ký văn bản đầu hàng Đức. Tháng 6-1941, Đức tấn công Liên
Xô. Tháng 12-1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, quân Nhật lần lượt đánh chiếm

nhiều thuộc địa của Mỹ và Anh ở trên biển, trong đất liền.
Tại Đông Dương và Việt Nam, bộ máy đàn áp của thực dân Pháp được tăng cường, lệnh
thiết quân luật được ban bố. Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên
truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đơng Dương ngồi
vịng pháp luật, giải tán các Hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các tổ chức đó, đóng
cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đơng người. Pháp thi hành chính sách thời
chiến, phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng; thực hiện chính
sách “kinh tế chỉ huy” nhằm vơ vét sức người sức của để phục vụ cho cuộc chiến tranh đế quốc.
Ngày 22-9-1940, quân Nhật vượt biên giới Việt Nam - Trung Quốc, đánh vào Lạng Sơn, chính
thức xâm lược Đơng Dương. Thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng và cấu kết với Nhật thống
trị, bóc lột nhân dân Việt Nam, làm cho nhân dân phải chịu cảch “một cổ hai tròng”.
b. Chủ trương chiến lược mới của Đảng
Trước tình hình trên, ngày 29-9-1939, Trung ương Đảng gửi thơng báo Hồn cảnh Đơng
Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng. Thơng cáo cho các cấp bộ Đảng vạch ra một
số phương hướng và biện pháp cần kíp trước mắt nhằm chuyển hướng các mặt hoạt động.
Tháng 11-1939, Nghị quyết của Ban Trung ương Đảng xác định: “Bước đường sinh tồn
của các dân tộc Đơng Dương khơng có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc
Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập.
Chiến lược cách mạng tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với tình thế
mới. Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn
đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”.
“Tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, thay bằng các khẩu hiệu chống địa tô cao, chống
cho vay nặng lãi, tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc chia cho
dân cày” [19]. Chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay cho
14


Mặt trận dân chủ Đông Dương, thu hút tất cả các dân tộc, các giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu
nước ở Đông Dương, nhằm chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phát xít, đánh đổ đế quốc
Pháp và tay sai, giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương.

Hội nghị đánh dấu sự thay đổi cơ bản về chiến lược cách mạng và mở ra một thời kỳ đấu
tranh mới - thời kỳ chuẩn bị lực lượng, chuẩn bị điều kiện giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong thời điểm đó, ngày 17-1-1940, Nguyễn Văn Cừ cùng nhiều cán bộ Trung ương bị địch
bắt.
Trước tình hình đó, tháng 11-1940 Hội nghị Trung ương họp lập lại Ban Chấp hành Trung
ương (Hội nghị Trung ương lâm thời lần thứ 7). Hội nghị quyết định một số vấn đề cơ bản như
cách mạng phản đế và cách mạng điền địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước, cái làm
sau. Tại Hội nghị, Trung ương Đảng cịn trăn trở, chưa thật dứt khốt với chủ trương đặt nhiệm
vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu được đề ra tại Nghị quyết Trung ương tháng 11-1939.
Trước yêu cầu cấp bách của cách mạng, ngày 28-1-1941, sau 30 năm hoạt động ở nước
ngoài, Nguyễn Ái Quốc về nước. Tại Cao Bằng, tháng 5-1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị
lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị nêu rõ: “Vấn đề chính là nhận định cuộc
cách mạng trước mắt của Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, lập Mặt trận Việt
Minh, khẩu hiệu chính là: Đồn kết tồn dân, chống Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập; hoãn
cách mạng ruộng đất” [21]. Từ đây, Hội nghị nhận định:
Thứ nhất, mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa Việt
Nam với bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Do vậy, nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập
cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng.
Thứ hai, “Cuộc cách mạng ở Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư
sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là một
cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”. Hội nghị quyết định
tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng các khẩu hiệu tịch
thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công
bằng, giảm tô, giảm tức”.
Thứ ba, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, thi hành
đúng đắn chính sách “dân tộc tự quyết”. Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương
một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc.
Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú
nông, địa chủ, tư bản bản xứ vào mặt trận Việt Minh. Các tổ chức quần chúng trong mặt trận
Việt Minh đều mang tên “cứu quốc”.

Thứ năm, sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
theo tinh thần dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung tồn thể dân tộc” [24].
Thứ sáu, xúc tiến ngay cơng tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trung
tâm của Đảng và nhân dân trong giai đoạn hiện tại.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, tháng 5-1941 đã hoàn chỉnh sự thay đổi chiến lược
cách mạng của Đảng Cộng sản Đơng Dương. Đó là đường lối giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Những quyết định của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã khẳng định lại quan điểm đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, là ngọn cờ thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc.
15


