Tải bản đầy đủ (.pdf) (362 trang)

Giáo trình lịch sử việt nam tập 4 từ 1858 đến 1918 (nxb đại học sư phạm 2012) nguyễn ngọc cơ, 362 trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (21.87 MB, 362 trang )

E> tau vien

"Lt WA}
GIAO

(

5E

ˆ

sfc,

Ngoc Go (Chu bién) - Tran Duc Cuong

2012
20128634

LIEH SU VIET NAM
Tu 1858 dén 1918

2012 | PDF | 362 Pages



|

im

Illl


20128634

HA XUAT BAN DAI HOC SU PHAM



L

Giáo trình lịch sử

-»Šềễ.

==

|


NGUYÊN NGỌC CƠ (Chủ biên) - TRẤN ĐỨC CƯỜNG

GIÁO TRÌNH

LỊCH SỬ VIỆT NAM
Tập IV

Từ 1858 đến 1918
(In lần thứ hai)

NHÀ XUẤT BAN ĐẠI HỌC SU PHAM



Mã số: 01.01.478/1181 - ĐH 2012 - 246


MỤC LỤC
Trang
Chương 1

VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU CUỘC XÂM LƯỢC
CUA LIEN QUÂN PHÁP - TÂY BẠN NHA (1858 ~ 1867)
I. Nước Việt Nam giữa thế ki XIX trước cuộc

xâm lược của tư bản Pháp .
1. Bối cảnh quốc tế
2. Tình hình trong nước .

„10

II. Liên quân Pháp - Tay Ban Nha xâm lược Việt Nam ........................ 11
1. Tư bản Pháp và Tây Ban Nha tìm cớ can thiệp vào Việt Nam

............ 22

2. Mặt trận Đà Nẵng và những cuộc chiến đấu chống Pháp đầu tiên

của quân dân Việt Nam (9/1858-2/1959)...................ccuuicossierre 25
3. Về một số trận đánh tiêu biểu trên chiến trường Đà Nẵng 1858 -1859...... 30
4. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công Gia Định

và các tỉnh miền Đơng Nam Kì. Nhân dân Nam Kì chống xâm lược.
Hiệp ước 1862

2. Về phong trào nông dân khởi nghĩa dưới thời Nguyễn
3. Vai trò của các giáo sĩ trong cuộc xâm lược Việt Nam của Pháp.........

IV. Thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Ki. Nhân dân Việt
Nam tiếp tục kháng chiến chống xâm lược .......................-.--ccscceccekcev 64
1. Tình hình Việt Nam từ sau Hiệp ước 1862 đến năm 1867.................... 64

2. Phong trào phản đối Hiệp ước Nhâm Tuất.
Khởi nghĩa chống Pháp tiếp tục ở các tỉnh Nam KÌ.........................v.es 69
3. Cuộc đấu tranh yêu nước trên mặt trận văn hố tư tưởng.................... 73
4. Ba tỉnh miền Tây Nam Kì bị giặc chiếm.....
5. Nhân dân ba tỉnh miền Tây tiếp tục kháng chiến.
Câu hỏi


Chương 2
VIỆT NAM TỪ 1867 ĐẾN 1874
I. Tình hình nước Việt Nam từ sau khi Pháp chiếm đóng Nam Ki

đến khi chúng đem quân ra Bắc Kì lần thứ nhất............................. 93
1. Tình hình nhà nước phong kiến Nguyễn ...............................
---- Ni 93

2. Chính sách thống trị của thực dân Pháp tại Nam Kì

_ trong những năm đầu thời kì thuộc địa................. ......---:----- _—_. 105

II. Thực dân pháp tiến đánh Bắc Ki lần thứ nhất.

Hiệp ước Giáp Tuất 1874....................---.--2ccccccnhnnhnn22

re
117

1. Vấn đề sông Hồng trong âm mưu của Pháp
3. Cuộc kháng chiến của nhân dân Bắc Kì. Trận Cầu Giấy lần 1(21/12/1873).
Hiệp ước Giáp Tuất 15/3/1874..................... eo.

178.

., P0707

a5...

6h nï-4(444Ầ....

122

129

Chương 3

VIỆT NAM TỪ 1874 ĐẾN 1884
I. Tình hình Việt Nam sau Hiệp ước Giáp Tut 1874.........................- 130

1. Ni tr, ngoi giao ..........................-c esecôôe ơ

2. Trào lưu đòi cải cách .....................

ng


.

HH kg

130

134

3. Những chuyển biến kinh tế, xã hội, văn hố ở Trung Kì

và Bắc Kì trong những năm 1874/1884......................-.à
cc cccsireeirre 135
-H. Thực dân Pháp xâm lược Bắc Ki lần 2.

Sự sụp đổ của nhà nước phong kiến Nguyễn .............................. 139

__1. Tư bản tài chính hình thành ở Pháp

và cuộc vận động xâm lược tồn bộ Việt Nam

2. Quân

.................................... 139

Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai ........................-....---ccc-ccSccS<5- 142

3. Cục diện chiến trường Bắc Kì sau khi Pháp chiếm Hà Nội lần thứ hai........ 145
4. Trận Cầu Giấy lần thứ hai (19/5/1883) H. Rivie tử trận...................... 149
5. Quân Pháp tấn công thẳng vào Thuận An. Hoà ước Quý Mùi 1883... 151


6.:Phong trào phản đối Hoà ước Quý Mùi. Nội bộ triều đình Huế lục đục.... 156
_ 7, Quân Pháp tiếp tục mở rộng chiếm đóng các tỉnh đồng bằng
và trung du Bắc KÌ..........................¿LG cành ng Tưng HH Hưiệt 158.
8. Quy ước Thiên Tân 11/5/1884 và Hiệp ước Patơnốt 6/6/1884............ 161

Câu hỎIi. . . . . . . . . . . . .

ánh

HH HH Hi HH TH



KH Hàn Hà ch gà

165


Chương 4

VIỆT NAM TỪ 1885 ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XIX
I. Nhân dân Việt Nam đấu tranh chống chính sách
bình định của thực dân Pháp ..........................-.-cà St nHeree 166
1. Tình hình Việt Nam sau các hiệp ước 1883 và 1884.......................... 166

2. Cuộc phản công của phe chủ chiến tại Kinh thành Huế —
vua Hàm Nghỉ rời bỏ Kinh thành, kêu gọi Cần Vương........................ 172
3. Bước đầu chế độ thuộc địa của Pháp ở Việt Nam ...........................-- 184

Il. Phong trào vũ trang chống Pháp tiếp tục phát triển

và lan rộng trong những năm cuối thế kỉ XIX........................... -.... 198
1. Chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi và tình hình ứng nghĩa trong cả nước . 198
2. Cuộc đấu tranh tự vệ của nông dân và các dân tộc thiểu số
ở miền núi chống Pháp ..........................--sc the
261

III. Những biến đổi về kinh tế - xã hội Việt Nam
trong nhitng nam cuGi thé Ki XIX oo...

|

cece eee sesccsssseeesennenseaes 277

1. Những thay đổi về chính trị..................

.

