Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Tính khả thi về kinh tế và kỹ thuật của việc áp dụng Quản Lý Thực Hành Tốt trong nuôi trồng thuỷ sản quy mô nông hộ ở Việt Nam - MS 8 " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.3 KB, 39 trang )



1

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn


HỢP TÁC PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN (CARD)



002/05 VIE

Tính khả thi về kinh tế và kỹ thuật của việc
áp dụng Quản Lý Thực Hành Tốt trong nuôi
trồng thuỷ sản quy mô nông hộ ở Việt Nam

MS 8: Báo cáo kỹ thuật
Đánh giá môi trường và kinh tế của Quản Lý
Thực Hành Tốt trong nuôi tôm ở Việt Nam

Nguyễn Xuân Sức
1
, Đinh Văn Thành
1
, Bùi Kiên Cường
1
,
Virginia Mosk
2


and Elizabeth Petersen
2*


1
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản 1 (RIA1), Từ Sơn - Bắc Ninh
2
Trường Đại học Tây Úc, 35 Stirling Hwy, NEDLANDS WA 6907
*
Thông tin tác giả: , Ph/Fax: +61 8 9332 8310

- 2008 -
Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
2
Lời cảm ơn
Các tác giả xin chân thành cảm ơn Chương trình Hợp tác Phát triển Nông nghiệp
Nông thôn (CARD) đã cung cấp tài chính thực hiện nghiên cứu này. Chúng tôi cũng
xin được gửi lời cảm ơn tới các tổ chức và cá nhân sau đây vì sự giúp đỡ trong quá
trình thưc hiện nghiên cứu. :
• Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản 1, Việt nam.
• Trường Đại học Tây Úc
• Trung tâm Khuyến ngư các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Thừa Thiên-Huế

Cục Vệ sinh, An toàn và Thú y thuỷ sản (NAFIQAVED), và
• Chín hộ mô hình trình diễn ở các tỉnh:
o Hộ ông Phan Ngẫn,
o Hộ ông Hầu Văn Ánh,
o Hộ ông Đinh Văn Vẫn,
o Hộ ông Cao Xuân Hoà,

o Hộ ông Lê Văn Tuấn,
o Hộ ông Đinh Văn Dũng,
o Hộ ông Nguyễn Hồng Quyền,
o Hộ ông Nguyễn Ngọc Hạnh, và
o Hộ ông Hoàng Xuân Kiên.



Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
3
Tóm tắt

Mục tiêu của báo cáo này nhằm cung cấp các kết quả nghiên cứu ban đầu về áp dụng
Thực Hành Quản Lý Tốt (BMP) trong nuôi tôm tại Việt Nam nhằm hạn chế ảnh hưởng
xấu tới môi trường và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đồng thời đảm bảo phát
triển lợi ích kinh tế của các nông hộ nuôi tôm. Nghiên cứu này phân tích số liệu thực
địa và số liệu trong phòng thí nghiệm về các chỉ tiêu chất l
ượng nước ở các địa
phương khác nhau nhưng cùng áp dụng BMP, gồm nguồn nước mương cấp, nguồn
nước trong ao nuôi và nguồn nước thải sau khi nuôi. Các số liệu thực địa và trong
phòng thí nghiệm được thực hiện tương đồng ở 9 hộ mô hình nuôi tôm đang thực
hành áp dụng BMP (ỏ 3 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Thừa Thiên - Huế, mỗi tỉnh 3 nông
hộ). Phân tích chất lượng sản tôm (hoá học và sinh học) của 9 hộ mô hình,
đồng thời
đánh giá các chỉ tiêu về kinh tế của các mô hình này

Trong khi cần thử nghiệm đối với số lượng lớn các nông hộ với thời gian dài để có kết
quả chắc chắn hơn thì kết quả ban đầu của nghiên cứu này cho rằng áp dụng BMP có
ảnh hưởng chung tới quản lý chất lượng môi trường nước, các chất hoá học và vi

sinh. Ngoài ra, nhóm thực hành BMP không có sai khác so với nhóm không thực hành
BMP về lợi nhuận khi phân tích về chi phí-hiệ
u quả (tỷ xuất sinh lợi của 2 nhóm này
tương đồng). Như vậy, việc phổ biến rộng rãi thực hành này sẽ không gây thiệt hại
về lợi nhuận của các hộ nuôi. Tuy nhiên, Nó có ảnh hưởng tích cực trong trường hợp
thị trường xuất khẩu được đảm bảo và mở rộng với sản phẩm được chứng nhận chất
lượng.

Các kết quả chính
1.
Phân tích mẫu môi trường nước cho thấy hầu hết các chỉ số môi trường
đều nằm trong khoảng thích hợp bao gồm các chỉ tiêu sau: độ mặn,
nhiệt độ nước, pH, ammonia, độ kiềm, nitrite và hydro sun-fua.
2. Độ trong hầu như không đạt được mức tối thích sẽ có tác động làm hạn
chế sự phát triển của thực vật phù du. Đối với nhiệt độ nước, trong một
số trường hợp cũ
ng nằm ngoài khoảng thích họp nhất đối với sự phát
triển của tôm.
3. Một trong những chỉ số môi trường chưa thật sự tốt nhất đối với ao
nuôi là ôxy hoà tan, đặc biệt vào buổi sáng. Mặt khác, lượng ôxy hoà
tan thấp ở nguồn nước thải có thể ảnh hưởng không tốt đến khu hệ cá
tự nhiên. Sử dụng quạt nước có thể khác phục được vấn đề
này, tuy
nhiên chi phí cũng cần được đánh giá
4. Phân tích chất lượng sản phẩm cho thấy các yếu tố hoá học cũng như
sinh học trong sản phẩm tôm không có ảnh hưởng tới tôm và an toàn
thực phẩm cũng như môi trường.
5. Tổng chi phí sản xuất tính cho nửa ha nuôi tôm là gần 55 triệu đồng
(tương đương 3,400 đô-la Mỹ ở thời điểm viết báo cáo). Chi phí chiếm
tỷ trọng lớ

n nhất là thức ăn (tới 51% tổng chi phí). Chi phí có sự khác
nhau đáng kể giữa các mô hình.
6. Sản lượng thu hoạch cho nửa ha đạt trên 1 tấn, với giá trị đạt 76 triệu
đồng/nửa ha (tương đươi với xấp xỉ 4,700 đô-la Mỹ ở thời điểm viết
báo cáo). Chỉ số này cũng có sự biến động khá lớn giữa các nông hộ.
Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
4
7. Giá bán tôm thịt bình quân đạt 73 ngàn đồng/kg, tôm có kích cỡ càng
lớn thì giá bán càng cao và ngược lại.
8. Lợi nhuận đạt xấp xỉ 21 triệu đồng/nửa ha (tương đương khoảng 1300
đô-la Mỹ) so với 8 triệu đồng ở nhóm không áp dụng BMP. Tỷ suất sinh
lợi đạt 1,3 không khác so với nhóm không áp dụng BMP. Điều này cho
thấy nhóm nghiên cứu đầu tư vốn vào sản xuất tôm nhiều hơn nhóm
không áp dụng BMP
9. Nếu các y
ếu tố môi trường nằm trong giới hạn cho phép và chất hoá
học cũng như vi sinh vật được khống chế thì yếu tố mang lại lợi nhuận
là thức ăn. Chi thức ăn mang lại hiệu quả cho các nông hộ nuôi tôm.
10. Các nông hộ có cơ hội trong việc năng cao nguồn vốn đầu tư sản xuất
tôm. Tăng trưởng của ngành công nghiệp nuôi tôm ở Việt nam có tiềm
năng duy trì ở m
ức trung hạn.


Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
5
Nội dung


Lời cảm ơn 2
Tóm tắt 3
1. Giới thiệu 6
2. Phương pháp nghiên cứu 8
3. Chất lượng môi trường trong hệ thống nuôi tôm 10
3.1 Độ trong 10
3.2 Độ mặn 11
3.3 pH 11
3.4 Ô-xy hoà tan (DO) 12
3.5 Nhiệt độ nước 13
3.6 Ammonia (NH
3
) 14
3.7 Độ kiềm 15
3.8 Nitrite 15
3.9 Hydro Sun-fua (H
2
S) 16
3.10 Các kết quả chính 17
4. Sản xuất tôm ở nông hộ 18
4.1 Thông tin chung về các nông hộ 18
4.2 Chất lượng môi trường nước ao nuôi 19
4.3 Phân tích chất lượng sản phẩm tôm (hoá học và vi sinh) 22
4.4 Phân tích chi phí sản xuất 23
4.5 Sản lượng và giá trị 27
4.6 Lợi nhuận và tỷ suất sinh lợi 29
5. Thảo luận và kết luận 31
5.1 Các chỉ số về môi trường nước 31
5.2 Sản lượng tôm và lợi nhuận 32
5.3 Kết luận 33

Tài liệu tham khảo 34
Phụ Lục 1: Hướng dẫn Thực Hành Quản Lý Tốt (BMP) 35
Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
6
1. Giới thiệu

Sản lượng tôm nuôi từ các nông hộ chiếm ưu thế đối với khu vực ven biển ở Việt
Nam. Năm 2006, gần 459 ngàn tấn tôm đã được sản xuất chiếm 12% tổng sản lượng
thuỷ sản của Việt Nam (USDAFAS 2007). Lượng tôm xuất khẩu chiếm xấp xỉ 34%
sản lượng tôm (158 ngàn tấn) mang lại giá trị 1,46 tỷ USD. Sản lượng tôm sản xuất
tăng, với chỉ số
tăng trưởng khoảng 13% mỗi năm từ năm 2000 đến 2006 (USDAFAS
2007). Giá bán không có biến động nhiều, vì vậy sự tăng trưởng về giá trị của sản
xuất tôm tương đương với sự tăng trưởng về sản lượng tôm

Gần 70% sản lượng tôm nuôi được xuất khẩu, chiếm tỷ lệ 24% tổng sản lượng ngành
nuôi trồng thuỷ sản song lại chiếm tới 71% về giá tr
ị hàng hoá (Fistenet 2007). Sản
lượng tôm nuôi tăng trưởng bình quân 26% mỗi năm trong các năm từ 2001 đến
2006, trong khi đó tỷ lệ tăng trưởng về sản lượng khai thác tự nhiên chỉ chiếm 2%.

Trong các năm gần đây, dư lượng hoá chất và tồn dư chất kháng sinh đã tìm thấy
trong tôm xuất khẩu đã ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường. Năm 2003, năm lô hàng
ký gửi từ Thừa Thiên Huế vào thị tr
ường Châu Âu bị tiêu huỷ hoặc trả về do phát hiện
tồn dư hoá chất và một phần lớn hàng hoá từ các tỉnh Bắc Trung Bộ cũng bị xử lý
tương tự trong năm 2004. Sự hạn chế về nhận thức, thiếu vồn và thiếu cơ hội để
nâng cao năng lực của các nông hộ là nguyên nhân dẫn đến thực hành sản xuất thiếu
hợp lý, vì vậy ảnh hưở

ng tới môi trường, suy giảm chất lượng nước, nguồn lợi tự
nhiên và phát sinh dịch bệnh. Như một hậu quả tất yếu là sinh kế của người dân bị
đe doạ.

Phát triển và phổ biến Thực Hành Quản Lý Tốt (BMP) tới các nông hộ nuôi tôm hiện
nay còn hạn chế bởi sự suy giảm về sản lượng, điều kiện môi trường và kinh tế-xã
hội cũng như
vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. BMP đã được sử dụng ở nhiều quốc
gia nhằm bổ sung các nguyên tắc chung đối với người nuôi tôm (FAO 2005). BMP
được áp dụng ở nông hộ và cộng đồng nhằm nâng cao hiệu quả, năng suất đồng thời
giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và kinh tế-xã hội cũng như cung
cấp sản phẩm đảm bảo đáp ứ
ng về vệ sinh an toàn thực phẩm. BMP được áp dụng
một cách tự nguyện và đã trở thành một chiến lược quan trọng được sử dụng rộng rãi
nhằm nâng cao tính thị trường của các sản phẩm nuôi trồng thuỷ sản.

Mộ số dự án đã được thực hiện nhằm phát triển thực hành BMP trong nuôi tôm ở Việt
Nam (ví dụ: dự án của DANIDA hay NAFIQAVED). Các dự án này đã đưa ra các tiêu
chí BMP riêng biệt và kiể
m chứng chúng ở một số quy mô nhỏ. Các kết quả này chưa
được phổ biến một cách rộng rãi đến người sản xuất. Đây cũng là nguyên nhân của
một số khó khăn về tài chính, xã hội, kỹ thuật và tính khả thi về kinh tế. Các nông hộ
nuôi tôm quy mô nhỏ thường xuyên thay đổi và manh muốn đồng thời năng lực chấp
nhận BMP của họ bị hạn chế do nhận thức, vấ
n đề vốn và thiếu sự khuyến khích động
viên. Lợi ích của việc áp dụng BMP vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu. Tuy nhiên,
kinh nghiệm từ các nước Thái Lan, Ấn Độ và Bangladesh cho thấy các nông hộ quy
mô nhỏ áp dụng BMP đã mang lại kết quả về hiệu quả, năng suất và chất lượng
(SUMA, 2004).


Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
7
Báo cáo này là một đầu ra của dự án được tài trợ bởi Cơ quan Phát triển Quốc tế của
Úc (AusAID) và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (MARD) thông qua
Chương trình Hợp tác Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (CARD). Mục tiêu của báo
cáo này nhằm cung cấp các dẫn liệu điều tra ban đầu trong việc chấp nhận BMP đối
với các nông hộ nuôi tôm nhằm hạn chế rủi ro về môi trường và an toàn thực phẩm
đồng thời đảm bảo ổn
định kinh tế cho các nông hộ. Báo cáo này trình bày kết quả
đánh giá môi trường và kinh tế của các mô hình áp dụng BMP ở 3 tỉnh của Việt Nam
(Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế và Nghệ An). Đánh giá bao gồm các phân tích chất lượng
nước đầu vào, đầu ra và ao nuôi, số liệu về chất lượng sane phẩm và phân tích thu
kinh tế đối với các mô hình nuôi.

Báo cáo bao gồm phần phương pháp nghiên cứu (Phần 2), các yếu tố môi trường
nước hệ thống nuôi (Phần 3), tình hình sản xuấ
t của nông hộ (gồm an toàn thực
phẩm, sản lượng và lợi nhuận của các hộ mô hình) (Phần 4). Cuối cùng là phần kết
luận và thảo luận về đánh giá ban đầu về chi phí-hiệu quả của BMP đối với môi
trường và an toàn thực phẩm

Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
8
2. Phương pháp nghiên cứu

Số liệu được thu thập trong vòng năm tháng từ tháng Ba đến tháng Bảy năm 2007, ở
3 tỉnh gồm Nghệ An, Hà Tĩnh và Thừa Thiên Huế (xem Hình 1).