c. Phong trào chống Pháp - Nhật, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi
nghĩa vũ trang
Phong trào chống Pháp - Nhật
Sau Hội nghị lần thứ 8, ngày 6-6-1941 Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước:
“Trong lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế
quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sơi lửa nóng” [27]. Trong khi đó Pháp - Nhật
ngày càng tăng cường đàn áp cách mạng Việt Nam. Ngày 26-8-1941, thực dân Pháp xử bắn Nguyễn
Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai tại Hc Mơn, Gia
Định. Ngày 6-9-1942, Lê Hồng Phong hy sinh trong nhà tù Côn Đảo. Tháng 8-1942, Nguyễn Ái
Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh trên đường đi Trung Quốc bị quân Trung Hoa dân quốc bắt giữ.
Chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang
Về xây dựng lực lượng chính trị, ngày 25-10-1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, nêu rõ
Việt Nam độc lập Đồng Minh (Việt Minh) ra đời. Tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng họp tại Võng La (Đông Anh, tỉnh Phúc Yên) nay thuộc Hà Nội đề ra những biện pháp cụ
thể để phát triển phong trào quần chúng. Hội nghị chủ trương mở rộng Mặt trận Việt Minh, liên
minh với tất cả các đảng phái, các nhóm yêu nước ở trong và ngoài nước chưa gia nhập Việt Minh,
xúc tiến cuộc vận động thành lập Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương, để khoét sâu

mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù. Năm 1943, Đảng công bố Đề cương văn hóa Việt Nam, xác định
văn hóa cũng là một trận địa cách mạng, chủ trương xây dựng một nền văn hóa mới theo ba
nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng. Cuối 1944, Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời,
thu hút trí thức và các nhà hoạt động văn hóa vào mặt trận đấu tranh giành độc lập, tự do.
Đảng rất chú trọng xây dựng và phát triển các căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ
trang. Tháng 6-1941, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Đội du
kích Bắc Sơn được duy trì và đổi tên là Cứu quốc quân. Cứu quốc quân tiến hành tuyên truyền
vũ trang, gây cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ từ Cao Bằng khu căn cứ được mở rộng sang
các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên.
Tháng 10-1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào tồn quốc, thơng báo chủ trương của
Đảng về việc triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân. Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân, xác định nguyên tắc tổ chức, phương thức hoạt động và phương
châm tác chiến của lực lượng vũ trang. Bản Chỉ thị này có giá trị như một cương lĩnh quân sự tóm
tắt của Đảng. Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp
tổ chức đã ra đời và trở thành cơ sở chính trị, vũ trang cho khởi nghĩa sau này. Thực hiện nhiệm
vụ, Đội đã đánh thắng đồn Phay Khắt (25-12-1944), và đồn Nà Ngần (26-12-1944). Đội đẩy mạnh
vũ trang tuyên truyền, kết hợp chính trị và quân sự, xây dựng cơ sở cách mạng, góp phần củng cố
và mở rộng khu căn cứ Cao-Bắc-Lạng.
d. Cao trào kháng Nhật cứu nước
Hoàn cảnh lịch sử
Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên
Xơ đang truy kích phát xít Đức trên chiến trường châu Âu và giải phóng nhiều nước ở Đơng Âu
và tiến về Béclin. Ở Tây Âu, Anh - Mỹ mở mặt trận thứ hai, đổ quân lên đất Pháp, tiến qn về
phía Tây nước Đức. Nước Pháp được giải phóng. Phát xít Nhật ở vào tình thế khốn quẫn,
chuyển sang phòng ngự và thất bại liên tiếp. Mâu thuẫn giữa Nhật - Pháp trở nên gay gắt.
Vào 20 giờ ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng, đảo chính lật đổ Pháp trên tồn cõi Đơng
16


Dương, Pháp chống cự yếu rồi nhanh chóng đầu hàng. Sau đảo chính, Nhật giữ nguyên bộ máy

cai trị của Pháp ở Đông Dương để làm tay sai cho chúng.
Ngay đêm ngày 9-3, Hội nghị mở rộng của Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Đình
Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do Trường Chinh chủ trì. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ ra chỉ thị
“Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, chỉ rõ bản chất hành động của phát xít Nhật là
đảo chính chứ khơng phải là cuộc cách mạng. Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính của Nhật lật Pháp
dẫn đến khủng hoảng chính trị sâu sắc ở Đông Dương, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự
chín muồi, tuy vậy đang có những cơ hội tốt để đi đến chín muồi nhanh chóng. Kẻ thù chính, cụ
thể, trước mắt và duy nhất của cách mạng Đông Dương lúc này là phát xít Nhật. Thay khẩu hiệu
“Đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”. Đồng thời, kêu gọi:
“Thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương” để chống lại chính phủ thân Nhật.
Chỉ thị phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa. Chỉ thị
xác định đây là thời kỳ tiền khởi nghĩa, nên phải có những hình thức đấu tranh, tuyên truyền cho
thích hợp như đẩy mạnh tuyên truyền vũ trang, biểu tình, tuần hành, bãi cơng chính trị, phá kho
thóc của Nhật để cứu đói, thành lập căn cứ cách mạng sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa khi
có đủ điều kiện.
Chỉ thị dự kiến thời cơ thuận lợi để tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền như khi quân
Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, Nhật chống đỡ, phía sau sơ hở. Hoặc cách mạng Nhật
bùng nổ, chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật ra đời. Hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm
1940, quân đội viễn chinh Nhật hoang mang, mất tinh thần. Tuy nhiên, khơng được trơng chờ, ỷ
lại vào bên ngồi, mà phải chủ động nắm bắt thời cơ và phải dựa vào sức mình là chính.
Bản Chỉ thị đã thể hiện sự nhận định sáng suốt, kiên quyết, kịp thời của Đảng, nhờ đó thúc
đẩy tình thế cách mạng mau chóng chín muồi, là kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng,
toàn dân trong cao trào chống Nhật cứu nước, trực tiếp dẫn đến thắng lợi của cuộc tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945.
Cao trào kháng Nhật cứu nước
Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ và
phong phú về nội dung và hình thức.
Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị tổ chức Uỷ ban dân tộc giải phóng các cấp,
chuẩn bị thành lập Uỷ ban giải phóng Việt Nam. Ngày 15-4-1945, Hội nghị quân sự Bắc kỳ do
Trường Chinh chủ trì, họp ở Hiệp Hồ, Bắc Giang, quyết định đặt nhiệm vụ quân sự lên hàng