278

2. Về việc hoạch định biên giới Việt - Trung cuối thế kỉ XIX................... 281

3. Những thay đổi trong cơ cấu kinh tế .................... —

283

4. Những chuyển biến mới về văn hoá, giáo dục.......................---.--ccs: 288

5, Bộ mặt thành thị đổi mới...................---c:s--2222tHvy
SE 21111 11x E1rrerrrke 289
6. Tình hình các giai cấp trong xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX............. 291

78... ANEEERheaaä

.a..

295

Chương 5

VIỆT NAM TỪ 1897 ĐẾN 1914
I. Ách thống trị của thực dân Pháp và những chuyển biến
về kinh tế- xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX..................................-+ị 296

1. Chính trị thâm độc.............. _—

297

2.
3.
4.
5.

300
305
306
308.

Khai thác bóc lột về kinh tế ...................... KH HT HH E13 111 0118 1 1kg
Tăng cường bộ máy quân sự, cảnh sát tòa án và nhà tù...................
Nơ dịch về văn hóa. . . . . . . . .
... :-. S1 v11 21v 2 141811 ri `.....

Những biến chuyển về xã hội .....................
- n S.c tre


II. Ảnh hưởng, tác động của tân thư, tân văn
và các trào lưu tư tưởng tư sản từ bên ngoài vào Việt Nam............. 313

1. Ảnh hưởng từ Trung Quốc..................------:-cscccrsrrrree Hư

"- 313

2. Ảnh hưởng từ Nhật Bản........................---ccccccEEEE111EEEerik ...... 314
8. Ảnh hưởng của tân thư, tân văn, tân báo..........................--..ccccccccccre 415
III. Phong trào yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ XX....................... 316
1. Phan Bội Châu và xu hướng bạo động................ ma eeasansseeeeeeeeenaaeenas 316

2. Phan Châu Trinh và xu hướng cải cách.....................-..các se rreee 321
3. Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907) ....................-.- ca

323

4. Phong trào Duy tân và Phong trào chống thuế ở Trung Kì (1906-1908) .324
5. Phong trào nơng dân n Thế trong những năm đầu thế kỉ XX......... 325
6. Vụ Đầu độc binh lính Pháp ở Hà nội (27/6/1908)........................-----‹: 329

7. Các cuộc đấu tranh của đồng bào dân tộc ít người............................ 330

8. Việt Nam Quang phục hội (1912).......................----.--: ¬
9-78.


8n...

¬

331

333

Chương 6

VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM :
CHIẾN TRANH THỂ GIỚI THỨ NHẤT (1914-1918)
I. Chính sách cai trị thời chiến của thực dân Pháp
và tình hình kinh tế- xã hội Việt Nam trong thời kì chiến tranh ........ 334

II. Phong trào dân tộc ở Việt Nam trong những năm
Chiến tranh thế giới thứ nhất...........................---- Scnnncsenheeeieree 337

1. Các cuộc bạo động của một số hội viên Việt Nam Quang phục hội. 337

2. Vụ mưu khởi nghĩa ở Huế.......................-.-:-ccccss: "

338

3. Khởi nghĩa của binh lính và tù chính trị ở Thái Nguyên (8/1917)........ 339

4. Những cuộc bạo động chống Pháp của đồng bào dân tộc thiểu số... 342

5. Hoạt động của các hội kín Nam KÌ....................--.-..csccccccceccevereee. 345


6. Phong trào cơng nhân Việt Nam đầu thế kỈ XX .....................-....- 350

+ 718120888000008n8............ essen 351

KSC IWAN. “A3...

352

Tài liệu tham khảO.................................
SH nàn kh
na HH
356


Chương Ï

VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU

CUỘC XÂM LƯỢC CỦA LIÊN QUÂN
PHAP - TÂY BAN NHA (1858 -_ 1867)
NỘI DUNG CHƯƠNG
- Âm mưu xâm lược Việt Nam của tư bản phương Tây và Pháp.
- Tình hình nước Việt Nam ở nửa đầu thế ki XIX trước cuộc xâm lược của tư

|
bản Pháp.
- Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam từ 1858
đến 1873.

I.


,

NUGC VIET NAM GIỮA THẾ KỈ XIX TRƯỚC CUỘC XÂM LƯỢC

CÚA TƯ BẢN PHÁP

1. Bối cảnh quốc tế
Từ đầu thế kỉ XV, phương thức sản xuất tư bản xuất hiện ở phương Tây và
ngày càng phát triển mau chóng.
|
Đến thế kỉ XVII-XIX, nhiều quốc gia Âu Mĩ như Hà Lan, Anh, Mĩ, Pháp,

Đức, Ý... đã tiến hành cách mạng tư sản thành công. Cách mạng tư sản Pháp
1789 - 1794 lật đổ chế độ phong kiến và dọn đường không chỉ cho chủ nghĩa tư
bản ở Pháp mà còn cho cả một số nước khác ở châu Âu. Cuối thế kỉ XIX, chủ _
nghĩa tư bản đã chiếm địa vị ưu thế và thắng lợi tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Sự ra đời và xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa đã đặt ra nhu cầu cấp bách về
thị trường và nguồn nguyên liệu cho sản xuất.
Thành quả của cuộc cách mạng cơng nghiệp với những máy móc tinh xảo

về giao thơng vận tải và kĩ thuật quân sự đã hỗ trợ rất nhiều cho từ bản phương«
Tây thực hiện các cuộc chién tren’

xâm lược thuộc địa.


Tại Anh, từ cuối thế kỉ XVIHI đã có máy tự động. Đến giữa thế ki XIX, viéc

sản xuất bằng máy đã hoàn toàn thay thế lao động bằng tay. Năm 1800, Anh mới


chỉ sản xuất 193.000 tấn gang, đến năm 1840 đã sản xuất được 1.400.000 tấn. .

