Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

u tư trực tiếp nước ngoài - FDI doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.34 KB, 71 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
ầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Invesment - FDI) là một
hình thức của đầu tư quốc tế. Nó ra đời và phát triển là kết quả tất yếu
của quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế và quá trình phân công lao động quốc
tế theo chiều sâu.
Đ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được xem như chiếc chìa khóa của sự
tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Thông qua đó cho phép các nước sở tại thu
hút được các công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến nhằm khai thác
lợi thế so sánh của đất nước mình, thúc đẩy xuất khẩu, tăng năng lực cạnh tranh,
điều chỉnh và dịch chuyển cơ cấu kinh tế phù hợp với biến đổi thị trường khu
vực và thế giới.
Chiến lược mở cửa để dần đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế
khu vực và thế giới đã được Đảng và Nhà nước ta chủ chương thực hiện cách
đây hơn 10 năm. Một trong nhiều nội dung quan trọng của chiến lược này là chủ
chương thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ nhằm mục tiêu giải
quyết nạn khan hiếm về vốn cho đầu tư phát triển xã hội mà còn nhằm tạo thêm
nhiều công ăn việc làm cho người lao động, cung cấp cho nền kinh tế nước nhà
những máy móc, quy trình công nghệ tiên tiến, sản xuất nhiều mặt hàng có chất
lượng và hàm lượng kỹ thuật cao, góp phần thúc đẩy phát triển nội sinh nền kinh
tế đất nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp cộng nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước.
Sau khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành cùng với việc áp dụng hàng
loạt các chính sách khuyến khích đầu tư của Chính phủ cho một nền kinh tế mở
cửa, 38 quốc gia và hàng trăm các tập đoàn, Công ty nước ngoài đã đầu tư và
đang tìm kiếm cơ hội đầu tư vào Việt nam, một thị trường mà các chuyên gia
nước ngoài đánh giá là còn nhiều tiềm năng để khai thác.
1
Để xây dựng Việt nam trở thàng một trong những điểm hấp dẫn các nhà đầu
tư trong khu vực, cần phải nhận thức rõ thực trạng đầu tư nước ngoài tại Việt


nam, từ đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu, khoa học nhằm nâng cao hiệu quả
của đầu tư nước ngoài để từ đó tìm ra các giải pháp nhằm thúc đẩy việc thu hút
đầu tư nước ngoài phù hợp với thực tiễn. Đó là lý do thôi thúc tôi lựa chọn đề
tài: “Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam - Thực trạng
và giải pháp phát triển”.
Kết cấu khoá luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
Khoá luận gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về Đầu tư nước ngoài ở Việt nam.
Chương II: Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài ở Việt nam.
Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm thu hút đầu tư nước ngoài
tại Việt nam.
Do thời gian và kiến thức có hạn, nên không tránh khỏi những sai sót, hạn
chế, vì vậy tôi rất mong được sự góp ý chân thành của các thầy cô giáo và các
bạn để khoá luận này hoàn thiện hơn.
Ngoài ra, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Cô giáo Nguyễn
Hoàng Ánh đã trực tiếp hướng dẫn tôi viết bản khoá luận này.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
2
- QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I. KHÁI NIỆM VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm đầu tư nước ngoài nói chung
Khái niệm “đầu tư nước ngoài” lần đầu tiên được đề cập đến trong các giáo
trình tư pháp và kinh tế quốc tế, trước tiên là ở Pháp năm 1955, sau đó được sử
dụng trong các cuộc hội thảo bàn về hợp tác kinh tế thế giới và chính thức đi vào
các hiệp định, các bộ luật về đầu tư. Tuy nhiên do những đặc điểm riêng phức
tạp và do sự vận động phong phú của thực tiễn mà khái niệm này không ngừng
được bổ sung, chỉnh lý cho sát với thực tế hơn.
Cùng với quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá đời sống kinh tế, đến nay đầu

tư trực tiếp nước ngoài không còn là vấn đề mới mẻ trên thế giới. Khái niệm về
FDI đều được ghi nhận trong luật đầu tư của các nước. Mặc dù không hoàn toàn
giống nhau bởi có sự khác biệt về việc sử dụng câu từ hay ngữ pháp, song về mặt
bản chất thì khái niệm FDI ở luật của các nước là như nhau do chúng đều xuất
phát từ khái niệm đầu tư quốc tế.
Tại Hội thảo của Đại hội Hiệp hội Pháp luật quốc tế Henxky 1966, người
ta đã cố gắng đưa ra một khái niệm chung nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài
nhằm phân biệt với các khoản kinh tế khác nhận được từ bên ngoài. Theo đó,
“Đầu tư nước ngoài là vận động tư bản từ nước người đầu tư sang nước người sử
dụng đầu tư mà không có hạch toán nhanh chóng”. Sau đó, qua thảo luận Hiệp
hội đã đưa ra một khái niệm dưới dạng tổng quát như sau: “Đầu tư nước ngoài là
sự vận động tư bản từ nước người đầu tư sang nước người sử dụng đầu tư với
mục đích thành lập ở đây một xí nghiệp sản xuất hay dịch vụ nào đó”. Với khái
niệm này, việc đầu tư vào một nước nhất thiết phải gắn liền với việc thành lập
một xí nghiệp hay một cơ sở sản xuất, dịch vụ tại nước nhận đầu tư, do đó đã
loại trừ một số hình thức đầu tư khác không thành lập ra xí nghiệp hay cơ sở sản
xuất (như cho vay tiền của ngân hàng, tài trợ cho chương trình hay cho dự án…).
3
Đây chính là điểm hạn chế của khái niệm này so với yêu cầu hợp tác kinh tế
trong thời đại hiện nay.
Khái niệm về đầu tư nước ngoài được các nước hiểu và vận dụng khác
nhau. Tại các nước tư bản phát triển, đầu tư nước ngoài là việc giao vật có giá trị
kinh tế của nước này sang nước khác nhằm thu đuợc lợi nhuận, bao gồm cả
quyền cầm cố và quyền thu hoa lợi, quyền tham gia các hội cổ phần,quyền đối
với nhãn hiệu thương phẩm và tên xí nghiệp. Như vậy, quan niệm về đầu tư
nước ngoài ở đây rất rộng rãi, chỉ là quá trình chuyển tiền vốn từ nước này sang
nước khác với mục đích thu lợi nhuận, theo nguyên tắc lợi nhuận thu được phải
cao hơn lợi nhuận thu được trong nước và cao hơn lãi suất gửi ngân hàng, nếu
kinh tế của các nước tư bản phát triển là tương đối ổn định, thị trường đã được
khai thác tối đa và có hiện tượng tương đối thừa tư bản, do đó việc đầu tư ra