Hình 1: Bản đồ các tỉnh Việt Nam, thể hiện 3 tỉnh dự án

Số liệu được thu thập qua 3 nguồn:
1. Từ cơ quan khuyến ngư: Gồm các số liệu thực địa và các số liệu môi trường
được phân tích trong phòng thí nghiệm ở các địa điểm khác nhau trong vùng
dự án. Các số liệu gồm nguồn cấp (nguồn nước mương cấp trước khi cấp vào
ao nuôi), nguồn thải (nước thải sau quá trình nuôi), và nước trong ao nuôi.
Đọc giả có thể xem thêm trong báo cáo Hạ và Sức (2007) để bi
ết thêm các
thông tin về vị trí thu mẫu của dự án.
2. Từ các nông hộ: Các số liệu thực địa cơ bản gồm chất lượng môi trường
nước, sản lượng và các thông số về kinh tế được thu thập bởi 9 nông hộ trình
diễn tại các địa điểm khác nhau trong vùng dự án.
3. Từ NAVIQAVED (Cục Vệ sinh, An toàn và Thú y thuỷ sản): NAVIQAVED
quản lý về vệ sinh thực phẩm và thú y Thuỷ
sản của Việt Nam. Cơ quan này
đã cung cấp các số liệu kiểm tra chất lượng sản phẩm tôm (các số liệu phân
tích hoá học và sinh học) từ 9 hộ mô hình trình diễn trong quá trình nuôi.
Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
9
Các số liệu thực địa gồm:
• pH: được đo với dụng cụ đo pH cầm tay (YSI 52)
• Độ muối: dùng khúc xạ kế (Spec T2000)
• Ôxy hoà tan (DO): dùng máy đo ô-xy hoà tan (YSI 52)
• Nhiệt độ (
o
C): dùng nhiệt kế (Thermo 100)
• Độ trong (cm): dùng đĩa Secchi


Nước chảy bề mặt sông là nguồn nước cấp cho quá trình phân tích trong phòng thí
nghiệm. Sử dụng bơm nhu động hai đầu để thu mẫu nước, mẫu nước được bảo quản
lạnh bằng nước đá sau đó được phân tích ngay sau khi đưa đến phòng thí nghiệm.
Các phân tích được thực hiện theo phương pháp chuẩn (Alpha 1998) gồm các thông
số sau:
• Độ kiềm (mg/l)
• Ammonia
(NH
3
) (mg/l),
• Nitrite (NO
2
) (mg/l), and
• Sulphide
(H
2
S) (mg/l).

Các phân tích thực địa và trong phòng thí nghiệm được thực hiện bởi các cơ quan
khuyến ngư địa phương và chín hộ mô hình trình diễn (với sự trợ giúp của nhóm cán
bộ nghiện cứu của Viện Thuỷ sản 1). Các hộ mô hình trình diễn cũng đồng thời hoàn
thiện các sổ nhật ký nuôi tôm nhằm kiểm tra đối chiếu các thông tin về sản lượng và
kinh tế. Nhóm dự án thực hiện việc thu mẫu tôm thịt sau
đó đưa tới văn phòng
VINAQUAVED để phân tích chất lượng sản phẩm (bao gồm các chỉ tiêu hoá học và
sinh học)

Nhóm đối tác Việt Nam và Australia (Viện Nghiên cứu Thuỷ sản 1 và Đại học Tây Úc)
cùng hợp tác trong việc phận tích xử lý số liệu và viết báo cáo. Một nhóm dự án gồm
ba thành viên của Việt Nam đã đến thành phố Perth trong tháng 12 năm 2007 để

cùng với nhóm chuyên gia Úc thực hiện việc phân tích số liệu ban đầu, thảo luận và
lập kế hoạch thực hiện.

Nhóm thực hiện gồm
Các thành viên phía Việt Nam
¾ Nguyễn Xuân Sức, trưởng nhóm
¾ Đinh Văn Thành
¾ Bùi Kiên Cường

Các thành viên phía Australia
¾ Tiến sĩ Elizabeth Petersen
¾ Virginia Mosk
¾ Phó giáo sư Steven Schilizzi




10
3. Chất lượng môi trường trong hệ thống nuôi tôm

Phần này trình bày số liệu của 9 yếu tố môi trường được thu thập bởi các cán bộ
khuyến ngư với tần suất thu mẫu 2 tuần/lần trong thời gian 4 tháng từ tháng 3/4
đến tháng 6/7. Các mẫu môi trường được thu và phân tích tại các mô hình trình diễn.
Vị trí thu mẫu bao gồm mẫu nước trong ao nuôi, nguồn nước cấp và nước thải. Các
kết quả chủ yếu được tóm tắt ở cuối của phần này (Mục 3.10).

3.1 Độ trong
Độ trong thích hợp cho ao nuôi dao động trong khoảng 25 đến 30 cm (Boyd 1990).
Khi độ trong nước ao thấp hơn 25 cm, nước ao vẩn đục do thực vật thủy sinh có thể
gây ra những bất lợi về oxy hoà tan. Ngược lại, độ trong cao hơn 40cm, thực vật thủy

sinh sẽ rất ít.

Kết quả nghiên cứu cho thấy đầu vụ nuôi giá trị độ trong ở các ao cao hơn khoảng
thích hợp ở cả 3 tỉnh, sau đấy giảm dần tớ
i khoảng cho phép ở nửa cuối của chu kỳ
nuôi tại Nghệ An và Hà Tĩnh (Hình 2). Ở 3 tỉnh, độ trong ở nguồn nước cấp và nước
thải cao hơn ngưỡng cho phép (trừ nước thải ở các ao của Thừa Thiên Huế). Độ trong
được xem như chỉ thị cho điều kiện của ao nuôi, mật độ thủy sinh vật và hầu như ít
quan trọng ở các kênh cấp và thoát nước.

Giá trị độ trong trong n
ước ao nuôi không có ảnh hưởng tới môi trường hoặc an toàn
thực phẩm, bởi lẽ nó chỉ thể thiện khoảng tối ưu cho sinh trưởng của tôm. Tuy nhiên,
khi thủy sinh vật trong ao nuôi phát triển mạnh lại thuận lợi cho tôm nuôi do thúc
đẩy sự phát triển sinh vật là thức ăn cho tôm. Ngoài ra nó còn hạn chế tầm nhìn của
sinh vật săn mồi (chim), do vậy giảm stress cho tôm tạo điều kiện cho tôm sinh
trưởng và phát triển nhanh hơn.

Hà Tĩnh - Độ trong
20
30
40
50
60
70
80
Ngày
cm
Inlet
Outlet

Ponds
T
T Huế - Độ trong

20
30
40
50
60
70
80
cm
Inlet
Outlet
Ponds

Nghệ An - Độ trong
20
30
40
50
60
70
80
cm
Inlet
Outlet
Ponds

Hình 2: Độ trong nước mương cấp, thoát và ao nuôi


Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
11
3.2 Độ mặn
Tại 3 tỉnh nghiên cứu, giá trị độ mặn trung bình ít có sự sai khác ở tất cả các nguồn nước.
Giá trị độ mặn thích hợp cho tôm nuôi nằm trong khoảng từ 15-25
%o (Boyd 1990). Kết
quả cho thấy, độ mặn ở các ao nuôi tại Nghệ An ở trong khoảng thích hợp trong suốt vụ
nuôi, nhưng ở Hà Tĩnh tăng cao tới 27
%o ở cuối vụ nuôi, trong khi ở Thừa Thiên Huế do
mưa nên độ mặn giảm thấp hơn mức thích hợp ở giữa vụ nuôi. Độ mặn ở nguồn nước cấp
và thoát trong quá trình nuôi và kết thúc vụ nuôi không có tác động xấu đến môi trường
hoặc an toàn thực phẩm. Độ mặn ở các vùng nuôi dao động trong khoảng từ 13-24
%o
trước khi thả giống (Hạ và Sức 2007).

Hà Tĩnh - Độ mặn
11
16
21
26
Ngày
o/00
Inlet
Outlet
Ponds
TT Huế - Độ mặn
11
16

21
26
o/00
Inlet
Outlet
Ponds

Nghệ An - Độ mặn
11
16
21
26
o/00
Inlet
Outlet
Ponds

Hình 3: Độ mặn ở mương cấp, thoát và ao nuôi

3.3 pH
Giá trị pH trong nước ao thích hợp cho tôm nuôi dao động từ 7,5 đến 8,5 (Boyd
1990). Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị pH ở ao nuôi tôm biến động trong khoảng
thích hợp cho tôm nuôi trong suốt quá trình nuôi ở tất cả các tỉnh (Hình 4). pH thấp
hơn mức thích hợp ở nguồn nước cấp và thoát tại Nghệ An và tại mương cấp ở Hà
Tĩnh. Tuy nhiên nó không có ảnh hưởng tới sản xuất tôm bởi lẽ các ao nuôi có thể tự
điều chỉnh pH.