đầu, gấp rút chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa. Hội nghị thống nhất sát nhập Việt Nam Tuyên truyền
giải phóng quân và Cứu quốc quân và các lực lượng vũ trang khác thành Việt Nam giải phóng
quân.
Ngày 4-6-1945, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Tổng bộ Việt Minh triệu tập hội nghị để
quyết định thành lập khu giải phóng Việt Bắc.
Giữa lúc phong trào đấu tranh của quần chúng cả nước lên cao, thì nạn đói diễn ra nghiêm
trọng trong các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ làm hơn 2 triệu đồng bào chết đói. Xuất phát từ lợi
ích sống cịn trước mắt của đồng bào, Đảng đề ra chủ trương “phá kho thóc, giải quyết nạn đói”.
Thực hiện khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận, mở rộng căn cứ địa cách
mạng, thực hiện chiến tranh du kích ở những nơi có điều kiện, kết hợp với phong trào đấu tranh
chính trị của quần chúng, chuẩn bị tiến lên tổng khởi nghĩa là điểm độc đáo, sáng tạo của Đảng.
Cao trào kháng Nhật cứu nước là một cuộc chiến đấu vĩ đại, làm cho trận địa cách mạng được
17


mở rộng, lực lượng cách mạng được tăng cường, làm cho toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng, chủ
động, tiến lên chớp thời cơ tổng khởi nghĩa.
e. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Hồn cảnh lịch sử
Ngày 9-5-1945, phát xít Đức đầu hàng Liên Xô và Đồng minh. Tháng 8-1945, quân đội
Liên Xô đánh bại hơn 1 triệu quân Quan Đông của Nhật ở Mãn Châu. Mỹ ném hai quả bom
nguyên tử xuống Nhật Bản, Nhật đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh vô điều kiện. Vào
thời điểm này ở Việt Nam, chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim đang hoang mang cực độ, phát
xít Nhật đã mất hết tinh thần và gục ngã.
Trước tình hình trên, vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước
rút với quân Đồng minh mà Đảng và nhân dân Việt Nam không thể chậm trễ, không chỉ để tranh
thủ thời cơ, mà còn phải khắc phục nguy cơ, đưa cách mạng đến thành công. Ngày 13-8-1945,
Ủy ban khởi nghĩa ra Lệnh Khởi nghĩa (Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa), kêu gọi nhân
dân cả nước nổi dậy tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong tồn quốc.
Ngày 14 và 15-8-1945, Nghị quyết của Toàn quốc Hội nghị Đảng Cộng sản Đông Dương

