Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư. Lấy thực tế ở Việt nam để chứng minh doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.62 KB, 16 trang )

Câu 10: Mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút
và sử dụng vốn đầu tư. Lấy thực tế ở Việt
nam để chứng minh
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THU
HÚT,TẠO LẬP VÀ SỬ DỤNG VỐN
Vốn đầu tư là tiền tích lũy của xã hội, của
các cơ sở sản xuất kinh doanh, là tiền tiết kiệm
của nhân dân và tiền huy động từ các nguồn
lực khác được đưa vào sử dụng trong quá trình
tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sản
xuất hiện có và tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản
xuất kinh doanh cũng như các hoạt động sinh
hoạt đời sống xã hội
1.Tạo lập vốn đầu tư:
Tạo lập vốn đầu tư bao gồm các hoạt động
sản xuất, kinh doanh của các cá nhân, tâp thể,
doanh nghiệp, chính phủ, … các thành phần
kinh tế,các hoạt động này nhằm tạo ra giá trị
gia tăng cho nền kinh tế và từ đó hình thành
nên nguồn tích lũy hay tiết kiệm.
Vai trò: Tạo lập vốn đầu tư có trò quan
trọng gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế, tạo
điều kiện cho quá trình tái sản xuất xã hội; Tạo
lập vốn đầu tư là nguồn hình thành nên tiết
kiệm, Theo quan điểm của K. Max, con đường
cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất
mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành
tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng. Hay
nói cách khác nguồn lực cho đầu tư tái sản
xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự
gia tăng sản xuất và tích lũy của nền kinh tế;


đầu tư có tác động trực tiếp làm tăng tổng sản
lượng quốc dân tức là có tác động trực tiếp
đến tăng trưởng kinh tế.
Các phương pháp tạo lập vốn đầu tư:
Đứng trên góc độ vĩ mô có thể tạo lập vốn
đầu tư thông qua tổng sản phẩm quốc dân,
tổng sản phẩm quốc dân tăng sẽ là điều kiện
trực tiếp để tăng tích lũy. Đây là kênh tạo lập
có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra tích
lũy cho nền kinh tế. Sở dĩ nó có vai trò quan
trọng như vậy là vì nó tác động trực tiếp đến
tích lũy của một quốc gia, tổng sản phẩm quốc
dân sau khi trừ đi tiêu dùng sẽ là phần tích lũy
của nền kinh tế. Như vậy ta có thể tăng tích
lũy thông qua hai cách. Thứ nhất: với điều
kiện tổng sản phẩm quốc dân không đổi thì
tích lũy chỉ được tăng lên khi tiêu dùng giảm.
Thứ hai: với điều kiện tổng sản phẩm quốc
dân thay đổi thì khi tổng sản phẩm quốc dân
tăng lên thì tích lũy trong nền kinh tế sẽ tăng
với mức tiêu dùng cố định, hoặc tiêu dùng
tăng nhưng tốc độ tăng nhỏ hơn tốc độ tăng
tích lũy. Như vậy tạo lập qua tổng sản phẩm
quốc dân sẽ tạo lập được lượng vốn lớn về mặt
chất cũng như lượng, vì thế nhiệm vụ đặt ra là
nên phát huy vai trò của kênh tạo lập này để có
thể thực hiện được các mục tiêu cho đầu tư
tăng trưởng và phát triển kinh tế.Đứng trên
góc độ vi mô có thể tạo lập vốn đầu tư thông
qua các doanh nghiệp, các cá nhân và hộ gia