nước ngoài là cực kỳ cần thiết để lợi dụng nhân công rẻ, nguồn nguyên liệu dồi
dào và chiếm lĩnh thị trường xuất nhập khẩu. Do đó quan niệm rộng rãi về đầu tư
nước ngoài tồn tại như một tất yếu.
Các nước đang phát triển lại sử dụng khái niệm đầu tư nước ngoài với nội
dung là đầu tư trực tiếp như việc đưa bất động sản, vốn, thiết bị vào xây dựng,
mở rộng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Như vậy, đầu tư nước ngoài tại các nước
đang phát triển chỉ được công nhận dưới hình thức đầu tư trực tiếp, loại trừ hình
thức đầu tư gián tiếp. Bởi vì đầu tư trực tiếp đem lại nguồn vốn, kỹ thuật hiện đại
thay thế cho kỹ thuật lạc hậu hiện có, tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao
động, nâng cao mức sống, tăng tích luỹ thu nhập quốc dân. Còn đầu tư gián tiếp
cũng đưa vốn vào, nhưng không có kế hoạch sử dụng vốn, cùng với khả năng
quản lý non kém và trình độ sản xuất kinh doanh lạc hậu của các nước đang phát
triển đã không đủ khả năng sử dụng vốn vay có hiệu quả, dẫn đến tình trạng
không trả được nợ. Với lý do đó, việc tăng cường sử dụng hình thức đầu tư trực
tiếp là phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của các nước đang phát triển. Chính
sách này đã và đang là hình thức phổ biến trong chính sách “mở cửa nền kinh
4
tế” của nhiều nước, đặc biệt là các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương, trong đó có Việt Nam.
Định nghĩa về đầu tư nước ngoài theo Hội thảo Henxinki như trên là quá
ngắn gọn nên không nêu được bản chất của đầu tư nước ngoài, tuy nhiên đã có
một khuynh hướng đúng đắn cho rằng không nên coi bất kỳ tiền, vốn nào đưa ra
nước ngoài đều là đầu tư (ví dụ như hình thức tín dụng quốc tế, viện trợ quốc tế
…)
Chuyên gia luật quốc tế Iumarxep (trong cuốn sự điều chỉnh pháp luật của
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại EC-Matxcơva, 1988) cho rằng, đầu tư nước ngoài
khác với những hành vi đầu tư thông thường (như đầu tư chứng khoán), nhằm
mục đích thu lợi nhuận hoặc tăng thu nhập dưới các hình thức hoa hồng, hoa
lợi…
Định nghĩa về đầu tư nước ngoài còn gặp ở nhiều văn kiện pháp luật về

đầu tư hoặc các Hiệp định quốc tế về bảo hộ và thúc đẩy đầu tư. Chính sự định
nghĩa này đã tạo ra cơ sở pháp lý cho các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động
của mình. Tuy nhiên, sự phức tạp của quan hệ đầu tư và do vấn đề ngữ pháp
hoặc cách sử dụng từ mà thuật ngữ “đầu tư nước ngoài” trong các văn kiện pháp
luật của mỗi nước có khác nhau.
Ví dụ : Luật về đầu tư nước ngoài của Liên bang Nga ngày 4/7/1991 quy
định : Đầu tư nước ngoài là tất cả những hình thức giá trị tài sản hay giá trị tinh
thần của nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các đối tượng của hoạt động kinh
doanh và các hoạt động khác với mục đích thu lợi nhuận. Định nghĩa tương đối
đầy đủ, vạch rõ bản chất của vấn đề đầu tư là lợi nhuận, tuy nhiên nếu đầu tư
nước ngoài được xem xét chỉ là “tài sản” được sử dụng với mục đích đem lại lợi
nhuận thì khái niệm này bị giới hạn. Trong Luật của Ucraina về đầu tư nước
ngoài ngày 13/3/1992, thuật ngữ “đầu tư nước ngoài” được đề cập đến với phạm
vi rộng hơn : “Đầu tư nước ngoài là tất cả các hình thức giá trị do nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư vào các đối tượng của hoạt động kinh doanh và các hoạt động
5
khác với mục đích thu lợi nhuận hoặc các hiệu quả xã hội”. Chính hình thức
“hiệu quả xã hội” đã mở rộng phạm vi hoạt động của luật đầu tư đối với các
kiểu, các hình thức khác của luật đầu tư nước ngoài.
Như vậy dù nhìn dưới góc độ nào thì FDI cũng đều là hoạt động kinh doanh
dựa trên cơ sở di chuyển tư bản giữa các quốc gia, chủ yếu do các pháp nhân và
thể nhân thực hiện, theo những hình thức nhất định, trong đó chủ đầu tư FDI
tham gia trực tiếp vào quá trình đầu tư.
2. Khái niệm về FDI theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành lần đầu vào ngày
26/12/1987, sửa đổi vào năm 1990,1992; sau đó được thay bằng "Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam " ban hành ngày 12/11/1996, đã được các nhà đầu tư
thế giới và khu vực đánh giá là một luật hấp dẫn, thông thoáng trong khu vực.
Ngày 9/6/2000 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lại được sửa đổi, bổ sung
lần thứ 4 "để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, phục vụ sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế quốc dân trên cơ sở khai thác và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước."
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 quy định rõ: " Đầu tư nước
ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì
tài sản nào để tiến hành đầu tư theo qui định của luật này".
Như vậy theo luật đầu tư khái niệm đầu tư nước ngoài được hiểu như sau:
- Là hình thức đầu tư trực tiếp.
- Là việc bên ngoài trực tiếp đưa vốn và tài sản khác vào đầu tư tại Việt
Nam. Chủ đầu tư nước ngoài có thể là 1 tổ chức nhà nước, tổ chức tư nhân hay 1
tổ chức quốc tế hoặc tự nhiên nhân nước ngoài.
Vốn đầu tư ở đây không chỉ bao gồm tư bản mà còn bao gồm cả các bí
quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật (Điều 7 Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam năm 1996). Quy định này là nhằm mục đích tranh thủ được
vốn kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm và phương pháp quản lý tiên tiến, đào tạo đội
6
ngũ quản lý và công nhân có trình độ cao, góp phần nâng cao đời sống kinh tế,
đưa Việt Nam hoà nhập với khu vực và thế giới. Việc sử dụng vốn đầu tư nước
ngoài vào một quốc gia thường dẫn đến việc thành lập ở nước tiếp nhận đầu tư
một cơ sở sản xuất. Nhưng theo luật Việt Nam thì hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài không nhất thiết phải như vậy mà có thể tồn tại trên cơ sở hợp đồng
hợp tác kinh doanh.
Như vậy, khái niệm đầutư nước ngoài đã trải qua một quá trình phát triển
biện chứng hết sức chặt chẽ. Từ quy định đầu tư nước ngoài là việc đưa vốn và
tài sản nhất định vào Việt Nam đến quy định về đối tượng được đầu tư và quy
định về hình thức đầu tư, thể hiện chủ trương của Nhà nước Việt Nam là mở
rộng và thu hút vốn đầu tư của nhiều nước trên thế giới, làm đòn bẩy mạnh mẽ
để đưa nước ta phát triển ngang tầm với sự phát triển chung của toàn thế giơí.
3. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với việc phát triển kinh tế quốc
dân
Xuất phát từ những nhu cầu về vốn, về khoa học kỹ thuật và công nghệ của