họp ở Tân Trào, do lãnh tụ Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Hội nghị cũng
quyết định những vấn đề quan trọng về đối nội và đối ngoại sau khi giành được chính quyền, cụ
thể về đối nội sẽ lấy 10 chính sách lớn của Việt Minh làm chính sách cơ bản của chính quyền
cách mạng. Cịn về đối ngoại sẽ thực hiện nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn, bớt thù; triệt
để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để phân hố, cơ lập chúng; tranh thủ sự ủng hộ của
Liên Xô và các lực lượng tiến bộ trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và Trung Quốc.
Ngày 16 và 17-8-1945, tại Tân Trào, Quốc dân Đại hội họp, nhiệt liệt ủng hộ chủ trương
tổng khởi nghĩa của Đảng và thơng qua 10 chính sách của Việt Minh; quyết định lập Uỷ ban dân
tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Từ ngày 14-8, căn cứ vào tình hình thực tiễn, Đảng bộ nhiều địa phương đã kịp thời, chủ
động, lãnh đạo nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Bốn tỉnh giành chính quyền sớm nhất là Hải Dương,
Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam. Từ ngày 14 đến ngày 18-8, ở hầu hết các tỉnh miền Bắc, một số
tỉnh miền Trung và miền Nam, quần chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền ở cấp xã và
huyện.
Tại Hà Nội, ngày 19-8, Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi ở Hà Nội đã làm chính quyền tay
sai Nhật các nơi bị tê liệt, cổ vũ các thành phố khác nổi dậy giành chính quyền. Ngày 23-8, Ủy
ban khởi nghĩa Thừa Thiên - Huế huy động quần chúng từ các huyện đã giành được chính quyền
ở ngoại thành, kết hợp với nhân dân nội thành Huế xuống đường biểu dương lực lượng.
Ở Nam Kỳ, sáng ngày 25-8, ở Sài Gịn hơn 1 triệu người biểu tình tuần hành thị uy. Quân
khởi nghĩa đã chiếm được các công sở. Cuộc khởi nghĩa thành cơng nhanh chóng. Những cuộc
khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gịn và các đơ thị đập tan các cơ quan đầu não của kẻ thù có ý
nghĩa quyết định thắng lợi trong cả nước. Từ ngày 27 đến ngày 28-8-1945, tổng khởi nghĩa kết
thúc với tỉnh cuối cùng là Hà Tiên (Kiên Giang). Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã
thành công trên cả nước chỉ trong vịng nửa tháng.
Ngày 25-8-1945, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Uỷ ban dân tộc giải phóng
về Hà Nội. Ngày 28-8-1945, Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam tun bố cải tổ thành Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chiều ngày 30-8, trước cửa Ngọ Mơn, Bảo Đại
đọc lời thối vị và nộp ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
18



Ngày 2-9-1945, Lễ độc lập được tổ chức tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Thay mặt
Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố với
quốc dân đồng bào và thế giới nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. “Tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do”…“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thực sự đã thành một nước tự do và
độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” [32].
4. Tính chất, ý nghĩa và kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Tính chất
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình, đã
tập trung hồn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc. Lực lượng cách
mạng bao gồm toàn dân tộc. Thành lập được chính quyền nhà nước “của chung tồn dân tộc,
dựng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam, xóa bỏ chế độ quân chủ
phong kiến. Các tầng lớp nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ.
Ý nghĩa
Đối với Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là bước nhảy vọt vĩ đại, đánh dấu
một cuộc biến đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử tiến hoá của dân tộc, đã đập tan sự thống trị của
thực dân Pháp trong 87 năm, lật nhào chế độ quân chủ hàng nghìn năm và ách thống trị của phát
xít Nhật, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở
Đông Nam châu Á. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân của nước độc
lập, tự do, đứng lên làm chủ vận mệnh của mình.
Cách mạng Tháng Tám đã chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc, mở ra thời kỳ suy sụp, tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới, cổ vũ
nhân dân các dân tộc thuộc địa đấu tranh tự giải phóng mình, giành độc lập tự do.
Đối với thế giới, Cách mạng Tháng Tám cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc của các dân tộc bị áp bức. Thắng lợi đó chứng tỏ rằng, trong thời đại ngày nay, cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa, do toàn dân nổi dậy, dưới sự lãnh
đạo của một đảng Mác - Lênin với đường lối đúng đắn, có thể giành thắng lợi.
Kinh nghiệm

Thứ nhất, về đường lối chiến lược. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn
hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, trong đó nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu,
nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc.
Thứ hai, về xây dựng lực lượng. Trên cơ sở khối liên minh cơng-nơng-trí thức vững chắc
đã khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước
trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Việt Minh là một điển hình thành cơng của Đảng về
huy động lực lượng tồn dân tộc lên trận địa cách mạng, đưa cả dân tộc vùng dậy trong cao trào
kháng Nhật cứu nước, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Thứ ba, về phương pháp cách mạng. Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng
bạo lực cách mạng một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, dự đoán đúng thời cơ, chớp lấy thời
cơ, hành động mau lẹ, kịp thời, kiên quyết và khôn khéo khi thời cơ xuất hiện.
Thứ tư, về xây dựng Đảng. Xây dựng Đảng cách mạng tiên phong vững mạnh, thống nhất
19


ý chí và hành động, trung thành tuyệt đối với dân tộc và giai cấp, có đường lối đúng với đội ngũ
cán bộ đảng viên kiên cường được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đưa lịch
sử dân tộc sang trang mới, đánh dấu bước nhảy vọt vĩ đại trong q trình tiến hóa của dân tộc.
Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa đã ra đời, dù trải qua mn vàn khó khăn thử thách, nhưng
dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tinh thần đoàn kết tồn dân, ln được xây dựng và củng cố,
vững bước tiến trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Suốt 15 năm, Đảng đã lãnh
đạo giai cấp và dân tộc hoàn thành mục tiêu giành độc lập, thiết lập nhà nước dân chủ nhân dân.

CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Nêu các giai cấp trong xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, làm rõ đặc điểm
của giai cấp công nhân và tư sản?
Câu 2: Các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX diễn ra theo những
khuynh hướng chính trị nào? Đại biểu điển hình cho những khuynh hướng đấu tranh đó là ai?