Năm 1830 - Anh bắt đầu làm đường xe lửa đầu tiên và nhanh chóng phát
_triển kĩ nghệ đường sắt. Từ 1839 đến 1842 - Anh đã xâm lược Trung Quốc.
Chạy đua với Anh, Pháp mang quân sang phương Đông.
Trong khi kĩ thuật phương Tây có bước phát triển mau lẹ như vậy thì phần
lớn các nước phương Đơng, tiêu biểu như Trung Quốc, Ấn D6, Nhat Ban...

vẫn nằm trong trạng thái lạc hậu. Nền kinh tế các nước này tuy đã có tiến bộ,
nhưng cơ bản vẫn là nền kinh tế tự nhiên. Thành thị chưa phải là những trung
tâm kinh tế, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của xã hội và cũng khơng có mối
_ quan hệ chặt chế với nông thôn như các thành thị trung đại Tây Âu. Nhà nước

phong kiến đã suy yếu và trở thành lực lượng bảo thủ, phân động.

Sự yếu kém về kinh tế và kĩ thuật chính là một thách thức lớn đối với các

quốc gia phong kiến phương Đông lúc bấy giờ. _

Ngay từ năm 1850, ở các nước châu Âu người ta đã chế tạo được các cỗ

sting dai bac ban nhanh, nịng có rãnh xoắn, đúc bằng thép và nap dan dang
sau. Súng tay bắn bằng đá lửa được thay thế bằng súng có pít tơng và quy lát
kiểu bécđăng. Những chất nổ mạnh như đi namít, nitrơgrixêrin, thuốc khơng
khói... đã được chế tạo. Chiến thuyền bằng gỗ, chạy nhờ sức gió, đã được thay
bằng tàu máy có chân vịt, vỏ sắt được trang bị súng đại bác và thuỷ lôi.
Trong khi các quốc gia tư bản chủ nghĩa như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,
Anh, Pháp... đang nhòm ngó và tìm cách đứng chân ở các thương điếm hoặc
căn cứ qn sự của chúng ở phương Đơng thì trong nội bộ các nhà nước phong


kiến phương Đông đang diễn ra một quá trình khủng hoảng trầm trọng.

Quan hệ sản xuất phong kiến và sự bóc lột nặng nề của giai cấp địa chủ đã
làm bùng nổ hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân, làm lung lay giai cấp thống

trị và dẫn chế độ phong kiến tới chỗ tan rã, sụp đổ. Tại nhiều quốc gia phương

Đông, do nhà nước trung ương tập quyền suy yếu nên tình trạng cát cứ trở

thành phổ biến, phá vỡ sự thống nhất quốc gia, gây cản trở cho sự hình thành
thị trường dân tộc.
Lợi dụng tình trạng trên, các nước tư bản phương Tây lần lượt chiếm các
. nước phương Đông và biến thành thuộc địa.

Ấn Độ sau thời kì hùng mạnh dưới vương triều Môgôn vĩ đại (cuối thế kỉ

XVI) da bi cdc nước phương Tây xâu xé. Cuối cùng thực dân Anh dựa vào các

8


chúa phong kiến và các thân vương đã nhanh chóng xâm chiếm toàn bộ Ấn Độ.
Năm 1857, Anh xây dựng gần 7000km đường sắt ở Ấn Độ- nhằm tăng cường
khai thác nguyên liệu và tiêu thụ hàng hoá. Sau khi đàn áp xong cuộc khởi
nghĩa Xi Pay ở quanh ving Dé Li, Anh tiến về phía Miến Điện, Mã Lai. Sau
khi đã làm chủ Úc,

Tác Mania, Tân Tây Lan, tiêu diệt gần như hoàn toàn dân


bản xứ và đưa dân Anh đến khai khẩn. Nam Dương quần đảo (Inđônêxia) - mặc
đầu đã anh dũng đứng lên chống lại sự xâm lãng của tư bản phương Tây thế kỉ

XVIII, cuối cùng vẫn bị thực dan Ha Lan đô hộ.

Trung Quốc - một quốc gia phong kiến tiêu biểu ở phương Đông cũng bị
các nước

phương

Tây nhịm

ngó. Năm

1816, người Anh

đem

sang bán ở

Trung Quốc 3290 thùng thuốc phiện (của Ấn Độ và Ba Tư). Năm 1830, con số
đó tăng lên 18.750 thùng và 1836 - 27000 thùng. Chính phủ Mãn Thanh ra lệnh

cấm nhưng không được, bèn tịch thu và tiêu huỷ số thuốc phiện nói trên. Người
- Anh địi bồi thường và địi tự do buô bán thuốc phiện. Chiến tranh Nha phiến
Trung - Anh bùng nổ. Năm 1840, Anh chiếm Thượng Hải, Nam Kinh. Nhà Thanh
ở vào thế yếu đã phải mở 5 hải cảng cho nước ngồi tới bn bán.
Các nước Âu - Mĩ nhìn thấy ở Trung Quốc một thị trường béo bở, cũng bắt
chước Anh và năm 1844, chúng đã dùng vũ lực buộc Trung Quốc kí kết những


hồ ước bất bình đẳng.

Từ năm 1856 đến 1858 - Liên quân Anh - Pháp khai chiến với Trung Quốc,
bắt triều đình Mãn Thanh kí hiệp ước nhượng bộ rồi hợp sức với triều đình
tiêu điệt phong trào nơng dân Thái Bình Thiên quốc, có cả qn Mĩ tham gia.
Cuối cùng Trung Quốc phải cam chịu thân phận của nước nửa thuộc địa, nửa
phong kiến.
Sau chiến tranh Nha phiến ở Trung Quốc, đến lượt nước Nhật bị gõ cửa.

Lúc này mâm mống tư bản chủ nghĩa đã nảy nở ở các tỉnh miền Nam của đất
nước Mặt trời. Năm 1853, tàu chiến Mi đến địi Nhật mở cửa thơng thương, sau
đó là tàu chiến Nga. Nhật khơng có hải qn, khơng có pháo binh đã phải kí
hiệp ước thương mại với Mĩ, Anh, Nga và nhiều nước khác. Từ 1858 trở đi,

Nhật đã trở thành một thương trường của hầu hết các nước phương Tây.

Như vậy là cho đến giữa thế kỉ XIX, nước Việt Nam phong kiến tuy vẫn giữ

được nền độc lập của mình nhưng khó có thể tránh khỏi sự nhịm ngó và khiêu
khích xâm lược, trong khi đó thì nhiều nước xung quanh đã rơi vào nanh vuốt
của chủ nghĩa tư bản phương Tây.


2. Tình hình trong nước

Về chính trị:
Kể từ năm 1802 đến năm 1858, triều Nguyễn đã có hơn 50 năm xây dựng
và củng cố. Đó là một đất nước độc lập, thống nhất, có đầy đủ chủ quyền; có
một nền kinh tế và tổ chức xã hội, một thế lực khá mạnh mẽ, khơng thua kém
bất kì quốc gia nào trong khu vực Đông Nam châu Á.