đình. Các nhân tố kinh tế này sẽ trực tiếp tham
gia vào quá trình sản xuất kinh doanh và sẽ
trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế,
tức là tích lũy của nền kinh tế sẽ tăng lên.
Thực tế ngày càng cho thấy vai trò của các
nhân tố này ngày càng quan trọng trong việc
tạo lập vốn, các nhân tố này sẽ là điều kiện cơ
bản và lâu dài cho việc tạo lập các nguồn vốn
một cách bền vững.
2.Thu hút vốn đầu tư:
Thu hút vốn đầu tư bao gồm các hoạt động,
biện pháp và chính sách nhằm đưa nguồn vốn
từ tích lũy trong nền kinh tế sang đầu tư.
Các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút đầu
tư:
Thứ 1:việc bỏ vốn của nhà đầu tư sẽ phụ
thuộc nhiều vào môi trường đầu tư, vì vậy môi
trường đầu tư có một vị trí vô cùng quan
trọng. môi trường đầu tư là tổng hòa các yếu
tố bên ngoài liên quan đến hoạt động đầu tư.
Mọi hoạt động đầu tư suy ra cho cùng là để
thu lợi nhuận, vì thế môi trường đầu tư hấp
dẫn phải là một môi trường có hiệu quả đầu tư
cao, mức độ rủi ro thấp. Điều này lại chịu ảnh
hưởng bởi nhiều nhân tố như: chính sách, cơ
chế ưu đãi đầu tư của địa bàn được đầu tư,
điều kiện phát triển về kết cấu hạ tầng, mức độ
hoàn thiện về thể chế hành chính – pháp lý,
khả năng ổn định về mặt chính trị-xã hội, độ
mở cửa nền kinh tế, sự phát triển của hệ thống

thị trường… Các nhân tố trên có mối quan hệ
tác động qua lại lẫn nhau, vì vậy để nâng cao
chất lượng và hiệu quả của môi trường đầu tư
nhât thiết phải quan tâm xử lý đồng bộ các yếu
tố ảnh hưởng trênThứ hai: mức độ phát triển
về quản lý kinh tế vĩ mô, chất lượng cung cấp
dịch vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất và
kinh doanh, mức độ cạnh tranh của thị trường
trong nước cũng ảnh hưởng đến quá trình thu
hút vốn đầu tư. Mức độ phát triển về quản lý
kinh tế vĩ mô thấp dẫn đến các hiện tượng lạm
phát cao, nợ nước ngoài nhiều, tham nhũng,
thủ tục hành chính rườm rà, tăng trưởng kinh
tế thấp, …là nguyên nhân tiềm ẩn gây nên
khủng hoảng. Chất lượng dịch vụ cơ sở hạ
tầng kém ảnh hưởng trực tiếp tới sự vận hành
các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như
đời sống của các nhà đầu tư nước ngoài, khiến
tăng chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm
không cao. Chất lượng các dịch vụ khác như
cung ứng lao động, tài chính cũng là những
yếu tố rất cần để thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài. Tính cạnh tranh của các nước chủ nhà
sẽ giảm được rào cản đối với đầu tư nước
ngoài, các nhà đầu tư có thể lựa chọn lĩnh vực
đầu tư để phát huy lợi thế so sánh của mình.
Bên cạnh đó, môi trường luật pháp và chính
sách đầu tư là một trong những điều đầu tiên
mà các nhà đầu tư quan tâm khi lựa chọn thị
trường đầu tư. Bởi quá trình đầu tư liên quan

đến rất nhiều lĩnh vực hoạt động trong một
thời gian dài, nên cần một môi trường pháp lý
ổn định và có hiệu lực là một yếu tố quan
trọng để quản lý và thực hiện đầu tư một cách
có hiệu quả. Môi trường này bao gồm các
chính sách, qui định, luật cần thiết đảm bào sự
nhất quán, không mâu thuẫn, chồng chéo nhau
và có tính hiệu lực cao.
Vai trò Cũng như tạo lập vốn đầu tư thu hút
vốn đầu tư có vai trò quan trọng đến tăng
trưởng kinh tế, tuy nhiên tác động của nó cũng
là gián tiếp, nó không trực tiếp tiến hành đầu
tư mà nó thu hút các nguồn tích lũy trong nền
kinh tế tạo thành vốn đầu tư, vốn đầu tư là yếu
tố quan trọng cho việc thực hiện hoạt động đầu
tư làm cho nền kinh tế tăng trưởng.
Nếu không có hoạt động thu hút vốn thì
nguồn tích lũy trong nền kinh tế không được
đưa vào sử dụng, điều này dẫn đến tình trạng
không có nguồn vốn đầu tư tái sản xuất xã hội
và tất yếu là nền kinh tế sẽ không tăng trưởng.
Mặt khác nếu không có hoạt động thu hút vốn
thì việc tạo lập vốn đầu tư sẽ không còn ý
nghĩa gì nữa, vì vậy thu hút vốn đầu tư là cơ
sở cho tạo lập và là điều kiện cho sử dụng vốn
đầu tư.
3.Sử dụng vốn đầu tư:
Sử dụng vốn đầu tư bao gồm các hoạt động
phân bổ, quản lý và giám sát quá trình chuyển
biến của vốn từ hình thái tiền tệ sang hình thái