Câu 3: Những dấu mốc quan trọng trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc và
chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc.
Câu 4: Trình bày phương hướng chiến lược, nhiệm vụ, lực lượng cách mạng trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên.
Câu 5: Những mốc thời gian tiêu biểu thể hiện sự phát triển của phong trào cách mạng 19301931.
Câu 5: Kể tên các phong trào đấu tranh thời kỳ 1936-1939?

Chương 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN HỒN THÀNH
GIẢI PHĨNG DÂN TỘC, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1945-1975)

I. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC 1945-1954
1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng sau Cách mạng Tháng Tám
a. Tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm1945, bên cạnh những thuận lợi, Đảng và
nhân dân Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức mới.
Về thuận lợi: Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành. Liên Xơ trở thành thành
trì của chủ nghĩa xã hội. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở
thành một dịng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hịa bình cũng vươn lên mạnh mẽ.
Ở trong nước, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ ra đời. Chính quyền dân chủ nhân dân
được kiến lập, có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Địa vị của nhân dân thay đổi, từ thân phận
của những người nô lệ mất nước, trở thành những người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh
dân tộc. Lực lượng vũ trang ngày càng được tăng cường. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt
Minh, ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Về khó khăn: Trên thế giới, các nước lớn bắt tay, dàn xếp với nhau tiếp tục tấn cơng phong
trào cách mạng thế giới, trong đó có cách mạng Việt Nam. Chưa có nước nào ủng hộ lập trường
20



độc lập và công nhận địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cách mạng ba
nước Đơng Dương phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức.
Nền kinh tế Việt Nam vốn đã nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề lại thêm
hậu quả của nạn đói năm 1945 do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục. Ruộng đất bị bỏ
hoang, cơng nghiệp đình đốn, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thương đình trệ. Kho
bạc trống rỗng, chỉ có 1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách, ngân hàng Đông Dương ngân hàng duy nhất phát hành giấy bạc vẫn đang nằm trong tay tư bản Pháp. Bên cạnh đó, bọn
Tưởng Giới Thạch tung tiền quan kim và quốc tệ vào Việt Nam, gây rối loạn thị trường.
Văn hố: hậu quả của chính sách cai trị của thực dân Pháp đã làm cho 95% dân số mù chữ,
các hủ tục lạc hậu, thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội mà chế độ cũ để lại còn nặng nề.
Giặc ngoại xâm và nội phản: Với danh nghĩa quân Đồng minh, quân đội các nước đế quốc
ồ ạt kéo vào chiếm đóng Việt Nam, khuyến khích Việt gian chống phá chính quyền cách mạng
nhằm xóa bỏ nền độc lập và chia cắt lâu dài Việt Nam. Ở miền Bắc (từ vĩ tuyến 16 trở ra), gần
20 vạn quân Tưởng kéo vào, sau lưng chúng là bọn Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu thủ tiêu
chính quyền cách mạng và cướp bóc nhân dân Việt Nam. Ở Miền Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào),
trên một vạn quân Anh cũng dưới danh nghĩa quân Đồng minh kéo vào mở đường cho thực dân
Pháp quay lại đánh chiếm Việt Nam. Ngày 2-9-1945, thực dân Pháp trắng trợn gây hấn, bắn vào
cuộc mít tinh mừng ngày độc lập ở Sài Gòn. Ngày 23-9-1945 dưới sự yểm trợ của 2 sư đồn
thiết giáp Anh, Pháp đã nổ súng tấn cơng Sài Gịn - Chợ lớn, chính thức xâm lược Việt Nam lần
thứ 2. Ở Việt Nam lúc này còn khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp, một số quân Nhật
theo lệnh của quân Anh, cầm súng dọn đường cho Pháp mở rộng vùng chiếm đóng miền Nam
Việt Nam.
Nền độc lập của Tổ quốc bị đe dọa nghiêm trọng; vận mệnh chính quyền cách mạng như
“ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc phải đối phó với nạn đói, nạn dốt và thù trong, giặc ngoài.
b. Xây dựng chế độ mới và bảo vệ chính quyền cách mạng
Tình hình khó khăn trên đặt ra cho Đảng và nhân dân Việt Nam những nhiệm vụ nặng nề và
cấp bách. Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”
vạch ra những chủ trương cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Nội dung Chỉ thị nêu rõ:
Về chỉ đạo chiến lược, cách mạng Việt Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu
“Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”.
Về xác định kẻ thù, bản chỉ thị nêu rõ, kẻ thù chính của nhân dân Việt Nam lúc này là thực

dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Lập mặt trận dân tộc thống
nhất chống thực dân Pháp xâm lược; mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp
nhân dân, thống nhất mặt trận Việt - Miên - Lào chống Pháp xâm lược; kiên quyết giành độc lập
tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Về nhiệm vụ, bao gồm: Củng cố chính quyền cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược,
bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, nhiệm vụ củng cố chính quyền cách
mạng là quan trọng nhất, bởi vì “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền khó hơn”, đặc biệt
trong bối cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”.
Phương hướng, biện pháp cụ thể:
Về nội chính, xúc tiến bầu cử Quốc hội, thành lập Chính phủ chính thức, lập hiến pháp,
bài trừ nội phản và cải thiện đời sống nhân dân.
21