Tuy vậy, chế độ phong kiến Việt Nam lúc này đã và đang ở vào giai đoạn

khủng hoảng nghiêm trọng. Những mầm mống tư bản chủ nghĩa đầu tiên xuất

hiện ở nước ta. Từ cuối thế ki XVHI, ngày càng mâu thuẫn với quan hệ kinh tế

phong kiến bao đời thống trị xã hội, nay trở thành rào cản của sự tiến hoá.
Nền kinh tế tiểu nông đang cần được phát triển nhưng bị chế độ chiếm hữu

và bóc lột phong kiến uy hiếp nghiêm trọng. Nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân
nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đang lên và quan hệ

sản xuất đã tỏ ra lỗi thời cần phải được thay thế.

Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp và địng họ, ngay sau khi lên ngơi, các vua
triều Nguyễn, từ Gia Long đến Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đã tìm mọi cách
phục hồi và củng cố quan hệ sản xuất cũ, bóp chết các lực lượng sản xuất mới
vừa manh nha xuất hiện.

Về mặt chính trị, Nhà Nguyễn cho xây dựng một bộ máy chính quyền quan
liêu, độc đoán và sâu mọt.
Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam có những dịng họ lập vương
triều mới sau khi lãnh đạo nhân dân đạp đổ ách thống trị của ngoại bang hoặc

thay thế những vương triều đã thoái hoá. Nhưng triều Nguyễn được dựng lên là

nhờ kết quả của một cuộc chiến tranh do những thế lực phong kiến suy đồi tiến

hành, được thế lực qn sự nước ngồi giúp sức, phản kích lại phong trào Tây
Sơn, một phong trào đấu tranh cho quyền lợi của nhân dân và dân tộc.

Sau khi tái lập, Nhà Nguyễn cho thiết lập một chế độ thống trị bằng một
thể chế nhà nước quân chủ chuyên chế, công khai chống lại các lực lượng xã hội
và các phe cánh khơng cùng chính kiến.
Nhà Nguyễn thiết lập nền cai trị bằng những hình phạt khắc nghiệt, đã
man nhất thời trung cổ. Mọi quyền hành đều tập trung trong tay nhà vua. Vua
tự xưng la Thién tử - "Con trời", thay trời trị dân. Quyền hành của nhà vua
được coi là thần khí thiêng liêng, vơ biên, vơ hạn. Đối với bất cứ ai, vua để
- sống thì được sống, bát chết thì phải chết. Quan đại thần Trần Hi Tăng đã
từng bị bắt uống thuốc độc chết vì phản đối hiệp ước 1862. Từ năm 185910


1884, hàng trăm quan văn, võ bị khép vào tử tội vì để thất trận, cho đù có lí do
chính đáng.
.

Dưới vua có Cơ mật viện, 6 bộ và 5 phủ đơ thống”). Ngồi ra cịn có các
danh hiệu tứ trụ, tam cơng, tam thiếu, một số ít cận thần được dự bàn quốc
sự lớn lao, nhưng ý kiến cuối cùng, quyết định vẫn phải là ý kiến của nhà
vua.Giai cép địa chủ và hệ thống quan lại phong kiến là rường cột của chế độ
chuyên chế. ˆ
Bộ luật Gia Long được soạn thảo và áp dụng nhằm duy trì trật tự phong
kiến. Theo luật này, chẳng những vua quan có quyền bắt giết những người
"phản nghịch" mà cịn có quyền bắt giết cả những người có ý làm nghịch mà
chưa làm gì, thậm chí chỉ là một bài thơ, một lời, một câu có ngụ ý phạm
thượng.

Các hàng quan đầu tỉnh,,đầu phủ, huyện đều do triều đình bổ nhiệm. Tất cả

đều do thi cử mà ra, trong đó cố nhiên là đám "con ông cháu cha" là những


người dễ đỗ đạt nhất. Ở vùng thượng du, triều đình khơng thể cai trị trực tiếp thì
thơng qua các tù trưởng để nối quyền. Dưới các thơn xã, quyền bính nằm trong
tay bộ phận phú hào cả về kinh tế, chính trị, giáo dục. Vận mạng của dân làng
phụ thuộc vào các tổng lí, kì dịch, quần chúng nhân dân bị áp bức thậm tệ.
Về kinh tế tài chính:

Chế độ sở hữu ruộng đất công đến thời Nguyễn dần dần bị thuu hep. Sở
hữu ruộng đất tư nhân, nhất là các giai cấp địa chủ phong kiến ngày càng phát

triển, lấn át ruộng công của thôn xã và của Nhà nước. Mâu thuẫn giữa
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nông thôn diễn ra ngày càng sâu
Mọi nhu câu về vật chất của nhà nước đều phải thông qua chính sách bóp
nhân dân, nhất là nơng dân và thợ thủ cơng - bọn hào lí địa phương vì
càng có cơ hội lộng hành.

lực
sắc.
nặn
thế

® Viện Cơ mật do Minh Mạng lập ra năm 1834, là cơ quan cấp cao nhất giúp vua giải quyết
các công việc hệ trọng của đất nước.
- 6 bộ (Binh, Họ, Hình, Lại, Lễ, Cơng).

- 5 phủ đô thống lãnh đạo 5 quân là Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu do 5 viên quan caocấp (đô thống)
đứng đầu.
- Tứ trụ: Người đứng đầu điện Cần Chánh, điện Văn Minh, điện Võ Hiển và Đông Các đại
học si.

- Tam cơng: Thái sư, Thái phó, Thái bảo.

- Tam thiếu: Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo.