nước ta còn thiếu chưa đủ sức khai thác những tiềm năng về tài nguyên và sức
lao động của mình. Do vậy Nhà nước chủ trương mở cửa cho nước ngoài đầu tư
vào Việt Nam. Hiện nay vẫn còn nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau về
đầu tư nước ngoài ở nước ta trong gần 15 năm qua, nhưng có một thực tế không
thể phủ nhận đó là ảnh hưởng tích cực của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế
nước ta ngày càng rõ nét.
3.1. Góp phần tăng ngân sách xã hội
Đầu tư nước ngoài bước đầu đã góp phần đáng kể trong đầu tư vốn của toàn
xã hội, trong tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đóng góp vào ngân sách,
kim ngạch xuất khẩu và giải quyết việc làm. Nhiều công trình quan trọng đã đi
vào hoạt động, nhiều công nghệ khá hiện đại đang được chuyển giao, đã tạo ra
năng lực mới cho nền kinh tế. Cho tới nay các công ty nước ngoài đã tham gia
đầu tư vào nhiều ngành công nghiệp quan trọng của Việt Nam như dầu khí, xi
7
măng, sắt thép, điện tử
3.2. Góp phần nâng cao năng lực các ngành công nghiệp
Cùng với việc nâng cao năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp, hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần hình thành một số ngành công
nghiệp mới có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế quốc dân như: Công nghiệp
dầu khí, công nghiệp sản xuất - lắp ráp ô tô, xe máy Nhiều dự án đầu tư nước
ngoài đã tạo ra các sản phẩm xuất khẩu mới góp phần nâng cao kim ngạch xuất
khẩu cho Việt Nam. Trong năm 2000, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài khoảng 3.300 triệu USD so với kim ngạch xuất khẩu là 7 tỷ
USD (chiếm 45%). Về nghĩa vụ tài chính các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đóng góp vào ngân sách Nhà nước 300 triệu USD (chưa kể liên
doanh dầu khí Việt Xô Petro).
3.3. Hội nhập quốc tế
Bằng việc hợp tác với nước ngoài, Việt Nam đã tiếp nhận được một số kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến trong một số ngành kinh tế như thông tin viễn thông,
sản xuất - lắp ráp ô tô, xe máy, hoá chất (dầu nhờn, sơn ). Ngoài ra Việt Nam

cũng đã tiếp nhận được một số phương pháp quản lý tiến bộ và một số kinh
nghiệm về tổ chức kinh doanh, sản xuất.
3.4. Giải quyết công ăn việc làm
Quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nền kinh tế cũng đã góp phần
quan trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đến giữa
năm 1998, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tạo ra việc làm cho
khoảng 350.000 lao động là người Việt Nam. Trong số đó các doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài, thu hút 95.000 lao động, doanh nghiệp liên doanh với
thành phần kinh tế Nhà nước thu hút gần 165.000 người; doanh nghiệp liên
doanh với thành phần kinh tế tư nhân thu hút gần 16.000 người; doanh nghiệp
liên doanh với thành phần kinh tế hỗn hợp 15.000 người, các đơn vị hợp tác kinh
8
doanh gần 6.500 người. Bên cạnh đó khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
còn tạo ra việc làm gián tiếp cho hàng trăm nghìn người làm nghề xây dựng cơ
bản và dịch vụ
Trong những năm tới, cụ thể là từ nay đến năm 2003, để thực hiện mục tiêu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi tăng trưởng kinh tế 9% - 10%
mỗi năm, chúng ta cần khoảng 42 tỷ USD. Trong đó dự kiến phải tranh thủ
khoảng 15 - 17 tỷ USD vốn FDI. Cũng theo ước tính sơ bộ với mục tiêu duy trì
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, góp phần chống "nguy cơ tụt hậu", thì trong 10
năm đầu của thế kỷ 21 đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư không dưới 300 tỷ
USD. Dự kiến những lĩnh vực chủ chốt có thể thu hút được nhiều vốn FDI là:
Tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí; xây dựng nhà máy lọc dầu; sản xuất xi
măng; luyện cán thép; điện tử, ô tô, xe máy, công nghiệp hàng tiêu dùng, công
nghiệp thực phẩm hạ tầng cơ sở, nông-lâm-ngư nghiệp
Những phân tích trên cho thấy, FDI không phải chỉ cần thiết đối với nền
kinh tế trong giai đoạn trước mắt, mà còn có vai trò quan trọng trong suốt quá
trình công nghiệp hoá đất nước. Vì vậy trong thời gian tới cần có những biện
pháp, chính sách để góp phần thu hút nhiều hơn và có hiệu quả hơn vốn FDI.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI

VIỆT NAM
1. Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam
1.1. Điều lệ Đầu tư 77
Năm 1977 các nhà lãnh đạo cao nhất của Việt nam cho ban hành Điều lệ
Đầu tư nước ngoài ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam kèm theo Nghị
định số 115/CP ngày 19-4-1977 của Chính phủ, gọi tắt là “Điều lệ đầu tư 77”
Tuy là văn bản pháp lý đầu tiên của Việt nam quy định về đầu tư nước
ngoài nhưng mối quan tâm về Điều lệ đầu tư 77 đã biến mất vào năm 1978, khi
xảy ra sự kiện Campuchia và tiếp theo là chiến tranh biên giới phía Bắc. Do sức
ép từ các thế lực thù địch, cánh cửa hợp tác kinh tế với hầu hết các nước tư bản
9
phát triển bị khép lại cùng với sự cắt đứt những khoản viện trợ phát triển chính
thức (ODA). Điều lệ đầu tư 77 trở thành một văn bản pháp lý không có đối
tượng điều chỉnh và không còn ý nghĩa nào khác ngoài việc là một tài liệu lưu
trữ.
Dĩ nhiên Điều lệ đầu tư 77, do ra đời trong một điều kiện thiếu một hệ
thống quan điểm rõ ràng về đường lối tổng thể phát triển kinh tế, nên không
tránh khỏi những mặt hạn chế, kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Nhưng cho dù đó là một văn bản pháp lý hoàn chỉnh hơn thì cũng khó có thể đi
vào cuộc sống, bởi vì đối với bất kỳ một quốc gia nào yếu tố quan trọng hàng
đầu quyết định khả năng thu hút đầu tư nước ngoài là tình hình chính trị đối
ngoài và sự ổn định an ninh chính trị trong nước. Các nhà đầu tư không thể mang
tiền của vào một nước chiến tranh hoặc đang nằm trong tình trạng “nửa chiến
tranh” lại bị cô lập, cấm vận bởi hầu hết các nước tư bản phát triển.
Cuối thập kỷ 70 xuất hiện một làn sóng mới khuyến khích đầu tư từ các
nước tư bản phát triển vào các nước xã hội chủ nghĩa trong sự cộng hưởng với
nhu cầu đổi mới và tổ chức lại các xí nghiệp quốc doanh xã hội chủ nghĩa bắt
đầu bằng việc CHND Trung Hoa ban hành Luật đầu tư nước ngoài ngày 08-07-
1979, CHND Mông Cổ và CHND Bungari 1980, Cuba 1982, CHDCND Triều
Tiên 1984, Tiệp Khắc 1985, Liên Xô 1987 …

Tại Việt nam sau những năm tìm tòi và thử nghiệm, Đại hội VI Đảng Cộng
sản Việt nam đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
cơ chế thị trường có định hướng XHCN. Chính sách đầu tư nước ngoài chính vì
vậy cũng buộc phải thay đổi nhằm “ra sức tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường
bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại giành vị trí ngày
càng có ý nghĩa trong phân công lao động quốc tế”.
1.2. Luật Đầu tư nước ngoài 1987
Trong khung cảnh trong và ngoài nước như vậy, Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt nam đã được Quốc hội thông qua ngày 29.12.1987. Qua thực tiễn áp dụng,
10
để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước, tăng cường tính cạnh tranh
của các điều kiện khuyến khích đầu tư của nước ta so với nước khác trong khu
vực, để phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế và quyền lợi của các nhà đầu
tư nước ngoài, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung Luật đầu tư nước
ngoài ngày 30-06-1990, Luật sửa đổi bổ sung Luật đầu tư nước ngoài ngày 23-
12-1992.
Mặc dù vậy, Luật Đầu tư nước ngoài 1987 với hai lần sửa đổi, bổ sung vẫn
tồn tại những hạn chế nhất định trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Do vậy Luật Đầu
tư nước ngoài 1996 đã được Quốc hội thông qua với mục tiêu hoàn thiện hành
lang pháp lý và cải thiện môi trường đầu tư để thu hút vốn đầu tư trực tiếp của
nước ngoài với số lượng và chất lượng cao hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, đổi mới công nghệ, gia tăng năng lực sản xuất, sử
dụng hiệu quả các nguồn lực, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước, tăng cường sự hoà nhập kinh tế của nước ta với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
1.3. Luật Đầu tư nước ngoài 1996
Luật đầu tư nước ngoài 1996 đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc cải
thiện môi trường đầu tư nói chung và môi trường pháp luật đầu tư nói riêng. Với
những quy định cần tiếp tục chi tiết hoá, Luật đã thực sự hưởng ứng và thể chế

hoá đường lối, chủ trương của Đại hội đại biểu toàn quốc VII, khẳng định nhất
quán chính sách đổi mới liên tục và toàn diện tư duy kinh tế, góp phần cải thiện
bộ mặt đất nước, cải thiện đời sống xã hội nói chung.
2. Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam.
Có 6 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài:
 Hợp đồng hợp tác kinh doanh:
Là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên (gọi tắt là các bên hợp
doanh) để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hợp đồng kinh doanh ở Việt Nam
11
trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên
mà không thành lập pháp nhân mới.
 Xí nghiệp liên doanh:
Xí nghiệp liên doanh là xí nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ
sở hợp đồng kinh doanh giữa bên hoặc các bên Việt Nam với bên hoặc các
bên nước ngoài, hoặc trên cơ sở Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam với
Chính phủ nước ngoài, nhằm hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.
 Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài:
Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài là xí nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu
của các tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài, do họ thành lập tại Việt Nam, tự
quản lý và chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh.
 Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (B.O.T.):
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) là văn bản ký kết
giữa chủ đầu tư nước ngoài (cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài) với cơ quan
Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền để xây dựng các công trình hạ tầng, tiến
hành khai thác và kinh doanh trong một thời hạn nhất định và khi hết thời
hạn thì chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
 Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO):
Được thực hiện trên cơ sở hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh,
là văn bản được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt nam và
nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng

xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt nam,
Chính phủ Việt nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án
khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
 Hợp đồng đầu tư trong các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ
cao, trong đó:
+ Khu chế xuất là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất
12
khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh
sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
+ Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ
thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm
nghiên cứu- triển khai khoa học – công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan,
có ranh giới địa lý xác định; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định
thành lập.
Các hình thức và phương thức trên đã được các nhà đầu tư nước ngoài
chấp nhận, vận dụng. Mỗi hình thức và phương thức đầu tư đều có mặt mạnh và
mặt hạn chế của nó, vì vậy Nhà nước Việt nam đang dần dần đa dạng các loại
hình đầu tư thông qua chính sách và pháp luật, nhằm đồng thời giải quyết nhiều
vấn đề của mục tiêu hợp tác như kết hợp lợi ích của bên đầu tư và bên nhận đầu
tư, kết hợp mục tiêu thu hút vốn và điều chỉnh cơ cấu FDI phù hợp với cơ cấu
chung của nền kinh tế và quy hoạch phát triển lực lượng sản xuất cả nước, từng
ngành, từng địa phương.
3. Sơ lược tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt nam kể từ khi ban hành
Luật Đầu tư nước ngoài cho đến nay
Hoạt động FDI ngày càng được nhiều nước thừa nhận là một nhân tố quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Ở Việt Nam, kể từ khi luật đầu tư
nước ngoài được ban hành và thực hiện, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
được Đảng và Nhà nước ta khẳng định là một bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần thúc đẩy sự phát triển các