Về quân sự, động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc
kháng chiến lâu dài.
Về ngoại giao, kiên trì nguyên tắc “bình đẳng tương trợ”, thêm bạn bớt thù, thực hiện
khẩu hiệu “Hoa - Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và “Độc lập về chính trị,
nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp.
Những chủ trương trên đây của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đáp ứng những yêu
cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam; định hướng tư tưởng và trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ; xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, đưa
đất nước vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
c. Sự chỉ đạo của Đảng
Về chính trị, ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Chính phủ tổ chức Tổng tuyển
cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, bầu ra Quốc hội và thành lập Chính phủ chính thức. Ngày 61-1946, cả nước đã tham gia Tổng tuyển cử với hơn 89% cử tri đi bỏ phiếu và bầu ra 333 đại
biểu vào Quốc hội.
Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp phiên đầu tiên, bầu ra Chính phủ chính thức gồm 10 bộ,
kiện tồn bộ máy nhân sự do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 9-11-1946, Quốc hội đã thông
qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Mặt trận dân tộc thống nhất tiếp tục được mở

rộng nhằm tăng cường thực lực cách mạng. Tháng 5-1946, Hội liên hiệp Quốc dân Việt Nam
(gọi tắt là Liên Việt) được thành lập. Các đoàn thể quần chúng và các đảng phái dân chủ lần lượt
ra đời như Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam (5-1946), Đảng Xã hội Việt Nam (7-1946), Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (10-1946).
Về kinh tế, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung chỉ đạo, động viên đông
đảo nhất mọi tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào lớn: tăng gia sản xuất, thực hành tiết
kiệm, lập hũ gạo tiết kiệm. Trên lĩnh vực tài chính, Đảng phát động Tuần lễ vàng, Quỹ độc lập,
Quỹ đảm phụ quốc phòng, Quỹ Nam Bộ kháng chiến... để xây dựng ngân quỹ quốc gia giải
quyết những khó khăn về tài chính. Nhiều thứ thuế vơ lý của chế độ cũ được xóa bỏ, thực hiện
chính sách giảm tô 25%; phát hành giấy bạc Việt Nam (1946)... Nhờ chính sách linh hoạt của
chính phủ, đầu năm 1946 nạn đói cơ bản được đẩy lùi, đời sống nhân dân ổn định, tinh thần dân
tộc được phát huy cao độ.
Về văn hóa, Đảng chủ trương phát động phong trào “Bình dân học vụ” tồn dân học chữ
quốc ngữ để từng bước xóa bỏ nạn dốt; vận động nhân dân xây dựng đời sống mới, nền văn hóa
mới, từng bước đẩy lùi các tệ nạn, hủ tục, thói quen cũ cản trở tiến bộ... Đến cuối năm 1946 cả
nước có thêm 2,5 triệu người dân biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Về tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Nam Bộ. Từ ngày 23-91945, Đảng và Chính phủ phát động phong trào Nam tiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư,
khích lệ, động viên đồng bào Nam Bộ kháng chiến, tuyên dương và tặng nhân dân Nam Bộ danh
hiệu “thành đồng Tổ quốc”.
Về công tác bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, thực hiện sách lược “triệt để lợi dụng
mâu thuẫn kẻ thù, hịa hỗn, nhân nhượng có ngun tắc”, tránh gây xung đột vũ trang với quân
Tưởng. Ngày 11-11-1945, Đảng tuyên bố tự giải tán, nhưng thực ra là rút vào hoạt động bí mật
để làm mất mục tiêu quấy rối của kẻ thù, chỉ để lại một bộ phận hoạt động công khai với danh
nghĩa: “Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đơng Dương”; Chính phủ Việt Nam chấp nhận cung
cấp lương thực, thực phẩm, chỗ ăn ở cho 20 vạn quân Tưởng; tiêu tiền mất giá “quan kim”, “quốc tệ”; bổ
22


sung 70 ghế Quốc hội không qua bầu cử cho một số đảng viên của Việt cách, Việt quốc; mở
rộng thành phần Chính phủ liên hiệp với sự tham gia của nhiều nhân sĩ, trí thức, người khơng