II


Sách Minh Mạng chính yếu cho biết, vào năm 1840, tại tỉnh Gia Định "khơng
có ruộng cơng, các nhà giàu đã bao chiếm ruộng tư đến ngàn trăm mẫu, dân

nghèo không được nhờ cậy". Cũng theo sử cũ, vào năm 1852, trong 31 tỉnh thì
có hai tỉnh là Thừa Thiên và Quảng Trị có số ruộng cơng nhiều hơn ruộng tư;
một tỉnh là Quảng Bình ruộng cơng và ruộng tư bằng nhau, còn 28 tỉnh khác

ruộng tư nhiều hơn ruộng cơng. Ở Bình Định, ruộng tư càng nhiều hơn?
Do khơng cịn ruộng cơng để phong cấp cho quan lại như các triều đại
trước nữa, cũng như cần phải có nhiều tiền để chi dùng cho các hoạt động của
Nhà nước, nhất là các hoạt động về quân sự, nên ngay từ thời Gia Long đã đặt

ra các ngạch thuế mới, quy định sổ điển mỗi năm một lần tiểu tu, 5 năm một
lần đại tu, số đinh 5 năm một lần duyệt lại. Đến thời Nguyễn, thuế khoá rất

nặng nề, trong đó thuế ruộng cơng nặng hơn thuế ruộng tư, tức là đánh nặng

hơn vào người dân nghèo không ruộng. Dưới đây là bảng so sánh về số thuế thu
qua một số năm.
Năm

Tiền (quan)

Thóc (hội)


Vàng (lạng)

Bạc (lạng)

1820

1.925.920

2.266.650

500

12.040

1840

2.852.462

5.804.774

1.470

121.114

1847

3.108.162

2.960.134


1.608

128.773

Senho (J. Chaigneau) một người Pháp đã từng giúp rập cơ đồ triều Nguyễn,

năm 1807 đã nhận xét: "Dân chúng vơ cùng đói khổ, vua quan bóc lột thậm tệ" ®
Ngồi tơ thuế nơng. dân thời Nguyễn cịn phải đóng rất nhiều khoản phụ thu

như tiền mân, tiền điệu, cước mẽ, tiền đầu lạt, tiền thập vật, tiền khoán khố, tiền
sai dư, tiền trước bạ, dầu đèn... Tình trạng xiêu tán của nơng dân diễn ra rất

nghiêm trọng, đặc biệt là ở vùng đồng bằng sơng Hồng, ruộng ít, dân đơng. Từ
năm 1802 đến 1806, tại các trấn Hải Dương, Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam Hạ
và Thượng, Hồi Đức, Thái Ngun, Hưng Hố, dân cư của 370 thôn phải xiêu
tán. Năm 1826, tại 13 huyện thuộc trấn Hải Dương dân xiêu tán mất 108 xã
thơn, ruộng bỏ hoang hơn 12.700 mẫu. Đói kém thường xun xảy ra. Đó là
chưa kể các nạn ơn dịch, vỡ đê, hạn hán. Thời Tự Đức, đê Văn Giang ở Hưng

Yên vỡ 18 năm liền, biến cả vùng đồng bằng phì nhiêu ở Khối Châu thành bãi
® Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục (Chính bộ) tập 21, đệ nhị kí. Q.200.
NXB Khoa hoc xã hội. 1969. Tr 158.

® J.Chaigneau: "DAn trong Contribution 4 l'histoire dela nation Vietnamienne (Gop phan
tim hiểu lịch sử dan toc Viét Nam). El Scocialas, Paris 1955. P.85.

12


đất hoang. Dân cư kéo hàng đoàn đi các nơi xin ăn. Năm 1859, một trận đói

ghê gớm cướp đi sinh mạng của 60 vạn nhân dân các tỉnh Trung Kì và Bắc Kì.

Để giải quyết những khó khăn về kính tế, tài chính, Nhà Nguyễn đã chú ý

đến việc khai hoang. Từ năm 1802 đến 1855, triều đình ban hành 25 quyết định
về khẩn hoang, trong đó có 10 quyết định ở Lục tỉnh, 2 ở Bắc thành, 1 ở vùng '

Kinh kì và 6 đối với tồn quốc?” Hình thức khai hoang chủ yếu là chiêu mộ dân

phiêu tán khai hoang lập ấp, xã. Chế độ đồn điền phát triển mạnh ở Lục tỉnh, Nhà
nước dùng binh lính và tù nhân bị lưu đày khai hoang hoặc Nhà nước giao cho tư
nhân chiêu mộ dân lập đồn điền, dân đồn điền được tổ chức thành cơ ngũ.
Năm

1828, chế độ doanh điền được ban hành, theo đó Nhà nước đứng ra

quy hoạch và góp vốn ban đầu, cịn nhân dân thì hợp nhau góp cơng, góp sức
khai hoang lập làng, mở rộng diện tích canh tác. Một số huyện ven biển Bắc Kì
đã ra đời theo phương thức này. Nguyễn Công Trứ lập ra hai huyện Kim Sơn,

Tiền Hải và mấy tổng ở Nam Định.

Nguyễn Văn Thoại đào kênh Núi Sập Thoại Hà, kênh Vĩnh Tế và khẩn hoang

vùng Châu Đốc (An Giang).

Trương Minh Giảng lập được 25 thôn vùng biên giới Việt Nam - Campuchia;

Nguyễn Tri Phương lập được 21 cơ đồn điền và tổ chức 24 ấp ở Lục tỉnh. Diện
tích canh tác tăng nhanh: năm


1820 tổng cộng có 3.076.300 mẫu, đến năm

1840 có 4.063.892 mẫu, năm 1847 tăng lên 4.278.013 mẫu.

Công việc khai khẩn đất hoang tuy đạt được một số thành tựu, nhưng rồi
thành quả khai hoang hoặc trước, hoặc sau lại rơi vào tay giai cấp địa chủ
phong kiến. Sách Lịch triểu hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cho biết:
"Số nhà giàu có vùng có 40, 50 nhà, có vùng 20, 30 nhà, mỗi nhà có 50, 60 điền
tốt, trâu bị có tới 200 con".
'
Theo Dai Nam thực lục vào năm 1831, tai tinh Binh Dinh "Nha hao phi

kiêm tinh dén
ruộng công thì
bao chiếm, dân
Thực trạng
nghiệp trở nên

1-2 tram mẫu mà người nghèo khơng một thước đất". Cịn về
"ruộng tốt màu cường hào chiếm cả, có thừa ra thì hương lí lại
chỉ được phần đất rắn, xác màu")
trên khiến cho lực lượng sản xuất bị hao mịn, kinh tế nơng
sa sút tiêu điều. Người nông dân không thiết tha với sản xuất,

0 Vũ 'Huy Phúc, Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế ki XIX, NXB KHXH,

Ha Noi, 1979, -Tr 126.

@. Str quán triều Nguyễn, Đại nam thực lục (chính biên), Tập XXI đệ nhị kí, quyển 20,


NXB KHXH, Ha Néi, 1969, Tr 58.

