Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Kinh nghiệm làm bài thi đại học khối AĐ pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.6 KB, 3 trang )

Kinh nghiệm làm bài thi đại
học khối A

Để bước vào phòng thi tốt, cần phải có quá trình chuẩn bị thật tốt. Dưới đây là một số gợi
ý mà bạn đọc có thể tham khảo.
* Đối với môn toán:
Trước khi làm bài cần phải tìm miền xác định của những hàm số đã cho và đặt điều kiện
để phương trình (hay bất phương trình) đã cho có nghĩa. Khi giải xong, nhớ chọn vài giá
trị đặc biệt để thử lại sự chính xác của kết quả.
Trong những bài toán có tham số, khi đặt ẩn phụ thì điều đầu tiên là cần phải xác định
chính xác giá trị của ẩn phụ. Nếu xác định sai miền giá trị của ẩn phụ thì câu đó chắc
chắn là không điểm.

Ảnh minh họa
Trong 1 đề toán, thường có 1 câu rất khó, chỉ có 1 điểm. Đừng nên tập trung nhiều vào
câu đó mà nên chăm chút 9 điểm còn lại cho trọn vẹn. 90% những bài toán thi đại học về
đại số đều dẫn đến việc sử dụng kiến thức cơ bản của nhị thức bậc nhất và tam thức bậc
hai. Do đó, cần phải nắm vững kiến thức về tam thức bậc hai.
Trong môn lý, thường có câu hỏi tìm cực trị của một đại lượng nào đó. Chúng ta thường
dùng bất đẳng thức Cauchy hay đặt ẩn phụ để đưa về dạng 1 tam thức bậc 2. Theo kinh
nghiệm, cho thấy rằng việc đặt ẩn phụ thường dẫn đến 1 bài toán đơn giản hơn. Khi giải
2 cách khác nhau mà ra 2 đáp số khác nhau thì chắc chắn có ít nhất 1 đáp số là sai. Nếu
lưỡng lự thì cứ giữ lại cả 2 cách giải, khi chấm giám khảo sẽ châm chước và chỉ chấm
phần giải đúng, bỏ qua cho phần giải sai.
* Đối với môn lý:
Liệt kê hết số liệu bài thi vào góc bên trái. Đổi ra hệ SI. Phải dẫn dắt khi làm bài: tất cả
hình vẽ, lập luận chọn nghiệm đều viết hết vào bài thi. Phân loại câu hỏi thuộc vấn đề
nào: xuôi hay ngược ? Nội dung gì: tìm Uh hay Vmax ? Cực trị hay khảo sát?
Nếu là bài toán xuôi thì hãy kết nối các đại lượng liệt kê và đại lượng cần tìm sẽ giúp ta
nhớ đến các công thức đã học có chứa các đại lượng nầy. Sau đó phân loại công thức là
có thể dùng trực tiếp hay phải chứng minh. Nếu là bài toán ngược thì nhớ xem có bao


nhiều cách giải. Ví dụ: Giản đồ Fresnel hay giải các hệ thống phương trình; đạo hàm hay
đưa về parabol…. rồi chọn cách quen thuộc nhất. Nhớ ghi đơn vị cho mỗi đáp số.
Các qui tắc cụ thể của môn lý là :
Cơ học: loại viết phương trình dao động nên vẽ trục ox với chiều + theo đề bài. Các bài
tập sóng cần xem chiều truyền sóng là chiều nào? Phương trình sóng khi giao thoa và
sóng dừng phải chứng minh bằng lượng giác .
Điện xoay chiều: đổi ra đơn vị SI rồi tính sẵn ZL, ZC, ….Gặp bài toán ngược phải nhớ
qui ước dấu của AB = (uAB; i), các bài toán viết biểu thức u hoặc i cần biết u/i = AB =
pha uAB – pha i . Góc (u1, u2) có thể tìm bằng hoặc giản đồ Fresnel. Các bài tập biến
thế, chuyển tải điện năng chỉ là loại đơn giản dùng các công thức trong sách giáo khoa.
Quang hình: các bài toán ngược về thấu kính, kính lúp, kính hiển vi hay thiên văn cần vẽ
mô hình vào bài thi để xác định vị trí vật, thấu kính, mắt từ đó lập phương trình nhanh
và chính xác. Các công thức tính độ bội giác nên thuộc lòng; kính hiển vi và thiên văn
nên lấy 3 số lẻ (thập phân).
Quang vật lý: phải tính chính xác đáp số .Các công thức cần chứng minh nên dẫn dắt rõ
ràng: Thí dụ: Tính bán kính R trong từ trường phải xuất phát từ lực Loren là lực hướng
tâm. Bài tập về mẫu nguyên tử Bohr cần vẽ giản đồ năng lượng vào bài làm để xác định
đúng bước sóng rồi áp dụng tiên đề Bohr.
Vật lý hạt nhân: cần nhớ cấu tạo từng hạt nhân và chất đồng vị (vì sẽ không được phép sử
dụng bản phân loại tuần hoàn). Bài tập phóng xạ có thể dùng ngay các công thức của
định luật phân rã. Các bài tập phải lấy toàn bộ số lẻ mà đề bài đã cho, không được làm
tròn số.
* Môn hoá học:
Để thấy được hướng giải quyết bài toán, thì các em nên tóm tắt, phân tích, tổng hợp các
dữ kiện trên đề để vẽ sơ đồ lời giải rồi mới giải.
Khi giải cần trình bày thật gắn gọn hoặc có thể viết tắt các từ thông thường hay sử dụng
để tiết kiệm thời gian và giảm sự mệt nhọc trong quá trình làm bài chẳng hạn tên gọi các
định luật ta có thể viết tắt ( ĐLBTKL: Định luật bảo toàn khối lượng; ĐLBTĐ: Định luật
bảo toàn điện tích ; ĐLTPKĐ: Định luật thành phần không đổi; …).
Khi viết phản ứng ta có thể không nên ghi là theo đề ta có phản ứng mà chỉ cần ghi: pứ;

không nên dùng các từ chuyển ý dài dòng như: mặt khác; mặt khác ta lại có,… mà ta chỉ
cần ghi là: mà; do; nên; có; …
Khi vẽ bảng biện luận ta cũng không cần ghi vào bài làm là ta có bảng biện luận mà chỉ
cần vẽ bảng thôi là đủ;… tóm lại các từ chuyển ý hay các điều giải thích mang tính hiển
nhiên thì không tính điểm nên ta ghi thật ngắn hoặc không cần ghi cũng được!
Đối với các loại câu hỏi giáo khoa như nêu hiện tượng hoặc giải thích điều gì đó từ phản
ứng. Nếu ta chưa thấy hướng trả lời, thì trước tiên ta viết phản ứng rồi cân bằng phản ứng
sau đó nhận xét lại các phản ứng thì chắc chắn sẽ có hướng trả lời!
Đối với những câu biện luận tìm chất, thì ta không nên chọn cách giải lý luận để dẫn đến
kết luận ( vì các em không khéo lý luận) nên ta chỉ cần kết luận rồi sau đó giải thích bằng
cách viết phản ứng (nếu có).
Vì các phản ứng trên bài giải thường là có điểm, do đó các em cố gắng ghi đầy đủ các
phản ứng vào bài làm mặc dù không giải được câu hỏi đó. Cần nhớ phản ứng được điểm
khi viết đúng và cân bằng chính xác, đồng thời phải ghi điều kiện phản ứng nếu có!
Phải giải hoàn chỉnh đến đáp số mới có điểm cao, dó đó không nên bỏ giữa chừng trừ khi
không giải được tiếp!

×