nguồn lực trong nước.
3.1. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng góp cho ngân sách Nhà nước
Cũng giống như nhiều quốc gia đang phát triển khác, để đạt được tốc độ
tăng trưởng cao và ổn định, Việt Nam cần phải có một khối lượng vốn rất lớn.
Dẫu rằng vốn trong nước là chính, có vai trò quyết định song khả năng huy động
các nguồn vốn này rất khó khăn. Bởi vì, nguồn vốn ngân sách còn hạn chế;
13
nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cũng hạn
chế do nhiều doanh nghiệp đang bị thua lỗ, tích luỹ thấp và cũng đang trông đợi
vào vốn ngân sách cấp (doanh nghiệp quốc doanh) hoặc vốn đầu tư nước ngoài;
nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư rất khó xác định vì tâm lý người dân còn thiếu tin
tưởng vào hệ thống tài chính ngân hàng, thiên về đầu tư tích trữ vàng, đôla, bất
động sản. Như vậy để huy động được lượng vốn cần thiết, Việt Nam cần phải
chú trọng thu hút các nguồn vốn nước ngoài.
Trong những năm vừa qua, các nguồn vốn nước ngoài ở Việt nam chủ yếu
gồm: FDI, ODA, tín dụng thương mại và các khoản vay nợ nước ngoài. Trong số
đó, nguồn FDI là quan trọng nhất, tạo ra một khu vực kinh tế có trình độ thiết bị
kỹ thuật công nghệ khá.
Tính đến năm 2002, Việt nam đã có 4500 dự án được cấp giấy phép với
tổng mức vốn đăng ký đạt trên 50 tỷ USD trừ các dự án giải thể trước thời hạn
hoặc đã hết hạn hoạt động, hiện còn 3669 dự án với tổng vốn đầu tư trên 39,2 tỷ
USD, vốn pháp định trên 18 tỷ USD. Số vốn đã đưa vào thực hiện là gần 21 tỷ
USD bao gồm các hình thức đầu tư BOT, hợp đồng hợp tác kinh doanh, 100%
vốn nước ngoài, liên doanh, chưa kể đến có nhiều hạn chế làm giảm vốn đầu tư
nước ngoài như cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực năm 1997-
1998 và sự kiện 11/9/2001.
3.2. Tiến trình thực hiện các dự án
Trong số đó gần 2000 dự án đang triển khai hoạt động kinh doanh, 980 dự
án đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản và làm các thủ tục hành chính và gần 700
dự án chưa triển khai do nhiều nguyên nhân, 33 dự án hết hạn với tổng số vốn

đầu tư 0,3 tỷ USD và 703 dự án giải thể với tổng số vốn khoảng 9 tỷ USD.
Khoảng một nửa tổng số vốn đầu tư được cấp trong giai đoạn 1996-2000 với
1648 dự án được cấp phép có tổng số vốn đầu tư đạt 20,7 tỷ USD và trên 300 dự
án tăng vốn 3,9 tỷ USD. Trong số các dự án đầu tư được cấp giấy phép, tính đến
14
cuối năm 2002 đã thực hiện được khoảng 21 tỷ USD, chiếm 45% tổng số vốn
của các dự án.
BẢNG SỐ 1: ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THEO HÌNH THỨC ĐẦU TƯ TỪ 1988-2002
(Chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Đơn vị tính: đồng
Hình thức đầu tư Số dự
án
Tổng vốn
đầu tư
Vốn pháp định Vốn thực hiện
BOT 6 1.332.975.000 411.385.000 216.941.200
HĐ hợp tác Kinh doanh 157 3.870.280.224 3.300.263.330 3.761.554.376
100% vốn nước ngoài 2.417 14.202.336.482 6.298.792.863 6.725.903.405
Liên doanh 1.089 19.699.154.173 8.013.237.517 10.034.903.814
Tổng số 3669 39.104.745.879 18.023.678.710 20.739.302.795
(Trích dẫn: Thời báo Kinh tế Việt nam, số 17, ngày 29/1/2003)
Mặc dù Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1988, nhưng phải đến
năm 1991 đầu tư nước ngoài vào Việt nam mới bắt đầu thực sự ổn định và có
chiều hướng phát triển. Năm 1996, vốn đăng ký đầu tư đã tăng vọt với 2 dự án
đầu tư vào lĩnh vực phát triển đô thị ở Hà nội và Tp.HCM được phê duyệt với
quy mô lớn (hơn 3 tỷ USD/2 dự án). Thời kỳ đầu những năm 1991-1995 đầu tư
nước ngoài gia tăng cả về số dự án và vốn đầu tư, cho đến năm 1996 đạt mức kỷ
lục là 8,6 tỷ USD về tổng số vốn đăng ký. Trong giai đoạn này tốc độ tăng
trưởng bình quân hàng năm vốn đầu tư nước ngoài đạt khoảng 50%/năm.
Đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn và công