vật chất dưới dạng các kết quả đầu tư nhằm
phục vụ trực tiếp cho quá trình tái sản xuất và
tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế.
Vai trò:Cơ chế phân bổ vốn, cơ chế quản lý
và giám sát hoạt động đầu tư sẽ có ảnh hưởng
trực tiếp và cơ bản đến hiệu quả đầu tư và chất
lượng tăng trưởng của mỗi quốc gia. Cơ chế
phân bổ vốn hiểu quả sẽ giúp cho quá trình
điều tiết vốn đến được đúng địa chỉ thực sự
nhu cầu sử dụng vốn, giúp nền kinh tế chuyển
dịch vốn từ nơi dư thừa sang nơi thiếu, từ nơi
sử dụng kém hiểu quả sang nơi hiệu quả hơn.
Cơ chế quản lý công khai và minh bạch sẽ
giúp cho quá trình giám sát thực hiện đầu tư
được thực hiện triệt để và từ đó sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư: Phương pháp phân tích hệ số Icor và
Phương pháp phân tích năng suất nhân tố
tổng hợp (TFP)
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA TẠO LẬP, THU
HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ
Trong vốn đầu tư, vấn đề tạo lập, thu hút và
sử dụng vốn luôn là vấn đề trọng tâm được
nhà nước và các doanh nghiệp rất quan tâm.
Giữa tạo lập, thu hút và sử dụng luôn tồn tại
mối quan hệ hữa cơ, không một yếu tố nào có
thể tách rời với các yếu tố còn lại. Việc nắm
bắt được mối quan hệ giữa chúng là một bài
toàn khó, một yêu cầu bức thiết đối với các

nhà kinh tế.
1. Tính thuận chiều trong mối quan hệ
giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư:
Xét trong tiến trình hoạt động và chu chuyển
của luồng vốn, giữa việc tạo lập, thu hút và sử
dụng vốn đầu tư luôn có mối quan hệ thuận
chiều xuyên suốt.
Quá trình tạo lập vốn tạo nên nguồn tích lũy
trong nền kinh tế, đây là nguồn gốc của vốn
đầu tư, muốn có vốn đầu tư thì phải có nguồn
tích lũy này. Để nguồn tích lũy này có thể đưa
vào sử dụng thì phải có một công cụ trung
gian làm nhiệm vụ đưa tiền từ tích lũy sang
đầu tư, đó chính là hoạt động thu hút vốn, như
vậy trong mối quan hệ này tạo lập vốn là điều
kiện tiên quyết cho thu hút vốn và thu hút vốn
là cơ sở cho việc sử dụng vốn. Tính thuận
chiều này tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa các
giai đoạn tạo lập, thu hút và sử sụng vốn với
nhau và đảm bảo tính lưu thông của nguồn vốn
đầu tư. Với nguồn vốn tạo lập càng lớn, trong
điều kiện môi trường đầu tư lý tưởng thì việc
thu hút nhiều các nguồn vốn sẽ đem lại hiệu
quả cao trong sử dụng vốn. Tuy nhiên giữa tạo
lập, thu hút và sử dụng vốn lại thường vấp
phải các trở ngại về năng lực đầu tư, môi
trường đầu tư, rủi ro tài chính… trong các hoạt
động của nguồn vốn. Điều này đã gây nên xu
hướng giảm dần về lượng vốn đầu tư trong
suốt quá trình tạo lập, thu hút và sử dụng vốn