Giá trị pH ở nguồn nước cấp và thoát trong quá trình nuôi và sau vụ nuôi không có
ảnh hưởng tới môi trường và an toàn thực phẩm. Báo cáo điều tra cơ bản cho thấy,
pH trước khi thả giống dao động trong khoảng 6,0-8,8 ở 3 vùng nghiên cứu.


Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
12
Hà Tĩnh - pH
5.5
6
6.5
7
7.5
8
8.5
Ngày
pH
Inlet
Outlet
Ponds
TT Huế - pH
5.5
6
6.5
7
7.5
8
8.5
pH
Inlet
Outlet
Ponds


Nghệ An - pH
5.5
6
6.5
7
7.5
8
8.5
pH
Inlet
Outlet
Ponds

Hình 4: Độ pH ở mương cấp, thoát và ao nuôi

3.4 Ô-xy hoà tan (DO)
Nhìn chung hàm lượng oxy hòa tan cao nhất ở nguồn nước cấp, thấp nhất ở nguồn nước
thải (Hình 5). Ôxy hòa tan trong các ao nuôi tại Hà Tĩnh và Thừa Thiên Huế cao hơn
5,5mg/l (giá trị thích hợp là 5mg/l), trong khi tại các kênh cấp, giá trị thấp hơn 4,5mg/l. Ở
Nghệ An, hàm lượng ôxy giảm thấp hơn 5mg/l ở hầu hết thời gian nuôi và đạt khoảng
3,75 mg/l ở cuối chu kỳ nuôi. Trong khi tại Hà Tĩnh, mặc dù ôxy hòa tan của nước thải
giảm xuống t
ới 2,75mg/l ở cuối vụ nuôi, lượng oxy hòa tan trong nước ao nuôi vẫn ổn
định ở mức 5,5mg/l. Do tôm có đặc tính sống nền đáy nên sự tác động qua lại giữa
nước/bùn và hàm lượng ôxy hòa tan rất quan trọng đối với tôm nuôi. Hầu hết bùn đáy
không có ôxy dưới lớp bề mặt khoảng vài cm, do ít có sự đối lưu của nước và hoạt động
của vi sinh vật trong nền đáy. Do đó, duy trì điều kiện ôxy hóa ở l
ớp bề mặt bùn đáy rất
quan trọng trong ao nuôi tôm bởi lẽ ôxy rất cần thiết cho tôm cũng như quá trình hô hấp
của các sinh vật là thức ăn của chúng. Ngoài ra, nó còn đẩy mạnh quá trình phân hủy các

chất hữu cơ, ngăn chặn thải độc chất và giảm các hợp chất như nitrite và H2S (Boyd
1990). Tuy hàm lượng ôxy hòa tan ở nguồn nước của 3 tỉnh không ảnh hưởng tới an toàn
thực phẩm, nhưng giá trị DO ở kênh thoát th
ấp hơn 5mg/l có thể ảnh hưởng tới môi
trường, thực vật và động vật ở môi trường sinh thái xung quanh vùng nuôi. Theo Ellis
(1937), trong điều kiện dòng chảy bình thường hàm lượng oxy hòa tan 3 mg/l hoặc thấp
hơn được coi như nguy hại tới khu hệ cá của sông.
Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
13
Hà Tĩnh - DO
2.5
3.5
4.5
5.5
6.5
7.5
Ngày
mg/l
Inlet
Outlet
Ponds
TT Huế - DO
2.5
3.5
4.5
5.5
6.5
7.5
mg/l

Inlet
Outlet
Ponds

Nghệ An - DO
2.5
3.5
4.5
5.5
6.5
7.5
mg/l
Inlet
Outlet
Ponds

Hình 5: Ô-xy hoà tan ở mương cấp, thoát và ao nuôi

3.5 Nhiệt độ nước
Nhiệt độ nước của các thủy vực nghiên cứu ở các tỉnh không có sự sai khác nhiều
(Hình 6). Đối với nuôi tôm, giá trị thích hợp dao động trong khoảng từ 25-33
o
C. Ở
tất cả các tỉnh, giá trị nhiệt độ nước nằm trong khoảng giới hạn thích hợp cho tôm
nuôi. Nhiệt độ nước tăng trong quá trình nuôi ở tất cả các tỉnh và cao nhất ở giữa chu
kỳ nuôi tại Thừa Thiên Huế và Nghệ An, kéo theo sự giảm của độ mặn và pH trong
nước.

Do giá trị nhiệt độ của kênh cấp nước và kênh thải tương tự như nhiệt độ n
ước trong

ao nuôi tôm và giống với số liệu điều tra cơ bản (Sức và Hạ 2007), do đó nhiệt độ
nước không có ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Nhiệt độ nước chỉ có thể ảnh
hưởng an toàn thực phẩm nếu sau khi thu hoạch, tôm không được nhanh chóng bảo
quản lạnh trong nước đá, đóng gói và vận chuyển đúng qui trình. Chỉ riêng nhiệt độ
nước trong ao nuôi không ảnh hưởng đến an toàn thực ph
ẩm.

Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
14
Hà Tĩnh - Nhiệt độ
24
26
28
30
32
34
Ngày
oC
Inlet
Outlet
Ponds
TT Huế - Nhiệt độ
24
26
28
30
32
34
oC

Inlet
Outlet
Ponds

Nghệ An - Nhiệt độ
24
26
28
30
32
34
oC
Inlet
Outlet
Ponds

Hình 6: Nhiệt độ nước ở mương cấp, thoát và ao nuôi

3.6 Ammonia (NH
3
)
Giá trị Ammonia luôn thấp ở tất cả các vực nước ở các tỉnh trong suốt vụ nuôi (Hình
7). Kết quả nghiên cứu cho thấy, giá trị Ammonia ở các khu vực thu mẫu thấp hơn
0,1mg/l, phù hợp với tiêu chuẩn nuôi tôm ở Việt Nam (hàm lượng NH3 an toàn cho
ao nuôi tôm vào khoảng 0,13 mg/l (Chin và Chen 1987)). Nhìn chung, hàm lượng
ammonia ở nguồn nước thải thường cao hơn ở nước cấp và trong ao nuôi tôm. Tuy
nhiên, hàm lượng amonia ở các kênh thải trong nghiên cứu này thì không quá cao và
không gây tác động môi trường hoặc tiêu chuẩn an toàn thực ph
ẩm. Khi hàm lượng
oxy hòa tan trong nước thấp, độc tố của ammonia đối với động vật thủy sản tăng

cao, tuy vậy, với việc hàm lượng CO2 tăng cao (xảy ra khi ôxy hòa tan thấp), độc tố
của ammonia giảm (Boyd 1990).

Hà Tĩnh - NH3
0
0.2
0.4
0.6
0.8
Ngày
mg/l
Inlet
Outlet
Ponds
TT Huế - NH3
0
0.02
0.04
0.06
0.08
mg/l
Inlet
Outlet
Ponds

Nghệ An - NH3
0
0.02
0.04
0.06

0.08
mg/l
Inlet
Outlet
Ponds

Hình 7: Hàm lượng amonia ở mương cấp, thoát và ao nuôi
Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
15

3.7 Độ kiềm
Giá trị độ kiềm trung bình ở tất cả các nguồn nước vào khoảng 85 mg/l, mặc dù ở
cuối chu kỳ nuôi, độ kiềm ở các ao nuôi ở Hà Tĩnh tăng lên tới 100 mg/l (Hình 8). Sự
tăng cao của độ kiềm liên quan đến sự giảm của nhiệt độ nước, độ mặn và pH. Nhìn
chung, giá trị độ kiềm ở tất cả các nguồn nước trong nghiên cứu đều dao động trong
khoảng thích hợp từ 80-120 mg/l.
Độ kiềm đóng vai trò quan trọng cho đời sống thủy
sinh vật. Các muối Bicarbonnate và cacbonate là nguồn các-bon quan trọng cần thiết
cho quá trình quang hợp của thực vật thủy sinh. Ngoài ra, độ kiềm còn có vai trò như
là hệ đệm góp phần làm giảm sự biến động của pH. Giá trị độ kiềm ở các nguồn nước
thải và nước cấp trong quá trình nuôi không có bất kỳ tác động nào tới chất lượng
môi trường cũng như an toàn thực ph
ẩm.