đảng phái và một số nhân vật tay sai của quân Tưởng.
Đầu năm 1946, do sự thỏa thuận, dàn xếp của phe đế quốc, Chính phủ Pháp và Chính phủ
Trung Hoa dân quốc đã ký kết với nhau bản “Hiệp ước Trùng Khánh” (cịn gọi là Hiệp ước HoaPháp, ngày 28-2-1946), Chính quyền cách mạng Việt Nam đứng trước tình thế vơ cùng khó
khăn.
Ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã ký với đại diện Chính phủ Cộng hịa Pháp tại Hà Nội, J.Xanhtơny bản Hiệp định sơ bộ. Trong
đó nêu rõ: Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện,
tài chính và qn đội riêng nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp; Việt
Nam đồng ý để 15.000 quân đội Pháp ra miền Bắc thay thế 20 vạn quân đội Tưởng rút về nước
và sẽ rút dần về nước trong 5 năm; hai bên sẽ tiếp tục tiến hành đàm phán chính thức để giải
quyết quan hệ Việt - Pháp.
Ngày 9-3-1946, Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị Hòa để tiến phân tích, đánh giá chủ
trương hịa hỗn, khả năng phát triển của tình hình và nêu rõ cần nêu cao tinh thần cảnh giác,
tích cực sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào.
Theo tinh thần của Hiệp định sơ bộ, từ ngày 19-4 đến 10-5-1946, đại diện Việt Nam và
Pháp gặp nhau tại Hội nghị trù bị ở Đà Lạt. Từ ngày 31-5 đến 20-10-1946, theo lời mời của
Quốc hội và Chính phủ Pháp, Hồ Chủ tịch dẫn đầu phái đồn của Chính phủ Việt Nam thăm
nước Pháp; phái đoàn Quốc hội Việt Nam do thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đàm phán
chính thức với Pháp tại Hội nghị Phôngtenơblô (Paris - Pháp) từ ngày 6-7 đến 10-9-1946. Tuy
nhiên, do thực dân Pháp vẫn giữ lập trường thực dân, nên các cuộc gặp gỡ, đàm phán đều khơng
đạt kết quả tích cực. Vì vậy, để có thêm thời gian hịa bình, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu
dài, trước khi lên đường về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với đại diện của Chính phủ Pháp
bản Tạm ước 14-9 tại Mác-xây (Pháp), nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi kinh tế,
văn hóa ở Việt Nam, đồng thời hai bên cam kết đình chỉ chiến sự ở Nam Bộ và tiếp tục đàm
phán....
Ở trong nước, dưới sự chỉ đạo của cụ Huỳnh Thúc Kháng quyền Chủ tịch Chính phủ, Bộ
trưởng Bộ Nội vụ, sáng ngày 12-7-1946, lực lượng Công an đã khám xét bất ngờ trụ sở của
Quốc dân đảng ở số nhà 132 Đuyvinhô (nay là phố Bùi Thị Xuân - Hà Nội), khống chế bọn phản
động có vũ trang, tổ chức khám xét và tịch thu được nhiều tài liệu phản động, kết thúc vụ án ở số
7 phố Ôn Như Hầu (nay là Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội). Thắng lợi này đã đập tan hoàn toàn mưu

đồ thâm độc, lật đổ chính quyền cách mạng của bọn tay sai phản động câu kết với thực dân
Pháp, giữ vững chính quyền cách mạng.
Ngày 20-10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đồn Việt Nam từ Pháp về đến cảng Hải
Phịng an tồn. Từ đây công cuộc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, điều mà Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu là không thể tránh khỏi.
2. Đường lối kháng chiến tồn quốc và q trình tổ chức thực hiện (1946-1950)
a. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ và đường lối kháng chiến của Đảng
Hoàn cảnh lịch sử
Cuối tháng 11-1946, thực dân Pháp tấn cơng đánh chiếm Hải Phịng, Lạng Sơn, tiếp đó
chiếm đóng trái phép Đà Nẵng, Hải Dương, tấn công vào các vùng tự do ở Nam Trung Bộ và
23


Nam Bộ, hậu thuẫn cho lực lượng phản động xúc tiến thành lập “Chính phủ Cộng hịa Nam kỳ”
và triệu tập Hội nghị Liên bang Đông Dương... Trong 2 ngày 16 và 17-12-1946, quân đội Pháp ở
Hà Nội tấn công đánh chiếm trụ sở Bộ Tài chính, Bộ Giao thơng cơng chính. Ngày 17-12, chúng
bắn đại bác gây ra vụ thảm sát nhân dân Việt Nam ở phố Yên Ninh, Hàng Bún. Ngày 18-12, đại
diện Pháp ở Hà Nội đơn phương tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ với Chính phủ Việt Nam, đưa liên
tiếp 3 tối hậu thư đòi phía Việt Nam phải giải giáp, phải phá bỏ cơng sự, chướng ngại vật trên
đường phố Hà Nội, giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, đòi thực thi nhiệm vụ kiểm sốt, gìn giữ
an ninh, trật tự thành phố....
Trước tình hình đó, ngày 12-12-1946, Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến.
Ngày 18-12-1946, Hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp tại làng Vạn
Phúc, Hà Đông kịp thời đề ra chủ trương đối phó; quyết định phát động tồn dân kháng chiến.
Ngày 19-12-1946 quân và dân ta và tất cả các đô thị từ Bắc vĩ tuyến 16 trở ra đồng loạt nổ súng
chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Ngày 19-12-1946, Hồ Chủ tịch ra Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định quyết tâm kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Vào 20 giờ 3 phút ngày 19-12-1946, pháo đài Láng bắn loạt đại bác đầu tiên vào Thành Hà
Nội, báo hiệu cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Tại thủ đô, cuộc chiến đấu diễn ra trên từng
căn nhà, góc phố vơ cùng ác liệt. Nhiều trận đánh giằng co, quyết liệt, một mất một còn giữa