nghệ vào Việt nam, đồng thời nó cũng có tác động trong việc chuyển đổi cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển nền kinh tế.
15
Tuy nhiên sang năm 1997 – 2000, đầu tư nước ngoài đã bị chững lại và
giảm sút do ảnh hưởng của cạnh tranh quốc tế và khủng hoảng tài chính tiền tệ
khu vực. Trong giai đoạn này vốn đầu tư nước ngoài giảm trung bình 24%/năm
trong khi đó, đầu tư nước ngoài vào Việt nam chiếm tỷ trọng 7,2% trong GDP,
cao hơn nhiều nước trong khu vực như (Trung Quốc: 4,9%, Thái Lan: 2,4%,
Malaysia: 5,2%, Indonesia: 2,2%, Philippines: 1,5% - số liệu của UNCTAD,
Báo Đầu tư Thế giới 1999). Tỷ lệ đầu tư nước ngoài đã giảm đáng kể từ mức
vốn đầu tư đăng ký khoảng 8,6 tỷ USD năm 1996 xuống còn 1,9 tỷ USD năm
2000. Ngoài ra, trong giai đoạn này còn có một xu hướng khác rất đáng lo ngại
đó là số dự án và vốn đầu tư giải thể tăng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước.
Tổng số vốn đầu tư giải thể giai đoạn 1997-2000 khoảng 5,26 tỷ USD so với
2,69 tỷ USD của 8 năm trước đó cộng lại.
Nhưng sang đến năm 2001-2002, trong bối cảnh dòng đầu tư nước ngoài
trên thế giới liên tục giảm thì ở Việt nam đã có nhiều dự án đầu tư nước ngoài
tăng vốn nhất từ trước tới nay với 305 dự án, số vốn đăng ký tăng thêm 918,7
triệu USD mở ra một bước phát triển mới của Thế kỷ 21.
3.3. Đối tác đầu tư
Cũng theo chiều hướng phát triển đó, nhiều nhà đầu tư thuộc 60 nước và
vùng lãnh thổ đã tham gia mạnh vào thị trường đầu tư Việt nam. Trong tốp dẫn
đầu đầu tư nước ngoài vào Việt nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng
Kông chiếm vị trí quan trọng, với 2033 dự án và 15.976 triệu USD vốn đăng ký,
chiếm 55,4% về số dự án và 40,8% về vốn đăng ký của tất cả các dự án đầu tư
nước ngoài đang còn hiệu lực. Bên cạnh đó, đầu tư của các nước Châu Âu vào
Việt nam cũng dần phát triển mạnh như Pháp, Hà Lan, Anh hơn nữa phải kể đến
Hoa Kỳ, một đất nước có nhiều rào cản khi đến với thị trường đầu tư Việt nam
cũng có 153 dự án với 1.111 triệu USD vốn đăng ký, đứng ở vị trí thứ 13.
Trong vài năm gần đây một số nước đã bứt lên dẫn đầu về số dự án tăng

thêm như Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông và Nhật Bản với 426 dự án, 768
16
triệu USD vốn đăng ký, chiếm 61,3% tổng số dự án và 55% tổng số vốn đăng ký
cấp phép. Trong khi đó Châu Âu chỉ ở mức 56 dự án, với tổng vốn đăng ký là
82,5 triệu USD. Mỹ với 32 dự án, tổng số vốn đăng ký là 139 triệu USD, tăng
23% về số dự án và 17,7% về số vốn đăng ký. Nhiều Tập đoàn, công ty xuyên
quốc gia lớn, có năng lực về tài chính và công nghệ đã xuất hiện tại Việt nam
khiến cho nền kinh tế của Việt nam đã có những bước chuyển biến mạnh như
GDP liên tục tăng qua các năm đạt mức thấp nhất là 2% vào năm 1992 và cao
nhất là 13,25% vào năm 2000.
Như vậy đầu tư nước ngoài đã trở thành một yếu tố quan trọng với hầu hết
các quốc gia trên thế giới. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài này ngày càng
chứng minh được tính ưu việt của mình so với các nguồn vốn đầu tư nước ngoài
khác nên nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, coi là chìa
khoá cho sự tăng trưởng.
Tại Việt Nam nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần giải quyết
được những vấn đề kinh tế xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển triển các nguồn
lực trong nước, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là việc tiếp nhận FDI chỉ đồng
nghĩa với việc đón nhận những lợi ích mà rất có thể FDI lại là không tốt đối với
việc phát triển tổng thể kinh tế - xã hội. Do vậy, các nước cần có một chính sách
thu hút và sử dụng FDI hợp lý nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực của nó.
III. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1. Thành tựu đạt được trong những năm qua
Sau hơn 10 năm hoạt động trên lãnh thổ Việt nam, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công
nghiệp, khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) và đóng góp 12%
GDP của cả nước. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút trên 35
vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp làm việc trong các

17
ngành xây dựng, thương mại, dịch vụ liên quan, góp phần quan trọng vào chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý và mở rộng thị
trường.
Song nhìn chung kể từ khi doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ra đời cho đến
nay đã có những đóng góp tích cực đối với nền kinh tế Việt nam thể hiện qua 5
yếu tố sau:
2.1. Phát triển ngành nghề
Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều ngành nghề mới, sản
phẩm mới góp phần làm tăng năng lực của một số ngành kinh tế. Cụ thể khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng khá cao trong một số ngành
như: 100% sản lượng dầu thô, ôtô, xe máy, máy lạnh, điều hoà nhiệt độ; 50%
điện tử gia dụng; 70% sản lượng thép cán; 30% sản lượng xi măng; 32% giày
dép xuất khẩu; 20% sản lượng thực phẩm và đồ uống; 16% sản lượng may mặc;
14% sản lượng ngành hoá chất của cả nước.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã tạo ra cho nền kinh tế
nước ta nhiều công nghệ mới, hiện đại mà biểu hiện cụ thể nhất là ở trong các
lĩnh vực viễn thông, dầu khí, hoá chất, điện tử, tin học, ôtô, xe máy… làm tiền đề
cho sự phát triển của một số ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước như công nghệ
khai thác dầu khí ngoài khơi, lắp đặt tổng đài kỹ thuật số, rôbốt, dây chuyền tự
động lắp ráp hàng điện tử, mạch điện tử; công nghệ chế tạo máy biến thế, cáp
thông tin, cáp điện… Đây là những yếu tố thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước
không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao chất lượng
và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
2.2. Góp phần chuyển dịch kinh tế
Đầu tư nước ngoài đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Với tỷ trọng khoảng 35% giá trị sản lượng công
nghiệp của cả nước, khu vực kinh tế này đã góp phần quan trọng trong việc nâng
giá trị sản xuất công nghiệp trong cả nước từ 11%/năm lên 13%/năm. Từ năm
18