13.


canh tác. Cơ sở kinh tế phong kiến tự cung, tự cấp lại được phục hồi và
củng cố.
Để vượt qua đói nghèo, những người nơng dân Việt Nam đã dũng cảm kiên

trì chống chọi với thiên nhiên. Họ tổ chức đắp đê phòng lụt, đào mương chống
hạn "vắt đất ra nước thay trời làm mưa" và tự tổng kết kinh nghiệm sản xuất để
truyền lại cho đời sau. Nhân đân các địa phương ra sức phát triển kinh tế gia.
đình, làm thêm nghề phụ, trồng thêm nhiều loại cây lương thực mới. Vì vậy cho
đến giữa thế kỉ XIX, nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam đã khá đa dạng. Cơ cấu
cây trồng, vật nuôi đã khá phong phú. Tuy vậy, do nhiều yếu tố tác động, nông

nghiệp nước ta vẫn không thể nào vượt ra khỏi phương thức canh tác cổ truyền,
với những công cụ sản xuất thô sơ, lạc hậu, năng xuất thấp. Nghèo đói vẫn ln
ln rình rập và de doa cuéc sống của người nông dân. Tình trạng nơng nghiệp
- một ngành sản xuất dược Nhà nước coi trọng hơn cả đã như vậy, thì cơng

thương nghiệp lại càng bi đát hơn. Sự bế tắc của công thương nghiệp trước hết
biển hiện ở sự mai một của các ngành nghề, vốn đã xuất hiện và thịnh đạt ở các
thế kỉ trước như các nghề thủ công truyền thống, nghề đóng tàu thuyền, nghề
khai mỏ... Nhà nước phong kiến giữ độc quyền về khai mỏ. Hồi đầu thế kỉ XIX,
ở nước ta có chừng 139 mỏ đủ loại. Ngồi các mỏ do triều đình trực tiếp chỉ

đạo khai thác, có một số mỏ do các chủ tư nhân người Việt hoặc người Hoa chủ
trì. Việc sản xuất trong các mỏ này hết sức lạc hậu, với các hình thức bóc lột

mang nặng tính nơ dịch... Các mỏ do tư nhân người Việt hoặc người Hoa đứng
ra lĩnh trưng phải chịu mức thuế sản vật rất nặng nề. Hoạt động của ngành khai

mỏ lại chỉ giới hạn trong khuôn khổ cung cấp nguyên liệu cho các xưởng thủ
công, cho nên khơng thể phát triển được. Cơng nghiệp vì vậy cũng khơng có đủ

điều kiện để trở thành một ngành kinh doanh độc lập mà lại có xu hướng hoà

tan vào nên kinh tế tự cung tự cấp
Các nghề thủ công dân gian
thụ kém, do tục giấu nghề và cịn
của triều đình như việc quy định

của xã hội phong kiến lạc hậu.
bị hạn chế: do thiếu nguyên liệu, do sức tiêu
do vô số các quy định hà khắc, quái đản khác
màu vải, chất vải được dùng cho từng hạng

dân, kiểu cách và kích thước nhà cửa cho các hạng dân được làm... Việc cấm
dân họp chợ và hạn chế việc chuyên chở lúa gạo, sắt, thép, diêm tiêu... đã làm
cho giao lưu hàng hố trong nước gặp khó khãn, thị trường thiếu tập trung và

thống nhất.
Nền kinh tế hàng hoá bị thu hẹp. Các ngành kinh doanh lớn đều do triều
đình trực tiếp quản lí. Các địa điểm thương mại được mở mang trước đây bị thủ
tiêu. Các công xưởng quan trọng như đúc súng, đúc tiền, chế tạo đồ ngự dụng;
14


các cơng trình xây cất cung điện, dinh thự, thành quách, lăng tẩm... đều do bộ

Công phụ trách. Chế độ làm việc trong các công xưởng, công trường này đều
theo chế độ cơng tượng cũ kĩ, mang nặng tính chất cưỡng bức lao động. Thợ

giỏi ở các địa phương bị bất đưa về Kinh thành rồi phiên chế thành cơ ngũ làm
việc dưới sự kiểm soát của các quan lại triều đình.
Những chính sách này đã giáng một địn nặng nề vào nội thương Việt Nam,

khiến người lao động chịu thiệt thịi về phương diện mưu sinh, đồng thời cũng
kìm hãm luôn cả ngành sản xuất nông nghiệp - xương sống của nền kinh tế
nước ta thời đó.
. Cũng bởi do các chính sách nói trên nên ở Việt Nam thời kì này, cho dù đã

xuất hiện chế độ phường hội khá chặt chế theo kiểu phương Tây, nhưng các

mối quan hệ chủ - thợ, thợ cả - thợ bạn, và nhiều lí do khác chi phối, đã khiến
cho tài năng của những người thợ Việt Nam bị bóp nghẹt. Nghề phụ trong các

gia đình ở thơn q cũng bị đình đốn. Thủ cơng nghiệp hầu như bị tê liệt.

Về ngoại thương:
Chính sách "bế quan toả cảng", đóng cửa khố nước đã hạn chế quan hệ
bn bán với nước ngồi. Ngoài việc cử sứ thần và tàu bè sang các nước xung

quanh như Hồng Cơng, Thượng Hải, Philíppin, Indơnêxia, Malaixia... vừa để
thu thập tin tức, vừa kết hợp mua bán, trao đổi một vài vật dụng thiết yếu, còn
việc nghiên cứu, xúc tiến thương mại với nước ngoài hầu như bị cấm tiệt.

Chủ trương “bế quan toả cảng”, chối từ quan hệ bn bán với bên ngồi,
nhất là các nước phương Tây đã khiến cho Việt Nam bị tách biệt với các nước.'
Cơ hội mở rộng giao lưu với các quốc gia Anh, Mi vi thé đã không được tận

dụng. Ngay từ thời Gia Long, tàu bn nước ngồi đã bị hạn chế ra vào các cửa

biển Việt Nam, trừ tàu của Pháp được phép qua lại còn tàu thuyền các nước
khác đã gần như vắng bóng trong các cửa bể vốn rất sầm uất trước đây như Vân

Đồn, Ba Lạt, Đà Nẵng, Thanh Hà, Hội An, Ngoại thương của Nhà nước chỉ

được mở hạn chế trong các nước khu vực Đơng Á hoặc Đơng Nam Á như
Trung Quốc, Philíppin, Thái Lan, Xinhgapo, Indơnêxia, Bcnêơ.

Hàng nhập khẩu chỉ được đưa
chì, gang, lưu hoàng để làm súng
quốc mua: tơ, lụa, gạo, thóc khiến
các sở thuế quan giảm đi rất nhiều,

vào những thứ Triều đình cần dùng như sắt,
đạn. Hàng xuất khẩu thì cấm người ngoại
cho thương mại ngày một suy sụp. Số lượng
từ 60 sở đến năm 1851, chỉ còn 21 sở.

Kết quả là cả công nghiệp, thương nghiệp đều bị đình đốn, hàng hố khan

hiếm, đời sống nhân dân bị bần cùng, sức mua bị hạn chế.