quân dân Hà Nội và Pháp ở Bắc Bộ phủ, Bưu điện Bờ Hồ, Chợ Đồng Xuân, Ga Hàng Cỏ, Ô Cầu
Dền…với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Nội dung đường lối kháng chiến của Đảng.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng được thể hiện trong nhiều văn kiện
quan trọng như: Chỉ thị kháng chiến kiến quốc (25-11-1945); Chỉ thị toàn dân kháng chiến (1212-1946); Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946); Tác
phẩm kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh (8-1947). Về cơ bản nội
dung đường lối kháng chiến đề cập đến các vấn đề sau:
Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự
do, thống nhất hoàn toàn.
Phương châm kháng chiến, phát động chiến tranh nhân dân, tiến hành kháng chiến toàn
dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, động viên toàn dân, đoàn kết toàn dân tham
gia cuộc kháng chiến “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi phố là
một mặt trận”.
Kháng chiến toàn diện là kháng chiến trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ đánh địch
bằng quân sự mà cả về chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa tư tưởng, trong đó quân sự là mặt
trận hàng đầu.
Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong bối cảnh so sánh lực
lượng ban đầu quá chênh lệch, khơng cân sức, đồng thời có thời gian, vật chất để chuyển hóa lực
lượng nhỏ thành lớn, yếu thành mạnh. Kháng chiến lâu dài nhưng không phải là kéo dài vô thời
hạn mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng chiến có bước tiến nhảy vọt về
chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, phải tự lập, tự cường, tự cấp, tự túc về mọi mặt;
phải dựa vào nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn lực vật chất, tinh thần vốn có trong
24


nhân dân làm sức mạnh, chỗ dựa chủ yếu của cuộc chiến tranh, làm cơ sở để sử dụng và phát
huy ngoại lực khi có điều kiện.
Đường lối kháng chiến của Đảng là ngọn cờ dẫn đường, động viên toàn Đảng, toàn quân,

toàn dân phát huy cao nhất mọi nguồn lực, mọi nguồn sức mạnh để đánh thắng kẻ thù xâm lược,
được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng và trở thành nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp.
b. Tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến từ năm 1947 đến năm 1950
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội rút
về hoạt động tại các căn cứ ATK Việt Bắc an toàn, trực tiếp chỉ đạo cách mạng.
Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quan tâm đến phong trào tăng gia sản xuất, tự cấp,
tự túc lương thực, đảm bảo đời sống cho bộ đội và nhân dân. Tiếp tục duy trì phong trào bình
dân học vụ, dạy và học của các trường phổ thông các cấp. Tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của
lực lượng tiến bộ và nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Về quân sự, triển khai thế trận chiến tranh nhân dân đánh bại hoàn toàn kế hoạch đánh
nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp.
Tháng 6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở một chiến dịch quân sự
lớn tiến công địch dọc biên giới Việt - Trung từ Đình Lập (Móng Cái) đến thị xã Cao Bằng (Cao
Bằng) (Chiến dịch Biên giới thu đông 1950) nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực
địch, mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, tạo hành lang rộng mở quan hệ với Trung Quốc và các nước
xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy cuộc kháng chiến lên giai đoạn mới.
Trên mặt trận ngoại giao, Đảng chủ trương tích cực tranh thủ và đặt quan hệ ngoại giao
với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Với Lào và Campuchia, Đảng, Nhà nước Việt Nam
chủ trương “mở rộng mặt trận Lào - Miên” để giúp bạn và cùng bạn chiến đấu.
3. Đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi (1951-1954)
a. Đại hội đại biểu lần thứ II và Chính cương của Đảng (2-1951)
Để đưa cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn mới, từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951,
Đảng triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ II tại thơn Chinh, xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa, tỉnh
Tuyên Quang.
Ở trong nước, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam giành được nhiều thắng lợi quan
trọng. Cách mạng Lào và Campuchia có nhiều chuyển biến tích cực.
Trên cơ sở đó, Đại hội quyết định mỗi nước Việt Nam, Lào và Campuchia cần có một
đảng riêng. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai và lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam
[4]. Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Báo cáo

Hồn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân tiến tới chủ nghĩa xã hội của
Trường Chinh; Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng của Lê Văn Lương…
Báo cáo của Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày tồn bộ đường lối cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân của Việt Nam. Nội dung cơ bản của đường lối này phản ánh trong Chính
cương của Đảng Lao động Việt Nam, cụ thể:
Tính chất của xã hội Việt Nam có ba tính chất: “dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và
nửa phong kiến”. Cuộc kháng chiến là để giải quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa tính chất dân chủ
nhân dân và một phần thuộc địa.
25


×