đầu tư
Tạo lập là điều kiện tiên quyết cho việc thu
hút vốn đầu tư:
Theo lý thuyết thì tạo lập bao gồm các hoạt
động sản xuất kinh doanh để tạo ra tích lũy
cho nền kinh tế, mà như chúng ta đã biết đối
tượng của thu hút vốn đầu tư chính là nguồn
tích lũy của nền kinh tế, thu hút đưa tích lũy
trong nền kinh tế sang đầu tư, vì thế tạo lập
chính là điều kiện tiên quyết cho việc thu hút
vốn đầu tư.
Việc thu hút vốn đầu tư bị ảnh hưởng trực
tiếp bởi kết quả của tạo lập vốn. Nếu hoạt
động sản xuất kinh doanh tốt sẽ tạo ra giá trị
gia tăng cao và tích lũy của nền kinh tế sẽ tăng
và điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thu hút vốn đầu tư và ngược lại. Các biện pháp
và chính sách thu hút vốn đầu tư sẽ không có
hiệu quả nếu như nền kinh tế không có tích lũy
hay rõ hơn là việc sản xuất kinh doanh của nền
kinh tế không tạo ra giá trị gia tăng.
Tạo lập vốn chính là phương thức để tạo ra
sự tăng trưởng và phát triển đối với nền kinh
tế. Trên thị trường Vốn, có rất nhiều phương
thức để tạo lập vốn ( hay còn gọi là phương
thức tài trợ vốn) mà nhà nước và các doanh
nghiệp có thể tiếp cận và khai thác như: Sự tạo
lập vốn ban đầu có thể và trước hết là dựa vào
thị trường tài chính,thu hút vốn qua góp vốn
cổ phần ( phát hành cổ phiếu) hay đi vay (phát

hành trái phiếu, vay ngân hàng ). Sau đó, do
gắn liền với sản xuất kinh doanh, vốn và các
quỹ tiền tệ khác được bổ sung, tái tạo thông
qua việc phân phối doanh thu tiêu thụ sản
phẩm, lập các quỹ bù đắp ( như quỹ khấu hao
tài sản cố định, quỹ bù đắp vốn lưu động) và
tạo lập các quỹ từ lợi nhuận. Mỗi quỹ tiền tệ
trong doanh nghiệp đều có mục đích nhất
định, nhưng tính chất chung của chúng là gắn
liền với sản xuất kinh doanh, chi dùng cho
mục đích sản xuất kinh doanh và phần tiêu
dùng để hình thành thu nhập của những người
tham gia sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp.
Từ rất nhiều phương thức tạo vốn đó nguồn
vốn được tạo ra là rất lớn. Tuy nhiên lượng
vốn thu hút được thì lại thấp hơn so với nguồn
vốn tạo lập. Mặc dù có nhiều phương thức
khác nhau để tiếp cận các nguồn vốn dầu tư,
nhưng các doanh có thu hút được vốn hay
không lại phụ thuộc vào việc các doanh nghiệp
đó có hội đủ các điều kiện cần thiết để vay vốn
hay không và có nhận được sự tin tưởng từ
phía các nhà tài trợ vốn hay không. Trong đó
có các điều kiện cần thiết để vay vốn bao gồm:
năng lực tài chính như khả năng huy động vốn
lớn, có khả năng trả nợ cao, khả năng thanh
toán tiện lợi nhanh chóng, cân đối thu chi tốt,
phân phối lợi nhuận hiệu quả …; năng lực
kinh doanh như kỹ năng bán hàng chuyên
nghiệp, khả năng phân phối sản phẩm rộng,

marketing hiệu quả cao; năng lực quản lý như
đáp ứng tối dịch vụ khách hàng, quản trị nhân
sự hợp lý …; năng lực hoạt động như khả
năng nghiên cứu tìm thị trường mới, xây dựng
chiến lược cạnh tranh, dự báo đánh giá được
các cơ hội đầu tư …
Thu hút vốn đầu tư là cơ sở cho việc sử dụng
vốn đầu tư :
Mục đích chính của việc thu hút vốn đầu tư
là đưa tiết kiệm trong nền kinh tế sang đầu tư.
Nền kinh tế sử dụng vốn đầu tư để phục vụ
trực tiếp cho quá trình tái sản xuất và tái sản
xuất mở rộng của nền kinh tế, nguồn vốn sử
dụng này không phải từ nguồn nào khác mà
chính là từ nguồn vốn thu hút, mà nếu nói rõ
hơn nếu không có hoạt động thu hút vốn đầu
tư thì sẽ không có việc sử dụng vốn đầu tư và
nền kinh tế sẽ không tăng trưởng.
Việc sử dụng vốn đầu tư chịu ảnh hưởng rất
lớn từ việc thu hút vốn đầu tư: những rủi ro tài
chính do sự biến động của thị trường như giá
ngoại tệ lên xuống thất thường, đồng nội tệ
mất giá, thị trường bất động sản thay đổi, tình
trạng trượt giá phi mã, … khiến cho lượng vốn
thu hút được không như mong đợi dẫn đến
việc sử dụng vốn sẽ gặp nhiều khó khăn trong
khâu phân bổ, quản lý và giám sát vốn, và đặc
biết là khâu phân bổ vốn, từ đó ảnh hưởng trực
tiếp và cơ bản đến hiệu quả đầu tư và chất
lượng tăng trưởng của mỗi quốc gia.