Hà Tĩnh - Độ kiềm
60
80
100
120

ngày
mg/l
Inlet
Outlet
Ponds
Hà Tĩnh - Độ kiềm
60
80
100
120
ngày
mg/l
Inlet
Outlet
Ponds
Nghệ An - Độ kiềm
60
80
100
120
mg/l
Inlet
Outlet
Ponds

Hình 8: Độ kiềm ở mương cấp, thoát và ao muôi

3.8 Nitrite
Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng Nitrite khác nhau ở các tỉnh điều tra và
nguồn nước (Hình 9). Giá trị nitrite thích hợp cho nuôi tôm thường thấp hơn

0,30mg/l. Hàm lượng nitrite (thấp hơn ngưỡng gây chết) tăng cao khả năng mẫn cảm
của cá đối với bệnh do vi khuẩn (Hanson và Grizzle 1985). Trong nghiên cứu này,
nhìn chung giá trị Nitrite ở tất cả các nguồn nước tại Thừa Thiên Huế và tại ao nuôi
và nguồn nước cấp ở Hà Tĩnh và Nghệ
An thấp hơn ngưỡng gây chết. Do rất nhiều
yếu tố ảnh hưởng độc tính của nitrite đối với tôm và cá trong ao nuôi (hàm lượng
clorin, pH, kích thước động vật nuôi, chế độ dinh dưỡng, mầm bệnh và hàm lượng
oxy hòa tan) nên rất khó chỉ ra yếu tố nào là chủ yếu. Tuy vậy hàm lượng ôxy hòa
tan trong ao nuôi được coi như là yếu tố quan trọng liên quan nhiều tới độc tính của
nitrite.


Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
16
Hà Tĩnh - Nitrate
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0.25
0.3
ngày
mg/l
Inlet
Outlet
Ponds
TT Huế - Nitrite
0

0.05
0.1
0.15
0.2
0.25
0.3
mg/l
Inlet
Outlet
Ponds

Nghệ An - Nitrite
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0.25
0.3
mg/l
Inlet
Outlet
Ponds

Hình 9: Hàm lượng Nitrite ở mương cấp, thoát và ao nuôi

3.9 Hydro Sun-fua (H
2
S)
Hàm lượng khí hydro sun-fua thích hợp cho tôm nuôi thường thấp hơn 0,2 mg/l. Ở

Thừa Thiên Huế, giá trị hydro sun-fua luôn nằm trong khoảng an toàn cho tôm nuôi ở
tất cả các nguồn nước và ao nuôi, trong khi ở Nghệ An và Hà Tĩnh chỉ có nguồn nước
cấp và ao nuôi (Hình 10) là thỏa mãn. Hydro sun-fua ở các kênh thải của Nghệ An
luôn cao hơn ngưỡng cho phép, còn ở Hà Tĩnh hàm lượng hydro sun-fua cao hơn
ngưỡng ở đầu vụ nuôi tôm. Hydro sun-fua có khả năng ngăn chặn hệ thống vận
chuyển electron và dừng quá trình hô h
ấp. Hàm lượng lactate trong máu cũng tăng
cao và quá trình hô hấp kị khí chiếm ưu thế so với quá trình hô thấp hiếu khi , dẫn tới
việc thiếu hụt ôxy. Do vậy nâng cao hàm lượng ôxy là cần thiết (Boyd 1990). Độc
tính của hydro sun-fua cũng phổ biến trong môi trường axit khi pH giảm. Do hydro
sun-fua có thể gây độc ở hàm lượng rất thấp khoảng 0,006 mg/l đối với trứng và
phát triển của ấu trùng của cá, do vậy tác động của hydro sun-fua tới môi trường cần
được giám sát. Nếu nước ao nuôi có thể được sục khí trước khi thải ra môi trường, có
thể giảm thiểu tác động tiêu cực của hydro sun-fua đối với môi trường xung quanh.
Với số liệu ở các vùng nghiên cứu ở trên, hàm lượng hydro sun-fua chưa ảnh hưởng
tới an toàn thực phẩm.
Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
17
Hà Tĩnh - H2S
0
0.01
0.02
0.03
0.04
ngày
mg/l
Inlet
Outlet
Ponds

TT Huế - H2S
0
0.01
0.02
0.03
0.04
mg/l
Inlet
Outlet
Ponds

Nghệ An - H2S
0
0.01
0.02
0.03
0.04
mg/l
Inlet
Outlet
Ponds

Hình 10: Hydro sun-fua ở mương cấp, thoát và ao nuôi

3.10 Các kết quả chính
1. Có5 các yếu tố môi trường nằm trong khoảng thích hợp cho tôm nuôi ở tất
cả các tỉnh nghiên cứu:
a. Độ kiềm
b. Amonia
c. Nitrite

d. pH và
e. Nhiệt độ nước
2. Hàm lượng ôxy hòa tan thấp hơn khoảng thích hợp ở Nghệ An
3. Độ mặn thấp hơn khoảng thích hợp ở Thừa Thiên Huế và cao hơn ngưỡng
cho phép ở Hà Tĩnh
4. Hàm lượng hydro sun-fua nằm trong khoảng cho phép ở tất cả các ao nuôi,
tuy vậy ở Hà Tĩnh và Nghệ An lại cao hơn ngưỡng cho phép ở kênh nước
thải.
5. Độ trong khá cao ở đầu vụ nuôi tại các tỉnh, sau đó giảm dần tới ngưỡng
thích hợp cho tôm nuôi ở các ao nuôi của Nghệ An và Hà Tĩnh vào cuối vụ
nuôi.
6. Có sự tăng cao của độ kiềm ở các ao nuôi của Hà Tĩnh tương ứng vớ
i giảm
nhiệt độ, pH và độ muối.
7. Phân tích số liệu chất lượng môi trường cho thấy không có tác động xấu
đến môi trường hoặc an toàn thực phẩm. Ngoại trừ, hàm lượng ôxy khá
thấp tại các kênh nước thải có thể gây nguy hại cho các khu hệ cá xung
quanh vùng nuôi. Ôxy hòa tan thấp cũng tăng độc tính của nitrite và hydro
sun-fua ở các kênh nước thải. Việc khuấy đảo nước trước khi thải ra khỏi
ao nuôi có thể hạn chế tác
động tiêu cực này.


Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
18
4. Sản xuất tôm ở nông hộ
Số liệu và các phân tích vế sản xuất tôm của các nông hộ được trình bày theo sáu
tiểu mục sau:
1. Thông tin chung về các nông hộ

2. Số liệu môi trường và chất lượng nước
3. Phân tích hoá học và sinh học chất lượng sản phẩm
4. Phân tích giá thành sản phẩm
5. Phân tích sản lượng và giá trị
6. Phân tích lợi nhận và tỷ suất sinh lợi

4.1 Thông tin chung về các nông hộ
Chín nông hộ tham gia trình diễn BMP, bao gồm 3 hộ ở Thừa Thiên - Huế (từ 1 đến 3
trong Bảng 1), 3 hộ ở Nghệ An (từ 4 đến 6 trong Bảng 1) và 3 hộ ở Hà Tĩnh (tự 7 đến
9 trong Bảng 1). Diện tích ao trung bình của các hộ là 0,44 ha, dao động trong
khoảng 0,25 đến 0,68 ha. Diện tích trung bình này nhỏ hơn so với diện tích trung
bình những hộ trong nhóm không thực hành BMP (0,69 ha) (Thành và ctv 2007)

Bảng 1: Địa chỉ các nông hộ, diện tích ao và hình thức nuôi

Địa chỉ nông hộ
Diện tích ao
(ha)
Mật độ thả
(con/m
2
)
Hình thức nuôi
1 Phong chanh, Vinh hưng, TT-Huế 0,68 7,9 Quảng canh cải tiến
2 Phong chanh, Vinh hưng, TT-Huế 0,36 13,9 Quảng canh cải tiến
3 Phong chanh, Vinh hưng, TT-Huế 0,50 10,0 Quảng canh cải tiến
4 Hưng hòa, Vinh, Nghệ An 0,25 24,0 Bán thâm canh
5 Hưng hoà, Vinh, Nghệ An 0,45 22,2 Bán thâm canh
6 Hưng hoà, Vinh, Nghệ An 0,50 10,0 Quảng canh cải tiến
7 Hồng hà, Thạch hà, Hà Tĩnh 0,50 18,0 Bán thâm canh

8 Liên hà, Thạch hà, Hà Tĩnh 0,50 20,0 Bán thâm canh
9 Liên hà, Thạch hà, Hà Tĩnh 0,25 24,0 Bán thâm canh
Trung bình 0,44 16,7


Bốn trong tổng số chín hộ mô hình đồng thời có ao chứa nhằm lắng và xử lý nước cấp
cho ao nuôi. Các ao chứa này có diện tích bình quân là 0,19 ha (dao động trong
khoảng 0,1 đến 0,25 ha)

Mật độ thả trung trình 16,7 con/m
2
, mật độ này hầu như gấp 2 lần mật độ nuôi của
nhóm không thực hành BMP, nhóm này mật độ thả trung bình là 8,4 con/m
2
(Thành
và ctv 2007)



Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
19
Hình thức nuôi trong báo cáo này được định nghĩa theo mật độ thả như sau:
• < 8 con/m
2
- Quảng canh
• 8-15 con/m
2
- Quảng canh cải tiến
• 15 -25 con/m

2
– Bán thâm canh
• > 25 con/m
2
– Thâm canh

Các hộ tham gia mô hình có hình thức nuôi quản canh cải tiến hoặc bán thâm canh.
Tất cả các hộ mô hình ở Thừa Thiên - Huế đều có hình thức nuôi quản canh cải tiến.
Số hộ còn lại đều nuôi theo hình thức bán thâm canh, trừ một hộ ở Nghệ An

4.2 Chất lượng môi trường nước ao nuôi
Số liệu chất lượng môi trường nước trình bày trong phần này do các nông hộ thu và
phân tích mẫu bằng các dụng cụ kiểm tra nhanh (testkit) do dự án cung cấp. Các số
liệu này cũng gồm 9 chỉ tiêu giống như trong Mục 3 ( số liệu do cán bộ khuyến ngư
thu thập và phân tích), địa điểm thu thập mẫu cùng giống nhau ở 3 tỉnh. Bảng 2
trình bày các chỉ số trung bình, cực tiểu, cực đại của các chỉ tiêu về chất l
ượng môi
trường nước trong vòng 10 đến 17 tuần nuôi từ tháng 3-4 đến tháng 6-7 năm 2007 (
thời gian chính xác phụ thuộc từng hộ mô hình).

4.2.1. Độ trong
Mặc dù trung bình độ trong của các ao nuôi đạt xấp xỉ 37 cm nằm trong khoảng thích
hợp là 25 đến 40 cm, tuy nhiên hầu hết các ao đều có giá trị độ trong tối cao cao hơn
mức thích hợp và có một ao độ trong tối thấp thấp hơn mức thích hợp là 25 cm.

Các ao 6,7 và 8 không thu được số liệu, cao ao 4,5 và 9 cho số liệu không đầy đủ,
tuy nhiên các nông hộ còn lại ghi chép chi tiết về màu nước cho thấy sự biết đổi từ
xanh nhạt đến xanh
đậm. Ao 3 ở Thừa Thiên-Huế hầu như có sự biến đổi màu nước
nhất quán từ xanh đến xanh đậm và vàng nhạt. Độ trong của các ao nuôi không ảnh

hưởng đến môi trường hay an toàn thực phẩm do chúng nằm trong khoảng thích hợp
cho sự phát triển tốt nhất của tôm.

4.2.2 Nồng độ muối
Nồng độ muối trung bình đạt xấp xỉ 19%
o nằm trong khoảng thích hợp từ 15 đến
25%
o. Thừa Thiên Huế có nồng độ muối thấp với 2 ao có nồng độ muối dưới mức tối
thích. Nhìn chung ở Nghệ An và Hà Tĩnh có một số ao có độ muối cao hơn khoảng tối
thích. Với nồng độ muối này thì không có ảnh hưởng đến môi trường và an toàn thực
phẩm. Nghiên cứu năm 2007 của Hạ và Sức cho thấy khoảng dao động độ mặn ở 3
tỉnh là 13 đến 24%
o ở thời điểm thả giống.

4.2.3 pH
pH buổi sáng (trung bình 7,93) và buổi chiều (trung bình 8,10) không nằm ngoài
khoảng thích hợp là 7,50 – 8,50. Nhìn chung, pH buổi chiều thường cao hơn buổi
sáng.Độ pH này không có ảnh hưởng đến môi trường và an toàn thực phẩm. Nghiên
cứu của Hạ và Sức (2007) cho thấy ở thời điểm thả giống chỉ số pH dao động trong
khoảng 6-8.30.
Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
20

4.2.4 Hàm lượng ô-xy hoà tan (DO).
Chỉ số này hầu như có sự sai khác đáng kể ở giá trị tối cao và tối thấp khác xa so với
giá trị tối ưu là 5 mg/l đặc biệt vào buổi sáng và như vậy sẽ không tốt cho sự tăng
trưởng tốt nhất của tôm. Hàm lượng DO ở mức này không ảnh hưởng đến an toàn
thực phẩm, tuy nhiên DO ở mương thoát thấp dưới mức 5 mg/l có thể ảnh hưởng đến
môi tr

ường và các loài động thực vật sống trong hệ sinh thái nước. Nếu DO trong các
dòng chảy tự nhiên bằng hoặc thấp hơn 3 mg/l sẽ có ảnh hướng xấu đến khu hệ cá
(Ellis 1937).

4.2.5 Nhiệt độ.
Chỉ số nhiệt độ trong khoảng thích hợp là 25 đến 33
o
C. Nhiệt độ ở Nghệ An và Hà
Tĩnh có giá trị tối cao cao hơn giá trị tối ưu. Nhiệt độ này không có sự biến đổi từ môi
trường xung quanh và không ảnh hưởng đến môi trường. Tuy nhiên, nhiệt độ nước có
thể ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm nếu khi thu hoạch sản phẩm không được bảo
quản lạnh trong quá trình vận chuyển và chế biến. Nhiệt độ ở các ao riêng lẻ thì
không có ả
nh hưởng.

4.2.6 Ammonia (NH
3
).
Hầu hết nằm ngoaì khoảng thích hợp là 0,00 đến 0,10 mg/l. Giá trị ammonia không
quá cao và không ảnh hưởng tới môi trường và an toàn thực phẩm. Ammonia thường
tăng độc tính khi hàm lượng ô-xy hoà tan thấp, tuy nhiên với sự tăng của CO
2
(khi
DO thấp) thì độc tính của NH
3
giảm (Boyd 1990).