1996 đến 2000, tốc độ tăng bình quân giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 22,5%/năm. Năm 1996, trong lĩnh vực công
nghiệp, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 26,2% giá trị tổng
sản lượng; tỷ trọng này đã tăng lên 36%. Nếu không có sự tăng trưởng nhanh của
công nghiệp khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thì tốc độ tăng trưởng của
toàn ngành công nghiệp Việt nam chỉ đạt 11,3% thay vì mức thực đã đạt 14,5%
năm 1996. Đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư trong tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) đã tăng từ 6,3% năm 1995 lên 7,4% năm 1996 lên 13,3% năm
2000.
2.3. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và thêm nguồn thu ngân sách.
Nếu trong giai đoạn 1991-1995, kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế
này đạt 1,121 triệu USD thì thời kỳ 1996-2002 đạt 10.407 triệu USD tăng hơn
chín lần so với thời kỳ trước và chiếm 23% tổng kim ngạch xuất khẩu.
2.4. Tạo việc làm cho người lao động
Đầu tư nước ngoài đã góp phần tạo ra một khối lượng lớn việc làm cho
người lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực. Bình quân mỗi năm khu vực
này đã thu hút thêm 30-35 ngàn lao động trực tiếp và gián tiếp. Tính đến cuối
năm 2000, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút khoảng 35 vạn
lao động trực tiếp. Một số lượng đáng kể người lao động đã được đào tạo nâng
cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, kỹ thuật đủ sức thay thế chuyên gia
nước ngoài. Thu nhập bình quân của người lao động cũng được cao hơn.
2.5. Thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế
Đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế với khu
vực và thế giới, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.
19
BẢNG 2: MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐÓNG GÓP CỦA ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI:
Đơn vị tính: triệu USD
Chỉ tiêu 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
1. Doanh thu
151

228 505 1.026 2.063 2.743 3.815 3.910 4.600 6.167
2. Xuất khẩu 52 112 269 352 336 788 1.790 7.982 2.547 3.300
3. Tỷ trọng trong
GDP (%)
6,3 7,39 9,07 10,03 12,24 13,25
4. Tốc độ tăng công
nghiệp (%)
45,6 40,4 13,6 12,8 8,8 21,7 23,2 24,4 20 23
5. Tỷ trọng trong
công nghiệp (%)
22,4 26,2 26,2 26,2 25,1 26,2 28,9 32 34,4 36
6. Nộp ngân sách 128 195 263 315 317 271 260
7. Lao động trực
tiếp đến cuối năm
(1.000 người)
220 250 270 296 327
(Nguồn: Báo cáo tổng kết về Đầu tư nước ngoài của Bộ Kế hoạch - Đầu tư)
Năm 2001 và 2002, số lượng các dự án đầu tư nước đã tăng nhiều hơn và
đặc biệt trong năm 2002 là một năm thu hút được nhiều dự án tăng vốn nhất từ
trước tới nay.
Vốn thực hiện tăng 2% (đạt khoảng 2,345 tỷ USD); doanh thu tăng 23%
(đạt khoảng 9 tỷ USD); xuất khẩu tăng 23% (đạt 6,5 tỷ USD); nhập khẩu tăng
30% (6,5 tỷ USD); nộp ngân sách tăng 23% (đạt 459 triệu USD); số lao động
tăng 8% (tính luỹ kế đến cuối kỳ đạt 472 nghìn lao động).
3. Môi trường đầu tư của các dự án FDI
3.1. Nguyên nhân khách quan:
3.1.1. Tỷ trọng vốn:
Bên cạnh những mặt tích cực của đầu tư nước ngoài, nó cũng đặt ra một số
vấn đề cần quan tâm như mối quan hệ giữa tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài với
vốn đầu tư trong nước trong tổng vốn đầu tư xã hội, thâm hụt cán cân thanh toán,

một vấn đề đã được đánh giá rất khác nhau trên các tài liệu nghiên cứu thế giới.
3.1.2. Chuyển giao công nghệ
Ngoài ra việc chuyển giao công nghệ qua đầu tư nước ngoài cũng đặt ra
nhiều vấn đề cho nước chủ nhà, trong đó nổi bật là công nghệ cũ (bãi thải công
20
nghệ), công nghệ không phù hợp với điều kiện của các nước đang phát triển, gây
ô nhiễm môi trường, giá cả đắt hơn thực tế, hơn nữa còn hạn chế nguồn hàng hoá
và dịch vụ trong nước kém phát triển.
3.1.3. Tác động môi trường
Trong quá trình thu hút đầu tư nước ngoài, chúng ta luôn phải đứng trước
sự lựa chọn giữa: một mặt cố gắng tạo ra sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước
ngoài (hạn chế các quy định về tiêu chuẩn môi trường) và mặt khác lại muốn
tăng cường bảo vệ môi trường của mình trước chất thải của các công ty nước
ngoài và việc khai thác của họ làm cạn kiệt các nguồn lực tự nhiên.
3.1.4. Vấn đề xã hội
Bên cạnh đó, nó còn ảnh hưởng tới sức khoẻ con người từ những hoạt động
sản xuất và quảng cáo tiêu thụ các đồ uống, thuốc lá và thực phẩm sử dụng nhiều
hoá chất đang phổ biến ở nước ta trong thời gian qua. Một hiện tượng nữa có thể
nói là được nảy sinh từ đầu tư nước ngoài đó là hiện tượng “chảy máu chất
xám”, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập, sa thải lao động (trực tiếp và gián
tiếp), xúc phạm nhân phẩm người lao động và khai thác cạn kiệt sức lao động
của người làm thuê.
Đầu tư nước ngoài còn được coi như là nguyên nhân của các vấn đề xã hội
như: làm tăng khoảng cách giầu nghèo giữa các cá nhân (những người làm việc
trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với những người làm việc trong các khu
vực khác), các vùng; làm băng hoại thuần phong mỹ tục; góp phần tích cực vào
sự nghiệp “giải phóng” phụ nữ thông qua tạo việc làm cho họ nhưng lại phá vỡ
trật tự gia đình, giảm thiên chức phụ nữ và làm gia tăng tình trạng sống độc thân
và ly hôn…
3.2. Nguyên nhân chủ quan:

Bên cạnh những hạn chế khách quan vẫn còn những yếu tố chủ quan như:
- Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài cho đến nay còn thiếu những quy
định chặt chẽ để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật, loại trừ
21
những mâu thuẫn chồng chéo đặc biệt là trong quy định của các Bộ, Ngành
và địa phương.
- Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài hiện chưa phát huy hết hiệu quả
định hướng thu hút đầu tư
- Hình thức tổ chức doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa đa dạng, luật
mới chỉ cho phép các doanh nghiệp được tổ chức dưới hình thức Công ty
trách nhiệm hữu hạn.
- Những biện pháp bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong
trường hợp có sự thay đổi chính sách, pháp luật chưa cụ thể, chưa thể hiện sự
nhất quán và ổn định của pháp luật, do vậy gây tâm lý thiếu tin tưởng cho các
nhà đầu tư.
- Các quyền tự do lựa chọn đối tác và cơ hội đầu tư của nhà đầu tư còn nhiều
hạn chế.
- Sau khi ban hành Luật, những biện pháp ưu đãi đầu tư về tài chính, ngân
hàng, ngoại hối … chưa được cụ thể hoá đầy đủ hoặc chưa có quy định rõ
ràng làm yên tâm các nhà đầu tư, đặc biệt là những biện pháp ưu đãi đối với
những địa bàn và lĩnh vực khuyến khích đầu tư.
- Thủ tục đầu tư đã được cải tiến đơn giản và thuận tiên hơn nhưng ở một số
khâu như thủ tục liên quan đến đất đai, hải quan, xuất nhập khẩu còn chậm,
phức tạp, gây phiền hà cho các nhà đầu tư.
- Những biện pháp quản lý, kiểm tra còn thiếu cụ thể và chặt chẽ để vừa đảm
bảo tính hiệu lực của Nhà nước, vừa tránh phiền hà cho hoạt động của các dự
án đầu tư nước ngoài.
- Sự hiểu biết pháp luật chính sách về đầu tư nước ngoài của cán bộ các cấp các
ngành còn nhiều hạn chế dẫn đến việc vận dụng tuỳ tiện, thiếu nhất quán
trong không ít trường hợp làm giảm tính hấp dẫn và hiệu lực của hệ thống

pháp luật về đầu tư.
22
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
I. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
VÀO VIỆT NAM
Có thể nói Việt nam sau những năm thực hiện công cuộc đổi mới đã đưa
nền kinh tế tiến lên và không ngừng phát triển, bắt kịp với các nước láng giềng
trong khu vực và sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Bên cạnh những
chuyển biến đáng kể của thời kỳ đổi mới đất nước phải nói đến việc thực hiện
chính sách mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài từ đó các nền công nghiệp, dịch vụ
bắt đầu phát triển, hội nhập khu vực, đất nước thoát khỏi sự cấm vận kinh tế,
được cộng đồng Quốc tế nối lại nguồn vốn ODA … đưa đất nước tiến vào thời
kỳ thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
23
Một trong những thành công lớn của sự nghiệp đổi mới là sự không ngừng
hoàn thiện tư duy kinh tế. Những chính sách phát triển nền kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN, chính sách mở cửa, chủ động hội nhập Quốc tế có hiệu
quả đã và đang tạo ra các động lực kinh tế. Đi đôi với việc củng cố và phát triển
kinh tế quốc doanh, Nhà nước đề cao, khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài với phương châm “Việt nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế
giới vì hoà bình, bình đẳng và cùng phát triển” đã tạo nên không khí an bình và
trong lành cho môi trường đầu tư ở Việt nam.
1. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thu hút đầu tư nước
ngoài thời gian qua
1.1. Thuận lợi:
Một nước có môi trường đầu tư tốt thực chất là nơi có nhiều yếu tố đảm bảo
cho các nhà đầu tư thực hiện được mục đích của mình. Đối với chúng ta hiện nay
đang có nhiều lợi thế trong cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài trên mọi lĩnh

vực, đồng thời với sự nỗ lực của Chính Phủ, các Bộ, Ngành liên quan đã giúp
cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm hơn khi đầu tư vào Việt nam. Điều này
thể hiện qua những khó khăn và thuận lợi sau:
1.1.1. Môi trường xã hội và tiềm năng phát triển của nền kinh tế
Việt nam có lợi thế về một tình hình chính trị ổn định, môi trường đầu tư
tốt, hơn thế nữa Việt nam có một vị trí thuận lợi tại Đông Nam Á và tiềm năng
lớn về tài nguyên thiên nhiên.
1.1.2. Thị trường lao động
Việt Nam là nước có lực lượng lao động rất dồi dào về số lượng, đa dạng
cũng như giá nhân công thấp, có trình độ học vấn trung bình tương đối cao, có
nhiều khả năng tiếp thu các kiến thức tiên tiến. Trong điều kiện trình độ có nền
sản xuất (kể cả các cơ sở sản xuất trong nước cũng như các cơ sở có vốn FDI)
như hiện nay thì về mặt cơ bản người lao động Việt Nam đáp ứng được yêu cầu
và có mặt bằng tiền lương tương đối thấp. Cộng thêm đó, Việt Nam ít có đình
24
công, bãi công tự do, đồng thời là một thị trường tiêu thụ 75 triệu dân và là
nước nằm trong khu vực phát triển nóng. Chính điều này đang trở thành một
trong những yếu tố hấp dẫn các nhà FDI.
1.1.3. Tham gia vào các quá trình hội nhập
Quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt nam tiếp tục phát triển, việc triển khai
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ sẽ tạo thêm tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư
nước ngoài và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài mở rộng sản
xuất để hướng xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Xu hướng toàn cầu hoá tiếp tục mở rộng, cuộc cách mạng công nghệ ngày
càng phát triển mạnh mẽ cùng với việc đẩy nhanh vòng đàm phán gia nhập WTO
sẽ tạo ra những cơ hội mới để Việt nam tham gia có hiệu quả vào phân công lao
động Quốc tế và tận dụng sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế - đầu tư của các nước
công nghiệp phát triển.
Hơn nữa việc tham gia vào quá trình hội nhập đầu tư Quốc tế, gia nhập
AFTA, ký các hiệp định khung và bảo hộ đầu tư với với các nước nhằm tăng

cường khả năng mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài. Tham gia các diễn đàn doanh
nghiệp và tổ chức nhiều đoàn vận động đầu tư tại các nước Châu Âu, Mỹ, Nhật

I.2. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi của quá trình thu hút đầu tư nước ngoài, Việt
nam vẫn còn phải đối mặt với những khó khăn:
1.2.1. Tác động bên ngoài
- Sự cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài trên thế giới và khu vực gia
tăng mạnh mẽ, nhất là sự cạnh tranh của Trung Quốc và các nước ASEAN,
trong khi tỷ lệ đầu tư nước ngoài vào các nước đang phát triển nói chung, vào
khu vực ASEAN giảm mạnh. Cạnh tranh của Trung Quốc càng mạnh mẽ hơn
khi Trung Quốc gia nhập vào WTO vào tháng 11-2001
25

×