Xét trên tổng thể một quốc gia, việc thu hút
được một lượng vốn lớn chưa đảm bảo được
tính hiệu quả trong sử dụng lượng vốn đó. Bởi
vì khi đó các vấn đề cơ sở hạ tầng, nhân lực,
thủ tục hành chính và sự đồng bộ của thị
trường lại trở thành những thách thức đối với
việc tăng hiệu quả thực tế của việc sử dụng
vốn đầu tư. Đồng thời sự lỏng lẻo cũng như
tiêu cực trong công tác quản lý nguồn vốn của
nhà nước thương dẫn đến tình trạng thất thoát,
lãng phí vốn gây ảnh hưởng rất lớn tới hiệu
quả sử dụng của đồng vốn bỏ ra cũng như chất
lượng dự án thực hiện.
Đặc biệt là sự chậm trễ trong công tác giải
ngân vốn đầu tư cho các dự án. Nguyên nhân
chậm trễ là do bất cập ở nhiều khâu từ vướng
mắc về thủ tục, tư vấn của dự án yếu, khó
khăn trong giải phóng mặt bằng, năng lực nhà
thầu kém, không đảm bảo đủ vốn đối ứng, thời
gian thực hiện các dự án quá dài, năng lực
điều hành của các ban quản lý còn nhiều hạn
chế. Xét tầm vi mô, khi vốn thu hút được đầu
tư vào các dự án thì các doanh nghiệp lại
thường chậm trễ trong tiến độ thực hiện, công
việc giải ngân chậm chạp cùng với những
vướng mắc trong công tác đấu thầu khiến cho
hiệu quả của dồng vốn bỏ ra không cao, tỷ lệ
vốn hoạt động có hiệu quả trong tổng nguồn
vốn thu hút được thường thấp.
Qua việc phân tích xu hướng trên, ta thấy thu

hút hiệu quả nguồn vốn đóng vai trò đặc biệt
trong tạo lập và sủ dụng vốn có hiệu quả. Nó
chính là công cụ hữu hiệu để thực hiện liên kết
giữa tạo lập và mục tiêu sử dụng vốn đầu tư.
Mối quan hệ chặt chẽ từ việc tạo lập vốn đến
thu hút và sử dụng các nguồn vốn cho đầu tư
phát triển đã tạo nên sự xuyên suốt trong quá
trình lưu thông nguồn vốn đáp ứng sự tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế.
2. Sử dụng hiệu quả vốn đầu tư là cơ sở
duy trì sự tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh
tạo lập vốn và tăng khả năng thu hút vốn:
Tính hiệu quả của việc sử dụng vốn được thể
hiện thông qua các tác động tích cực đến nền
kinh tế. Cụ thể ở:
Vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế…
được thể hiện chủ yếu thông qua chỉ tiêu
GDP với sự gia tăng đều đặn của tỷ trọng khu
vực phi nông nghiệp, đồng thời với mức suy
giảm tỷ trọng của khu vực nông nghiệp ( trong
khi giá trị tuyệt đối và quy mô của khu vực
nông nghiệp vẫn tăng lên), hay sự tập trung
phát triển các vùng có trọng điểm. Mức đầu tư
của nền kinh tế cũng như của từng thành phần
trong các năm liên tục tăng. Cơ cấu đầu tư tuy
chưa có nhiều biến đổi, nhưng đã có những
dấu hiệu tích cực: phần vốn đầu tư của thành
phần kinh tế nhà nước dần giảm tỷ trọng, thay
vào đó là tỷ trọng vốn của thành phần kinh tế

