Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Nghiên cứu xây dựng mô hình sản xuất rau an toàn dạng công nghệ cao và tăng cường năng lực về kiểm tra chất lượng, quản lý sau thu hoạch cho ngành sản xuất rau ở Việt Nam - MS6" pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.12 KB, 12 trang )




Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

Báo cáo tiến độ dự án CARD



004/04VIE: Nghiên cứu xây dựng mô hình sản xuất rau an
toàn dạng công nghệ cao và tăng cường năng lực về kiểm
tra chất lượng, quản lý sau thu hoạch cho ngành sản xuất
rau ở Việt Nam



MS6: BÁO CÁO 6 THÁNG LẦN THỨ 3






Tháng 3 năm 2007

1
1. Thông tin về các đơn vị tham gia dự án
Tên dự án Nghiên cứu xây dựng mô hình sản xuất rau an toàn
dạng công nghệ cao và tăng cường năng lực về kiểm
tra chất lượng, quản lý sau thu hoạch cho ngành sản
xuất Rau của Việt Nam


Đơn vị tham gia phía Việt Nam
Viện Nghiên cứu Rau quả
Trâu Quỳ - Gia Lâm – Hà Nội - Việt Nam
Chủ trì dự án phía Việt Nam
PGS.TS. Trần Khắc Thi
Tổ chức phía Australia
Bộ Nông nghiệp NSW -DPI
Viện Nghiên cứu Rau hoa quả Gosford
Trung tâm Excellence về Tiếp cận thị trường và Trồng
rau hoa quả trong Nhà lưới
Phối hợp với Trung tâm quốc gia về trồng rau hoa quả
trong nhà lưới
Cán bộ dự án phía Australia
TS. Suzie Newman; TS. Sophie Parks
Ông Joseph Ekman; TS. Vong Nguyen
Thời gian phê duyệt
30 tháng 9 năm 2005
Thời gian kết thúc (dự kiến lúc đầu)
30 tháng 9 năm 2007
Thời gian kết thúc
30 tháng 9 năm 2007 (do chậm trễ khi ký hợp đồng)
Thời gian báo cáo tiến độ
Báo cáo 6 tháng lần 3
Các quan chức liên quan
Phía Australia: Trưởng nhóm
Tên:
TS. Suzie Newman
Telephone:
+61 2 4348 1934
Chức vụ:

Chuyên gia nghiên cứu rau hoa
quả
Fax:
+61 2 4348 1910
Cơ quan:
NSW DPI
Email:


Phía Australia: Cơ quan hành chính
Tên:
Graham Denney
Telephone:
02 4348 1927
Chức vụ:
Cán bộ quản lý hành chính
Fax:
02 4348 1910
Cơ quan:
NSW DPI
Email:

Phía Việt Nam
Tên PGS.TS. Trần Khắc Thi Điện
thoại
84 4 8276 316
Chức vụ Phó viện trưởng Fax: 84 4 8276 148
Cơ quan Viện Nghiên cứu Rau quả - Trâu
quỳ - Gia Lâm - Hà Nội
Email



1
Tồn dư thuốc BVTV là nguyên nhân chính gây ô nhiễm rau ở Việt Nam. Đã có nhiều phương
pháp phát triển rau an toàn được Bộ Nông nghiệp NSW - DPI đưa ra trong dự án CARD-
0016, 2001-2003 nhưng điều này chỉ có thể được biết đến khi có những nghiên cứu và phát
triển sâu hơn. Dự án này sẽ giải quyết các vấn đề về an toàn và chất lượng thực phẩm từ khâu
sản xuất đến thị trường để khuyến khích phát triển kinh tế và phát tri
ển bền vững ngành rau
Việt Nam. Mục tiêu của dự án là: 1) Tạo điều kiện phát triển sản xuất rau theo công nghệ từ
thấp đến trung bình hạn chế sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật thông qua hoạt động nghiên
cứu và khuyến nông; 2) Kiểm tra những hạn chế của dây chuyền cung ứng và sử dụng
nguyên tắc bảo đảm chất lượng để thực hiện cả
i tiến hệ thống; 3) Tăng cường năng lực
nghiên cứu, giảng dạy và khuyến nông cho Việt Nam để sản xuất rau trong nhà lưới, quản lý
sau thu hoạch và hệ thống bảo đảm chất lượng. Dự án này tiếp tục thực hiện những mục tiêu
này thông qua các nội dung: 1) Nghiên cứu xây dựng mô hình thí nghiệm tại Hà Nội, Lâm
Đồng và Huế để xác định giá thể và hệ thống sản xuất phù hợp cho sản xuấ
t cà chua, dưa
chuột trồng thuỷ canh trong nhà lưới; 2) Tăng cường năng lực cho cán bộ Việt Nam thông
qua tập huấn ở Australia trong tháng 6/2006; 3) nghiên cứu về tính phù hợp của giá thể mụn
xơ dừa của Việt Nam cho sản xuất cây trồng trong nhà lưới tại Australia.