4.2.7 Độ kiềm
Chỉ số này nằm trong khoảng thích hợp 80–120mg/l. Ở Nghệ An và Thừa Thiên Huế
mỗi tỉnh có 2 ao chỉ số này thấy hơn khoảng tối thích nhưng không ảnh hưởng tới sản

lượng tôm nuôi và cũng không ảnh hưởng tới môi trường và an toàn thực phẩm.

4.2.8 NO
2
và (H
2
S).
Các chỉ số này đều nằm trong khoảng thích hợp và không có ảnh hưởng tới môi
trường và an toàn thực phẩm



21
Bảng 2: Các chỉ số môi trường nước của các nông hộ

Độ
trong
(cm)
Độ
mặn
(%o)
pH
(sáng)
pH
(chiều)
DO
mg/l
(sáng)
DO
mg/l

(chiều)
Nhiệt
độ
o
C
(sáng)
Nhiệt độ

o
C (chiều
)
NH
3
(mg/l)
Độ kiềm
(mg/l)
NO
2
(mg/l)
H
2
S
(mg/l)
Cao nhất 40,00 25,00 8,50 8,50 33,00 33,00 0,10 120,00 0,25 0,02
Khoảng
thích
hợp ở
Việt
nam
Thấp nhất 25,00 15,00 7,50 7,50 5,00 5,00 25,00 25,00 0,00 80,00 0,00 0,00

Trung bình chung 36.81 19,14 7,93 8,10 4,56 5,42 28,90 31,18 0,04 88,30 0,02 0,00
Cao nhất 41,43 19,57 8,46 8,36 5,61 5,49 32,14 34,14 0,01 115,00 0,02 0,00
Thấp nhất 30,00 15,79 8,10 8,00 5,16 4,70 25,71 30,57 0,00 86,00 0,00 0,00
Ao 1
TT-Huế
Trung bình 35,16 17,80 8,29 8,18 5,41 5,26 30,06 32,09 0,00 97,63 0,01 0,00
Cao nhất 50,71 15,57 8,17 8,50 5,21 6,36 29,21 32,93 0,07 95,00 0,03 0,01
Thấp nhất 34,29 12,43 7,74 8,00 4,38 5,71 26,86 29,86 0,00 71,60 0,00 0,00
Ao 2
TT-Huế
Trung bình 41,57 14,33 7,92 8,19 4,74 6,06 28,41 31,14 0,02 84,35 0,01 0,00
Cao nhất 54,29 15,71 8,10 8,50 5,07 6,21 29,00 34,71 0,05 100,00 0,03 0,00
Thấp nhất 37,14 12,00 7,64 7,94 4,71 5,92 27,36 30,07 0,00 67,50 0,00 0,00
Ao 3
TT-Huế
Trung bình 42,14 14,18 8,45 8,15 4,93 6,07 28,21 31,03 0,02 85,43 0,01 0,00
Cao nhất 49,17 22,00 8,25 8,45 6,30 8,50 32,00 39,70 0,01 90,00 < 0,3 0,02
Thấp nhất 25,00 15,00 6,90 7,23 3,75 4,13 25,63 26,25 0,01 71,60 < 0,3 0,00
Ao 4
Nghệ
An
Trung bình 33,18 18,49 7,54 7,83 4,68 5,95 28,58 31,67 0,01 80,57 < 0,3 0,01
Cao nhất 56,67 19,00 8,45 8,65 5,00 5,30 33,00 33,50 0,01 90,00 <0,3 0,02
Thấp nhất 30,00 15,00 7,65 7,90 2,00 3,00 25,00 25,25 0,00 71,60 <0,3 0,00
Ao 5
Nghệ
An
Trung bình 38,01 17,75 8,03 8,23 3,69 4,44 28,90 29,68 0,01 76,63 <0,3 0,01
Cao nhất 62,14 27,21 8,33 8,60 4,29 4,29 32,50 35,17 1,08 110,00 < 0,3 0,00
Thấp nhất 30,00 20,00 7,50 7,75 3,14 3,14 23,57 25,29 0,00 80,00 < 0,3 0,00

Ao 6
Nghệ
An
Trung bình 38,75 21,38 7,99 8,37 3,95 3,95 27,87 29,82 0,15 89,50 < 0,3 0,00
Cao nhất 40,00 27,00 7,77 8,06 5,40 6,00 30,50 34,25 0,08 110,00 0,05 0,02
Thấp nhất 27,50 24,00 7,54 7,77 4,00 5,50 28,00 29,00 0,01 89,50 0,01 0,01
Ao 7
Hà Tĩnh
Trung bình 35,06 25,60 7,67 7,93 4,60 5,70 29,63 31,85 0,05 99,83 0,03 0,01
Cao nhất 50,00 31,00 8,14 8,43 n.a. n.a. n.a. n.a. 0,09 120,00 0,10 0,02
Thấp nhất 10,00 22,00 7,76 7,99 n.a. n.a. n.a. n.a. 0,01 89,50 0,01 0,01
Ao 8
Hà Tĩnh
Trung bình 30,00 24,83 7,94 8,23 n.a. n.a. n.a. n.a. 0,06 101,18 0,06 0,01
Cao nhất 62,50 20,50 8,10 8,45 5,00 8,30 34,00 36,00 0,09 90,00 n.a. 0,01
Thấp nhất 25,00 15,00 7,11 7,39 3,60 4,25 25,68 26,25 0,00 70,00 n.a. 0,00
Ao 9
Hà Tĩnh
Trung bình 37,38 17,90 7,49 7,79 4,49 5,92 29,58 32,14 0,02 79,63 n.a. 0,00
Ghi chú: Số đậm: nằm ngoài giá trị thích hợp.
n.a. = không có số liệu


22
4.3 Phân tích chất lượng sản phẩm tôm (hoá học và vi sinh)
Phần nầy trình bày kết quả chất lượng sản phẩm tôm do Cục Vệ sinh An toàn và Thú y
Thuỷ sản (NAFIQAVED) thực hiện. Số liệu phân tích gồm 2 nhóm các chỉ tiêu hoá học và
vi sinh (Bảng 3). Kết quả phân tích cho thấy hầu hết các mẫu tôm không có tồn dư hoá
chất trừ 2 trường hợp ở Hà Tĩnh dương tính với Furazolidone (AOZ) ở các ao số 8 và 9, có
2 ao ở Thừa Thiên Huế bị nhiễm Salmonella là ao 2 và 3. Tôm bị nhiễm Salmonella không

đáng quan ngại vì tuy chúng có ảnh h
ưởng chut it đến sức khoẻ tôm nhưng không gây gại
đối với môi trường và an toàn thực phẩm.

Bảng 3: Kết quả phân tích hoá học và vi sinh sản phẩm tôm
Phân tích hoá chất Phân tích vi sinh

CAP
(µg/kg)
AOZ
(µg/kg)
AMOZ
(µg/kg)
AHD
(ppb)
SEM
(ppb)
TPC E. coli
Salmon-
ella
V.
cholerae
Ao 1
TT-Huế
ND ND ND ND ND 5.5*100,000 Neg Neg Neg
Ao 2
TT-Huế
ND ND ND ND ND 6.5*10,000 Neg Pos Neg
Ao 3
TT-Huế

ND ND ND ND ND 6.5*10,000 Neg Pos Neg
Ao 4
Nghệ An
ND ND ND ND ND 2.7*10,000 <10 Neg Neg
Ao 5
Nghệ An
ND ND ND ND ND 1.2*100,000 <10 Neg Neg
Ao 6
Nghệ An
ND ND ND ND ND 2.9*100,000 <10 Neg Neg
Ao 7
Hà Tĩnh
ND ND ND ND ND 4.1*10,000 <10 Neg Neg
Ao 8
Hà Tĩnh
ND Pos ND ND ND 3.7*10,000 <10 Neg Neg
Ao 9
Hà Tĩnh
ND Pos ND ND ND 4.3*10,000 <10 Neg Neg
Ghi chú: CAP: Chloramphenical
AOZ: Furazolidone
AMOZ: Furaltadone
AHD: Nitrofurantoin
SEM: Nitrofurazone
TPC: Total plate count
E. coli: Escherichia coli

V. cholerae: Vibrio cholerae
ND: Not Detected
Neg: Negative

Pos: Positive


Đánh giá môi trường và kinh tế trong thực hành nuôi tôm ở Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 1 và Trường Đại Học Tây Úc
23
4.4 Phân tích chi phí sản xuất
Bảng 4 trình bày chi phí sản xuất của từng nông hộ trong số 9 hộ mô hình với đơn vị diện
tích cơ bản là 0,5 ha. Kết quả về tỷ lệ phần trăm của tổng chi phí được trình bày trong
Bảng 5.