ngoài nhà nước đang dần tăng lên. Điều đó thể
hiện chúng ta đang ngày huy động được nhiều
nguồn lực của đất nước … Ngoài ra chúng ta
còn hình thành cơ cấu vùng kinh tế trọng điểm
của đất nước.
Cơ sở hạ tầng được cải thiện đáng kể: giao
thông đường xá cầu cống thuận lơi hơn hiện
đại hơn, hệ thống thông tin liên lạc nhanh
chóng, xã hội được điện khí hóa. Khoa học kỹ
thuật ngày càng phát triển: ngày càng nhiều
nghiên cứa cơ bản và nghiên cứa ứng dụng ra
đời khắc phục đắc lực cho kinh tế xã hội.
chính vì lý do đó mà năng suất xã hội tăng
nhanh do cơ khí hóa tự động hóa, cách thành
tựu khoa học tiên tiến và các phương pháp
quản lý hiện đại.
Nhờ những kết quả trên mà tăng trưởng kinh
tế đạt tốc độ cao, năm sau cao hơn năm trước;
cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; cơ sở hạ
tầng được xây dựng và nâng cấp … Cơ cấu
đầu tư đã dịch chuyển theo hướng tích cực, tập
trung cho những mục tiêu quan trọng về phát
triển kinh tế xã hội; vừa tập trung cho tăng
trưởng kinh tế, vừa quan tâm đến phát triển xã
hội và xây dựng cơ sỏ hạ tầng; vừa tập trung
cho vùng động lực, vừa tăng cho vùng
nghèo.Đặc biệt thể hiện ở đời sống nhân dân
không ngừng nâng cao.Và chính việc sử dụng
hiệu quả vốn đầu tư đã tác động trở lại đối với

quá trình tạo lập và thu hút vốn thể hiện như
sau:
Thứ nhất: Sử dụng vốn hiệu quả vừa là mục
tiêu vừa là điều kiện để phát triển và là cơ sở
đảm bảo việc gia tăng khả năng tạo lập các
nguồn vốn : Việc sử dụng vốn hiệu quả sẽ góp
phần tạo ra tăng trưởng kinh tế, cụ thể ở đây là
sự gia tăng về thu nhập quốc dân, điều này tạo
điều kiện cho việc tạo lập vốn dễ dàng hơn và
khả năng tích lũy của nền kinh tế sẽ có khả
năng gia tăng.
Khi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục
do sử dụng hiệu đồng vốn thì tổng GDP của xã
hội ngày càng lớn và tỷ lệ dành để tái đầu tư
cũng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP
sẽ liên tục tăng trong cao trong các năm. Và
khi có tăng tái đầu tư thì lại duy trì tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế và do đó lại tăng khả
năng tạo lập vốn.
Trên góc độ vi mô khi 1doanh nghiệp sử
dụng hiệu quả nguồn vốn sản xuất kinh doanh
thì doanh nghiệp đó sẽ không ngừng tăng
doanh thu và lợi nhuận. Trước tiên doanh
nghiệp sẽ trích một phần lợi nhận đó vào các
quỹ khấu hoa tài sản cố định, một phần để tái
sản xuất mở rộng , như vậy quy mô vốn sản
xuất đã tăng. Mặt khác khi các doanh nghiệp
làm ăn hiệu quả thì lượng thuế mà nhà nước
thu được lớn hơn từ đó làm tăng nguồn thu
ngân sách nhà nước.

Khi tăng trưởng kinh tế cao sẽ đi kèm là chất
lượng cuộc sống không ngừng tăng lên: sẽ có
một bộ phận không nhỏ dân cư có thể tiết
kiệm được một lượng tiền nhất định, lượng
tiền này một phần làm gia tăng trực tiếp lương
vốn được tạo lập, một phần khác nó được đưa
vào đầu tư, trong môi trường kinh tế phát triên
hiệu quả sử dụng của đồng vốn đầu tư được
đảm bảo thì đồng vốn đưa vào đầu tư sẽ sinh
lời, từ đó tạo ra giá trị gia tăng và lại làm tăng
khả năng tạo lập vốn của nền kinh tế.
Thứ hai: Vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu
quả thì khả năng thu hút nó càng lớn : Thực
chất của mối quan hệ này nằm trong mối quan
hệ nhân quả của các sự vật. Thứ nhất, với năng
lực tăng trưởng đảm bảo, năng lực tích lũy của
nền kinh tế sẽ có khả năng gia tăng. Khi đó
quy mô các nguồn vốn trong nước có thể huy
động sẽ được cải thiện. Thứ hai, triển vọng
tăng trưởng và phát triển càng cao cũng sẽ là
tín hiệu thu hút các nguồn vốn đầu tư nước
ngoài.
Đối với các nhà đầu tư trong nước, họ hiểu
rất rõ về môi trường đầu tư, tình hình kinh tế,
xã hội của đất nước mình, và họ sẽ có quyết
định đúng đắn khi tiến hành đầu tư. Khi tạo
được cho các nhà đầu tư trong nước cảm thấy
an toàn khi đầu tư thông qua việc cải thiện môi
trường đầu tư thì sẽ góp phần thúc đẩy các nhà
đầu tư trong nước đầu tư tích cực, việc thu hút