Những kết quả chính đã đạt được trong thời gian báo cáo 6 tháng lần 3 này là:
Với hệ thống nhà lưới người trồng rau sẽ có cơ hội sản xuất rau an toàn chất lượng cao. Mục
tiêu chính của dự án này là cung cấp cho các nhà khoa học, cán bộ khuyến nông Việt Nam
những kiến thức cũng như công cụ thực hiện và áp dụng các kỹ thuật sản xuất rau trong điều
kiện của Việt Nam và dây chuyền cung ứng. Dự án do Viện Nghiên cứu Rau quả chủ trì với
s

ự phối hợp thực hiện của Trường Đại học Nông Lâm Huế và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông
nghiệp miền Nam. NSW DPI là cơ quan chủ trì phía Australia .

3. Báo cáo tóm tắt
2. Trích lược dự án
• Tổ chức thành công 1 lớp tập huấn về hệ thống nhà lưới, quản lý sau thu hoạch và
đảm bảo chất lượng cho 3 cán bộ dự án: Bà Nguyễn Thị An (FAVRI, trước đây gọi là
RIFAV), Ông Ngô Minh Dũng (IAS) và Ông Nguyễn Đình Thi (HUAF). Họ đã được
học trên lớp, đi thực địa và thực hành trong phòng thí nghiệm. Họ cũng được đi thă
m
quan các trang trại, các trạm nghiên cứu, các chợ và các công ty xuất khẩu để hiểu
thêm về những kỹ thuật hiện đang được áp dụng ở Australia với mong muốn xem
xem những gì họ học được ở Australia có áp dụng được vào kỹ thuật nông nghiệp
Việt Nam không. Đi cùng họ trong chuyến thăm quan này có Ông Nguyễn Hồng
Phong – nông dân và là nhà sản xuất cây con giống lớn nhất ở Đức Trọng – Lâm
Đồng. Ông Phong đã giúp các học viên xem xét xem làm thế
nào công nghệ hoặc kỹ
thuật canh tác có thể được điều chỉnh và áp dụng được ở Việt Nam.
• Các khâu chuẩn bị để tổ chức 02 hội thảoở Đà Lạt và Cần Thơ đang được thực hiện.
Chương trình hội thảo bao gồm các báo cáo trình bày của các đơn vị tham gia dự án
phía Việt Nam và Australia về trồng cây trong nhà lưới, quản lý sau thu hoạch và
GAP (Good Agricultural Practice). 02 hội thảo này sẽ
được tổ chức vào ngày 27-28
tháng 4 và 3-4 tháng 5. Dự kiến 2 hội thảo này có nhiều nông dân và thành viên dây
chuyền cung ứng khác tham gia hơn và sẽ có các hoạt động tập huấn không chính
thức bên lề hội thảo này.
• Tiếp tục thực hiện thành công các thử nghiệm trình diễn nghiên cứu ở Hà Nội , Huế
và Lâm Đồng về đánh giá ảnh hưởng của các giá thể khác nhau lên sinh trưởng và
phát triển của cà chua và dưa chuột.
2