15


Nhà Nguyễn, triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến chun chế đã

khơng cịn khả năng mở mang kinh tế và phát huy tiềm lực của nhân dân trong

công cuộc xây dựng đất nước.
Quản sự quốc phòng

/

La mét quéc gia phong kién dugc xếp vào hàng tương đối mạnh ở khu vực

Đông Nam Á, sau khi tái lập năm 1802, Nhà Nguyễn đã chú ý ngay tới việc
xây dựng và phát triển lực lượng quân đội, gồm cả bộ binh, kị binh, tượng binh,
pháo binh.
Binh lực toàn quốc gồm 3 hạng: thân binh (hộ vệ nhà vua); cấm binh (bảo
vệ hồng thành) và tinh binh (phịng thủ Kinh đơ và các tỉnh).
Từ thời Minh Mạng, đặt ra lệ luân lưu, gọi là biển binh ban lệ, hai ban ở
nhà, một ban phục dịch thay đổi nhau. Đa số binh lính tập trung ở Kinh đơ và
các tỉnh xung quanh, mỗi tỉnh có từ 500 đến 2 nghìn lính.
Thời Thiệu Trị và Tự Đức, việc binh vẫn được chú ý. Các sách võ kinh được
in ấn, Khoa thi võ được mở, binh lính được tuyển thêm. Ngồi ra cịn đặt các
ngạch hương đũng, dân dũng, thổ dũng ở các tỉnh, huyện, xã. Song một khi

lòng dân đã li tán, xa rời, chống lại triều đình thi di qn có đơng vẫn không
phải là mạnh. Vả lại, trong điều kiện tài chính khơ kiệt, kĩ thuật lạc hậu, đến
giữa thế kỉ XIX mà vẫn huấn luyện quân đội theo trận đồ bát quái, ngũ hành,

long thao, hổ lược... vũ khí chủ yếu là gươm giáo, súng điểu thương; súng lớn
tuy có nhiều nhưng, chỉ bố trí ở các thành quách, súng đúc bằng đồng, lịng
láng (khơng rãnh) nạp tiền, bắn ít khi trúng đích, ít khi nổ, khó cơ động. Binh

lính bị ngược đãi, vũ trang kém, lương ăn, áo mặc thiếu thốn. Chế độ thưởng

phạt thiếu công minh. Trong lúc binh lực suy tàn, tài chính kiét q, long dân


ốn trách, thì triều đình, từ vua đến quan đều hết sức bảo thủ, không chịu duy

tân, cố ôm nếp cũ, cho nên sức lực của quân đội triều đình tuy còn đủ để ra oai
với các nước láng giềng và đàn áp nhân dân, nhưng đã khơng cịn đủ khả năng

để đương đầu với tư bản phương Tây.

Hậu quả là vào năm Tự Đức nguyên niên (1847) đình thần là Trương Quốc
Dụng đã tâu: "Tài lực của dân nay không bằng sáu phần mười năm trước". Còn
năm 1859, khi quân Pháp vừa nổ súng đánh Đà Nẵng mà Nguyễn Tri Phương
đã kết luận: "quân và dân của đã hết, sức đã yếu".
Về xã hội:
Chế độ chuyên chế của nhà Nguyễn dựa trên nền tảng xã hội là giai cấp địa
chủ, quan lại cường hào, bị nhân dân rất căm ghét. Trong xã hội thời Nguyễn,
16


cũng như các triều đại trước có hai giai cấp cơ bản là giai cấp thống trị và giai
cấp bị trị.

Giai cấp thống trị gồm vua quan, thơ lại trong hệ thống chính quyền và giai.
cấp địa chủ. Họ có dinh thự, ruộng vườn, sông suối, được pháp luật nhà nước
bảo vệ. Các quan lại xuất thân từ nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng do địa
vị của mình, đã trở nên đối lập với nhân dân, đè nén, áp bức nhân dân. Tuy
nhiên trong số các quan lại phong kiến, cũng có nhiều người thanh liêm, trung

thực biết lo cho dân và cho xã hội. Giai cấp địa chủ miền xi và các thổ tù
miền núi có số lượng ngày càng đơng đảo, vừa có thế lực chính trị, vừa có thế
lực kinh tế, là người cai quản chính quyên địa phương, đồng thời là chỗ dựa của

triều đình trung ương tại các thơn bản.

Giai cấp bị trị bao gồm nông dân, thợ thủ công, thương nhân, một số dân
nghèo thành thị và tuyệt đại đa số dân cư ở các bản mường vùng dân tộc ít

người. Họ làm ruộng, buôn bán nhỏ, làm nghề thủ công, làm thuê làm mướn

cho những nhà giàu. Họ là những người phải gánh chịu mọi tai hoạ của tự nhiên

và của sự bất công trong xã hội.

Các vua Nhà Nguyễn dùng pháp luật hà khắc, quân đội đông đảo, nho giáo

phản động làm cơng cụ kìm kẹp nhân dân về mọi mặt trong trật tự của nền
chuyên chế cực đoan, cho nên mâu thuẫn xã hội vốn đã có nguồn cội ngay từ
đầu, ngày càng bộc lộ sâu sắc và quyết liệt.
Hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra và kéo đài suốt từ thời Gia Long
đến thời Tự Đức. Cuộc khởi nghĩa nảy bị dẹp thì cuộc khởi nghĩa khác lại xuất

hiện bởi vì đời sống cơ cực, tơ thuế, sưu dịch nặng nề và bởi vô số những chính
sách đối nội, đối ngoại thiển cận khác của triều đình phong kiến Nguyễn. Có

thể nói, bất cứ ai muốn tổ chức khởi nghĩa chống triều đình, đù là dân hay
quan, dù sang hay hèn, dù hay chữ hay không hay chữ; người Kinh hay người

Thượng, đều được đông đảo quần chúng đi theo và ủng hộ.
Năm 1820, Minh Mạng vừa mới lên ngơi thì năm 1821 xảy ra cuộc khởi
nghĩa Phan Bá Vành và Vũ Đức Cát ở vùng Sơn Nam (Nam Định), giết quan
quân, chiếm thành trì, phát triển thế lực ra đến Hải Dương... Mãi đến năm 1827


Phan Bá Vành mới bị bắt, cuộc khởi nghĩa mới bị thất bại.