Chi phí giống gồm chi phí cho mua tôm giống với số lượng trong khoảng 40 đến 120 ngàn
tôm giống P15 cho nửa ha. Giá tôm giống trung bình là 35 đồng/con dao động trong
khoảng 20-50 đồng/con. Chi phí mua tôm giống trung bình cho nửa ha là 2,9 triệu đồng
mỗi năm, chiếm 6,2% t
ổng chi phí sản xuất. Chi phí này tương đương với chi phí mua
giống của nhóm hộ không thực hành BMP theo điều tra năm 2006 (3,4 triệu đồng/ nửa ha
(Thành và ctv 2007). Tôm giống thường được mua trong tỉnh, trừ Hà Tĩnh, tôm được mua
từ Nghệ An.

Phương pháp kiểm tra chất lượng tôm giống của các nông hộ được tóm tắt như sau:
• 7 hộ dùng phương pháp chạy PCR
• 3 hộ dùng phương pháp cảm quan
• 3 hộ dùng phương pháp số
c độ mặn
• 2 hộ có kiểm tra MBV
• 1 hộ sốc phóc-môn
• Không có hộ nào kiểm tra ký sinh trùng

Lao động đi thuê thường được sử dụng trong khâu chuẩn bị và tu sửa ao nuôi. Chi phí

thuê nhân công vào khoảng 30 đến 45 ngàn đồng/công tuỳ công việc. Chi phí thuê nhân
công trung bình cho nửa ha ao nuôi là 5,1 triệu đồng chiếm 11% tổng chi phí, xếp vị trí
thứ hai trong các chi phí sản xuất.









24
Bảng 4: Chi phí nuôi tôm (triệu đồng/nửa ha)
Nông hộ
Chi phí
giống
Lao
động
Thức
ăn
Xử lý nước Hoá chất Phân bón
Năng
lương
Khấu hao
Thuế
(thuê)
đất
Tổng
1 0,8 3,6 12,7 1,3 0,7 0,3 1,9 1,5 0,7 23,5

2 1,4 4,2 20,7 1,0 1,4 0,5 1,4 2,1 1,4 34,2
3 1,1 5,0 15,2 1,4 1,7 0,4 1,3 1,5 1,1 28,6
4 4,8 10,0 77,1 4,2 12,6 0,2 8,0 12,0 12,0 140,9
5 4,4 6,8 52,0 1,7 6,6 0,1 4,9 2,2 1,7 80,4
6 2,0 0,0 7,4 1,0 6,7 0,1 1,7 0,5 0,5 19,9
7 4,5 9,5 9,5 3,3 4,3 1,6 0,0 8,0 1,0 41,7
8 4,5 7,0 21,9 2,4 4,1 0,2 0,0 0,0 0,0 40,1
9 4,8 0,8 47,8 4,2 9,0 0,2 8,0 8,0 1,2 84,0
Trung
bình 3,2 5,2 29,4 2,3 5,2 0,4 3,0 4,0 2,2 54,8
CV (%)
55,8 67,0 81,8 57,2 74,9 122,5 104,6 106.6 170,7 72,5

Bảng 5: Chi phí nuôi tôm (% tổng chi phí)
Nông hộ Giống
Lao
động
Thức
ăn
Xử lý nước Hoá chất Phân bón
Năng
lượng
Khấu hao
Thuế
(thuê)
đất
1 3,6 15,2 54,0 5,5 3,0 1,1 8,2 6,3 3,1
2 4,1 12,3 60,6 3,1 4,1 1,6 4,1 6,1 4,1
3 3,8 17,5 53,0 4,8 5,9 1,3 4,5 5,2 3,8
4 3,4 7,1 54,7 3,0 8,9 0,1 5,7 8,5 8,5

5 5,5 8,4 64,7 2,1 8,2 0,1 6,1 2,8 2,1
6 10,0 0,0 37,1 5,2 33,6 0,4 8,5 2,5 2,5
7 10,8 22,8 22,9 7,9 10,2 3,8 0,0 19,2 2,4
8 11,2 17,5 54,6 6,0 10,1 0,5 0,0 0,0 0,0
9 5,7 1,0 56,9 5,0 10,7 0,2 9,5 9,5 1,4
Trung
bình 6,5 11,3 51,0 4,7 10,5 1,0 5,2 6,7 3,1



25
Nông hộ sử dụng chủ yếu là thức ăn công nghiệp (gồm các loại như UP, Robet, Wind và
KP90), tuy nhiên 3 hộ ở Thừa Thiên - Huế có sử dụng thêm thức ăn tự chế. Giá thức ăn
bình quân xấp xỉ 18 ngàn đồng/kg. Chi phí thức ăn cho nửa ha nuôi tôm là 24,5 triệu
đồng chiếm tới 52,6% tổng chi phí – đây là chi phí chiếm tỷ trọng cao nhất trong các loại
chi phí sản xuất (chi phí thuê lao động chiếm vị trí số 2 với 11%). Chi phí này lớn hơ
n chi
phí thức ăn bình quân của nhóm hộ không thực hành BMP, chi phí thức ăn của nhóm hộ
này trung bình là 17,4 triệu đồng cho nửa ha ao nuôi mỗi năm (Thành và ctv 2007)

Các chất xử lý nước gồm:
• Vôi nông nghiệp (CaO) và vôi công nghiệp (CaCO
3
) được sử dụng ở cả 9 hộ mô
hình
• Diatomit được 1 mô hình sử dụng
• Các chất khác có 5 mô hình sử dụng
• Zoelite không có mô hình nào sử dụng

Chi phí trung bình cho các chất dùng xử lý nước là 2 triệu đồng/nửa ha tương đương 4,4

% tổng chi phí sản xuất. Chỉ số này gần tương đương với chỉ số tương ứng của nhóm
không thực hanhd BMP (Thành và ctv 2007). Tuy nhiên, theo số liệu điều tra, nhóm
không thực hành BMP sử d
ụng số lượng Diatomit, Dolomite và Zoelite nhiều hơn.

Các loại hoá chất sử dụng trong quá trình sản xuất tôm gồm:
• 6 mô hình sử dụng Clorine
• 3 mô hình sử dụng Saponine
• 1 mô hình sử dụng QM1
• 3 mô hình sử dụng BKC
• 5 mô hình sử dụng BRF2
• 3 mô hình sử dụng Super VS
• 3 mô hình sử dụng Zylmetyl
• 5 mô hình sử dụng khoáng chất
• Ngoài ra còn có bột đậu

Chi phí trung bình đối với hoá chất là 4,4 triệu cho nửa ha t
ương đương với 9,5% tổng chi
phí sản xuất

Phân bón được sử dụng nhằm phát triển tảo làm thức ăn cho tôm bao gồm các loại phân
bón sau:
• NPK sử dụng ở tất cả 9 hô hình
• Phân hữu cơ sử dụng ở 2 mô hình
• Phân lân sử dụng ở 3 mô hình

Chi phí phân bón bình quân là 0,4 triệu đồng chiếm 0,9% tổng chi phí, chi phí này chiếm
tỷ lệ phần trăm nhỏ nhất trong tổng chi phí. Chi phí năng lượng ch
ủ yếu là dầu với mức

×