vốn đầu tư trong nước sẽ gia tăng. Một quốc
gia muốn phát triển bền vững thì phải dựa vào
nguồn vốn trong nước, xem đây là nguồn vốn
quan trọng cho tăng trưởng và phát triển kinh
tế.
Dấu hiệu để các nhà đầu tư nước ngoài chú ý
đến một nước đó là hiệu quả sử dụng vốn của
nước đó như thế nào. Họ sẽ xét đến rất nhiều
yếu tố vĩ mô của nền kinh tế mà tổng quát nhất
là tốc độ phát triển của nền kinh tế đó, tình
hình kinh tế xã hội. Thường các nhà đầu tư sẽ
chú ý tới những nước mà có những điều kiện
thuận lợi cho đầu tư như cơ sở hạ tầng, trình
độ khoa học kỹ thuật, năng suất lao động xã
hội. Khi nguồn vốn đầu tư được sử dụng một
cách có hiệu quả thì trước tiên là cơ sở hạ tầng
của xã hội sẽ ngày càng hiện đại, trình độ khoa
học kỹ thuật nâng cao, trình độ dân trí và chất
lượng nguồn nhân lực được đảm bảo. trình độ
quản lý ngày càng được hoàn thiện, thông
thoáng và hợp lý. Và các nhà đầu tư trực tiếp
họ có thể yên tâm đầu tư khi mà cơ sở hạ tầng
nguồn nhân lực đáp ứng được. Họ có thể đầu
tư và thu lợi nhuận, họ sẽ có niềm tin sẽ kinh
hoanh đầu tư thành công khi các điều kiện vĩ
mô và vi mô đều thuận lợi.
Đối với nguồn vốn vay ưu đãi, các nước chỉ
cho nước nào vay khi nước đó sử dụng đồng
vốn đạt hiệu quả, bởi vì nhu cầu về vốn hiện
nay ở các nước đang phát triển là rất lớn.

Không một nước nào cho vay không hay là
cho vay mà khả năng trả nợ của nền kinh tế
không được đảm bảo. Bởi thế khi đồng vốn
được sử dụng hiệu quả, đồng nghĩa với việc
nền kinh tế đó đang tăng trưởng và hoàn toàn
sẽ hoàn trả vốn cho nước đã vay, nước cho vay
cũng thu được nhiều ưu đãi của nước đi vat,
khi niềm tin vào khả năng sử dụng vốn thì các
nước sẵn sàng đầu tư hoặc cho nước đó vay
tiền, do vậy chúng ta sẽ thu hút được nhiều
hơn các nguồn vốn từ bên ngoài
III-LẤY THỰC TẾ VN CHỨNG MINH
Thứ nhất: Khả năng tạo lập vốn ngày
càng được cải thiện tạo điều kiện tốt để thu
hút vốn ngày càng nhiều
Từ năm 1986 khi đường lối cơ chế được thay
đổi toàn bộ nền kinh tế đã chuyển sang một
giai đoạn mới. Trước tiên là luật doanh nghiệp
cho phép thành lập các công ty tư nhân, cho
phép phát triển nền kinh tề nhiều thành phần
và do đó nâng cao tính cạnh tranh của các đơn
vị trong nền kinh tế. Nhà nước không can
thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp nhà nước do đó các
doanh nghiệp này tự chủ về sản xuất làm ăn
hiệu quả hơn, từ đó nguồn vốn tín dụng tích
lũy mở rộng sản xuất tăng sản lượng ngày
càng tăng. Đó là chưa kể đến khi cho phép các
thành phần kinh tế tư nhân phát triển đã tạo
lập được một nguồn vốn nhàn rỗi đáng kể từ