• Tiếp tục nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Rau hoa quả Gosford kiểm tra các đặc tính
lý hoá học của mụn xơ dừa Việt Nam và xác định việc sự dụng nước trong các loại
giá thể khác nhau (gồm cả xơ dừa) cho sản xuất dưa chuột và cây cảnh trong nhà lưới.
4. Giới thiệu & bối cảnh
Với hệ thống nhà lưới người trồng rau sẽ có cơ hội sản xuất rau an toàn chất lượng cao giảm
sử dụng thuốc BVTV. Dự án AusAID-CARD0016 trước đây đã chú trọng đến việc phát triển
rau trong nhà lưới dạng công nghệ thấp để tăng cường sản lượng và sự ổn định cho ngành
Rau của Việt Nam. Nhà lưới này sử dụng giá thể mụn xơ dừa với hệ thố
ng tưới nhỏ giọt đạt
hiệu quả, tuy nhiên cần phải tạo điều kiện để chuyển giao công nghệ này rộng rãi hơn nữa
thành công. Dự án tập trung vào việc cung cấp các vật tư, trang thiết bị thích hợp cho sản
xuất rau trong nhà lưới dạng công nghệ thấp - trung bình để cho sản phẩm chất lượng cao cho
thị trường. Điều này đạt được thông qua những khoá đào tạo chính quy và phi chính quy gồ
m
các hội thảo tổ chức trong nước, những chương trình đào tạo cơ bản cho các cán bộ nghiên
cứu, khuyến nông tại Australia và nhiều mô hình nghiên cứu. Dự án này sử dụng phương
pháp nghiên cứu có sự tham gia để khuyến khích sự sáng tạo của các cơ quan nghiên cứu và
các tổ chức/cá nhân tham gia dự án (nông dân, khuyến nông và các thành viên tham gia vào
dây chuyền cung ứng).

Mục tiêu cụ thể của dự án này là:
Tháng 7 năm 2007, TS. Suzie Newman thay TS. Nguyễn Quốc Vọng làm chủ dự án phía
Australia, sau khi TS. Nguyễn Quốc Vọng về nghỉ hưu. TS. Nguyễn Quốc Vọng sẽ tiếp tục
tham gia dự án một cách tự nguyện, do vậy kiến thức và kinh nghiệm của ông sẽ vẫn đóng
góp được cho dự án. Điều này sẽ được thể hiện rõ trong các hội thảo vòng hai s
ẽ tổ chức tại
Đà Lạt và Cần Thơ và tháng 4/tháng 5 năm 2007 tới.
1. Tạo điều kiện để th
ực thi và áp dụng rộng rãi hơn các hệ thống canh tác có bảo vệ (nhà

lưới, nhà kính) với công nghệ từ thấp đến trung sử dụng thuốc có sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật ít hơnthông qua mục tiêu nghiên cứu và hoạt động khuyến nông;
Thay đổi chủ dự án
5.1 Những điểm đáng chú ý
5. Tiến độ cho đến thời điểm báo cáo
TS. Suzie Newman đã đi thăm TP Hồ Chí Minh và Đà Lạt vào tháng 10 năm 2006 nhằm điều
tra/nghiên cứu dây chuyền cung ứng và tìm kiếm cơ hội hợp tác với Metro. TS. Newman đã
ở Việt Nam từ 1-5 tháng 10, sau đó tiếp tục chuyến công tác của dự án ACIAR ở Campuchia.
Trong thời gian ở
Việt Nam, TS. Suzie đã đến tỉnh Lâm Đồng để phỏng vấn ông Nguyễn
Hồng Phong (nhà sản xuất cây con giống cà chua) về vườn ươm cây giống và các hoạt động

Chuyến thăm và làm việc của chủ dự án phía Australia, tháng 10 năm 2006
3. Tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển của người Việt Nam trong lĩnh vực hệ thống
sản rau trong nhà lưới, quản lý sau thu hoạch và hệ thống bảo đảm chất lượng;
2. Nghiên cứu những hạn chế của các dây chuyền cung ứng hiện nay và sử dụng nguyên tắc
quản lý chất lượng để tiến hành cải thiện các h
ệ thống này;
4. Thiết lập mối liên kết giữa các nhà nghiên cứu, nhà bán buôn, nhà kinh doanh và người
sản xuất để nâng cao năng suất và tính cạnh tranh của ngành nông nghiệp sản xuất nhỏ của
Việt Nam và các doanh nghiệp nông thôn có liên quan.