Ít lâu sau đó, năm 1831, Lê Duy Lương (lấy danh nghĩa dòng dõi nhà Lê)
đã liên kết với các tù trưởng người Mường ở Hồ Bình mà nổi lên, xây dựng

căn cứ, phát triển thế lực ở Ninh Bình, Hưng Hố và Tây Bắc. Đến năm 1833,

Lê Duy Lương bị bắt và bị giải về Kinh đô. Nhưng sau đó đồng bào Mường ở
Hồ Bình lại suy tôn Lê Duy Hiển làm minh chủ, tiếp tục nổi lên chống triều

7


đình ở vùng Hồ Bình - Thanh Hố. Mãi đến năm 1837 phong trào mới tạm

thời lắng đi.

Ở trong Nam, triều đình phải vất vả đối phó với cuộc khởi nghĩa của Lê
Văn Khôi nổ ra từ năm 1833 (gần như cùng lúc với khởi nghĩa Lê Duy Lương ở

Bắc). Được sự ủng hộ của nông dân nghèo, nhất là của những người từ Bắc bị

đẩy vào Nam, Khôi đã nổi lên chiếm thành Gia Định và dễ dàng chiếm cả 6

tỉnh Nam Kì. Mãi đến tháng 3/1835, cuộc khởi nghĩa của cha con Lê Văn Khơi
mới hồn tồn bị thất bại.

Cùng thời gian nói trên, ở vùng Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên
Quang, đồng bào Thổ đã theo Nông Văn Vân liên kết với 7000 quân của Lê
Văn Bạt, Nguyễn Văn Nhàn (Tiền Bột, Ba Nhàn) ở vùng Sơn Tây đã nổi lên,


phải đến tháng 4/1835, Nông Văn Vân mới bị bao vây và chết trong vùng rừng
núi Tun Quang.

|

_
Trong nam 1833 cịn có các cuộc nổi dậy của đồng bào người Thái ở sông
Đà, đồng bào Chăm ở Bình Thuận. Đồng bào Khơ me ở Trà Vinh thì nổi dậy
suốt từ năm 1826 đến năm 1841. Có lúc họ đã chiếm được cả Trà Vinh, một
huyện lớn thuộc tỉnh Vĩnh Long lúc đó. Trong vịng 7 năm ở ngơi của Thiệu Trị
đã có 56 cuộc khởi nghĩa nổ ra. Năm

1854 thời Tự Đức, khắp vùng Sơn Tây,

Bắc Ninh, châu chấu phá hoại mùa màng, nhân dân đói khổ, nhà nho thất chí

Cao Bá Quát thừa cơ phù Lê Duy Cừ nổi lên chống triểu đình, dân nghèo theo

rất đông. Năm 1855, Cao Bá Quát tử trận ở An Sơn nhưng dư đảng còn tiếp tục
hoạt động đến vài năm sau đó.
Cao trào nơng dân khởi nghĩa đã làm cho nền tảng của chế độ phong kiến
lung lay tới tận nền móng. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ năm 1848 đến năm
1862 (từ khi Tự Đức mới lên ngôi đến khi thực dân Pháp chiếm được 3 tỉnh
miền Đơng Nam Kì) đã có 40 cuộc khởi nghĩa nổ ra. Và nếu tính đến năm

1883, khi triều đình Nguyễn kí Hiệp ước Hácmăng, thừa nhận sự chiếm đóng

của Pháp trên tồn cõi Việt Nam thì số cuộc nổi dậy chống triều đình lên tới


con số 103.
_—

Để đối phó với những hiện tượng xã hội trước đây, phong kiến triéu
Nguyễn đã cố gắng duy trì củng cố xã hội bằng mọi phương sách:
- Đối với những phần tử chống đối "nổi loạn", triều đình thẳng tay đàn áp,

dìm trong biển máu.

- Đối với một số tham quan 6 lại quá lộ liễu, triều đình đã phải cho xử

chém, cách chức để răn đe.
18

|


- Riêng đối với vùng đồng bào dan tộc thiểu số thì chính sách của triều
đình là đồng hố, hoặc trực trị đối với khu vực người Mường, Thái. Song trong

điều kiện kinh tế cơng thương kém phát triển thì xu hướng phân quyền cuối
cùng lại dẫn đến tình trạng cát cứ nguy hiểm. Bộ máy quan lại bị tha hoá và xu
hướng phân quyền đã khiến cho nạn cường hào lộng hành ở các địa phương gia
tăng - đó là điều tất yếu.
_ Rốt cuộc thì tất cả các biện pháp chống đỡ của triều đình Nguyễn đã khơng
thể giải quyết được tận gốc các vấn đề khủng hoảng xã hội. Tình trạng rối ren

lại vẫn tiếp tục xảy ra.

Lịng dân ốn thán, chia lìa, khối đồn kết dân tộc bị rạn nứt, đó chính là

ngun nhân gián tiếp, tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ thù từ bên ngồi tới xâm
lăng nước ta.
Chính sách đối ngoại của nhà Nguyễn

Chính sách đối ngoại của nhà Nguyễn trong những năm giữa thế kỉ XIX có
một số nét đáng chú ý:
- Một là xâm lấn các nước láng giềng như Khơme, Ai Lao.
- Hai là khước từ quan hệ với phương Tây và đàn áp Thiên chúa.

* Trước hết là đối với Khơme:
Khơme vốn là nơi tranh chấp giữa triều đình Xiêm La (Thái Lan) và Việt Nam.

Các nhóm hồng tộc Khơme, kẻ cầu Xiêm, người cầu Việt để lên ngôi.
Dau thé ki XIX, triều đình Huế chiếm ưu thế trên đất Chùa Tháp. Bị chống

đối, nhà Nguyễn đã cho quân đàn áp. Năm 1833 thời Minh Mạng, Lê Văn Khôi
nổi lên chống triều đình Nguyễn và cầu viện Xiêm. Cả ba cánh quân của Xiêm
tiến đánh Việt Nam đều bị đánh tan. Năm 1835, nhằm lúc triều đình Nơngpênh
gặp khó khăn trong việc cử người kế vị, Minh Mạng biến nước Khơme thành
một tỉnh, đổi Nôngpênh thành trấn Tây thành, bắt các quan đại triều của
Khome day ra Bac Thanh.
ˆ_ Triều đình Huế thi hành chính sách cai trị nghiệt ngã nên bị người Campuchia
phản ứng. Xiêm thừa cơ can thiệp. Quân Việt và quân Xiêm giao chiến nhiều

trận. Năm 1847, Thiệu Trị phải giảng hoà với Xiêm, Khơme phải triểu cống
cho cả Xiêm và Việt. Chiến tranh chấm dứt nhưng tình cảm quân dân hai nước
bị rạn nứt.

* Đối với Ai Lao:
Cũng giống như Khơme, nước Ai Lao thế kỉ XIX chịu ảnh hưởng của cả


triều đình phong kiến Xiêm và Việt.

19



×