dân cư trong xã hội có tiền tiết kiệm và muốn
đầu tư. Nhà nước luôn có chủ trương khuyến
khích xã hội hóa huy động tối đa các nguồn
vốn nhàn rỗi. Với sự gia tăng không ngừng
của các ngân hàng thương mại nguồn vốn tiết
kiệm của nhân dân ngày càng nhiều góp phần
quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế. Đặc
biệt trong những năm gần đây, với sự tăng
trưởng cao của nền kinh tế đã tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tạo lập vốn, cơ chế kinh tế-
xã hội thông thoáng cộng với các chính sách
tạo điều kiện cho sản xuất và kinh doanh tăng
nhanh, hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu
quả đã góp phần tăng tích lũy trong nền kinh
tế.
Thứ hai: Khả năng thu hút vốn ngày càng
gia tăng
Nhìn chung trong những năm vừa qua tình
hình thu hút và tạo lập vốn ngày càng được
nâng lên về cả chất và lượng. Lượng vốn huy
động được cho mỗi năm luôn cao hơn năm
trước. Xét riêng trong năm 2008 :Tính đến hết
tháng 9 năm 2008 nguồn vốn tín dụng đầu tư
thực hiện ước đạt 25,6 nghìn tỷ đồng, bằng
59,7% kế hoạch năm, trong đó nguồn vốn
trong nước cho vay theo kế hoạch chỉ đạt 9,6
nghìn tỷ đồng bằng 35,7% kế hoạch năm.
Nguồn vốn ODA cho vay lại đạt 5 nghìn tỷ
đồng, bằng 55,6% kế hoạch năm, riêng dư nợ
bình quân hỗ trợ xuất khẩu đạt 9,3 nghìn tỷ

đồng, bằng 116,2% kế hoạch năm
20 năm đã có hơn 9500 dự án đầu tư nước
ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn
đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng
thêm); riêng năm 2007 đạt 20,3 tỷ USD, chiếm
hơn 20% tổng số FDI trong 20 năm qua.FDI
góp phần quan trọng vào ngân sách nhà nước,
trong thời kỳ 2001-2005 khối doanh nghiệp
FDI đạt hơn 3,6 tỷ USD, 2007 trên 1,5 tỷ
USD; thu hút trên 1,2 triệu lao động trực tiếp
và nhiều triệu lao động gián tiếp, góp phần
tăng thêm các ngành nghề lao động mới, thay
đổi cơ cấu ngành nghề cũng như nâng dần chất
lượng chuyên môn của lực lượng lao động
này.
Thứ ba: Sử dụng vốn chưa hiệu quả hạn
chế khả năng tạo lập thu hút vốn.
Tính theo icor Nếu tính trong thời kỳ
1991-2007 chỉ số ICOR của VN là 4,86 lần so
với 4 lần của Trung Quốc thời kỳ 2001-2006,
4,1 lần của Thái Lan (1981-1995), 4,6 lần của
Malaysia (1981-1995), 3,7 lần của Indonesia
(1981-1995), 3 lần của Hàn Quốc (1961-
1980) và Đài Loan 2,7 lần (1961-1980). Qua
đó cho thấy hiệu quả đầu tư của chúng ta là rất
thấp. Chỉ số ICOR cho chúng ta thấy rằng nó
càng cao thì hiệu quả đầu tư của chúng ta càng
thấp. Trng giai đoạn 1990 -2000 chỉ số ICOR
của chúng ta là 4.1 đến giai đoạn 2001-2005
trung bình là 4.238, đặc biệt năm 2005 là 5 và

2006 là 5.02. Có thể thấy răng hiệu quả sử
dụng vốn đã giảm đi rõ rệt. Tuy nhiên sau khi
chúng ta gia nhập tổ chức WTO cuối năm
2006 đầu năm 2007 thì chỉ số ICOR của chúng
ta có xu hướng giảm năm 2007 (tổng vốn đầu
tư toàn xã hội khoảng 40.6%GDP)khoảng 4.8
và những tháng đầu năm 2008 khoảng
4.7(tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng
39%GDP)
Theo TFP: tốc độ tăng của TFP là rất nhỏ,
có thời điểm còn tăng trưởng âm, do đó nhân
tố tổng hợp đóng vai trò ít trong tăng trưởng
kinh tế, đây là thực tế chứng minh cho việc sử
dụng vốn không hiệu quả của Việt nam. Sử
dụng vốn theo hướng chiều rộng chứ không
đầu tư theo chiều sâu, không đầu tư vào khoa
học công nghệ, nâng cao bộ máy quản lý.

×