3

Các khâu chuẩn bị đang được tiến hành cho 2 hội thảo sẽ tổ chức
ở Cần Thơ (27-28/4) và Đà
Lạt (3-4/5). Các hội thảo này sẽ có nội dung tương tự như các hội thảo đã tổ chức tại Hà Nội
và TP HCM. Tuy nhiên, năm nay chúng tôi hy vọng rằng sẽ có 50% học viên là nông dân
hoặc thành viên của dây chuyền cung ứng . Chúng tôi cũng đã chuyển một trong hai hội thảo
từ Huế vào Đà Lạt theo gợi ý của một chuyên gia đánh giá trong báo cáo 6 tháng lần trước

của chúng tôi. Và chúng tôi hy vọng sẽ có một s
ố lớp tập huấn không chính thức/phi chính
quy ở Huế, có thể dưới hình thức thăm quan, học tập/hội nghị đầu bờ (field day) để hỗ trợ
nông dân ở vùng này - những người không thể tham gia hội thảo ở Đà Lạt được.
cua cơ sở sản xuất của ông. Nhân dịp này, TS. Suzie cũng đã tranh thủ đi thăm các điểm thu
gom sản phẩm của Metro và thảo luận về các hoạt động của họ ở Đà Lạt. Những gì thảo luận
tại đây và những ý kiến thảo luận sau đó với nhân viên quản lý Metro (Stephane Maulin,
Quản lý phòng thực phẩm tươi;Thái Hồng Xuân Nguyệt, Quản lý dây chuyền cung ứng và Lê
Th
ị Minh Trang, Quản lý kiểm tra chất lượng ) là Metro vẫn gặp khó khăn trong việc tìm
nguồn hàng đảm bảo chất lượng đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng của họ. Họ vẫn đang
trong quá trình thực hiện kỹ thuật tốt nhất trong các dây chuyền cung ứng và tất cả nhân viên
của Metro đều rất thực tế, có thể dành nhiều thời gian để đạt được mục tiêu cung ứng và chất
lượng của họ. Các nhân viên của Metro đã thể hiện sự quan tâm của họ khi làm việc với
nhóm dự án nhằm cải thiện sản phẩm chất lượng tốt hơn. Họ cũng muốn được tham gia/liên
kết với các lớp tập huấn về kiểm tra chất lượng mà dự án tổ chức để có cơ hội làm việc với
các nhóm nông dân. Các cơ hội xây dựng các liên kết trong tương lai sẽ
được khai thác trong
năm 2007.

Tập huấn cho 3 cán bộ khoa học Việt Nam tại Australia
Các thử nghiệm trình diễn nghiên cứu đã được tiến hành tại Hà Nội, Lâm Đồng và Huế sử
dụng giá thể
mụn xơ dừa của Việt Nam. Các thử nghiệm này đã tập trung vào đánh giá giống
và áp dụng tưới nhỏ giọt. Một báo cáo hoàn chính trình bày kết quả thử nghiệm này sẽ được
Vào tháng 6 năm 2006, 3 cán bộ khoa học của Việt Nam là:
• Bà Nguyễn Thị An (FAVRI, trước đây là RIFAV)
• Ông Ngô Minh Dũng (IAS)
• Ông Nguyễn Đình Thi (HUAF)
đã tham gia 4 tuần tập huấn tại Australia. Chương trình học của khoá tập huấn này có ở phụ

lục 1. Bản copy báo cáo chuyến đi cũng có thể lấy từ TS. Suzie Newman hoặc PGS.TS.Trần
Kh
ắc Thi. Khoá tập huấn này tập trung vào cả sản xuất rau trên ruộng và trong nhà lưới,
quản lý dây chuyền cung ứng và sau thu hoạch và kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến (GAP). Các
chuyến đi thực địa thăm các trang trại và nhà lưới công nghệ thấp (Sydney Basin) và công
nghệ cao (Yanco, Gosford) cũng khuyến khích các học viên xem xét xem họ có thể áp dụng
những công nghệ như vậy trong điều kiện ở Việt Nam như thế nào. Ngoài đi thăm nhiều
trang trại, các h
ọc viên còn được đi thăm các chợ bán buôn ở Sydney, và một cơ sở xuất nhập
khẩu để giúp các học viên hiểu thêm về các dây chuyền cung ứng và các yêu cầu về chất
lượng ở Australia. Các chuyến thăm các trạm nghiên cứu ở Gosford và Yanco giúp cho các
học viên có một cái nhìn về các loại dự án nghiên cứu và khuyến nông do NSW DPI chủ trì
và cách ma các chương trình nghiên cứu & phát triển được quản lý ở Australia. Trong suốt
chuyến đi, các học viên được Ông Nguyễn H
ồng Phong - một nông dân và là nhà sản xuất
cây con rau lớn nhất ở Đức Trọng – Lâm Đồng đi cùng. Ông Phong đã giúp các học viên
xem xét xem làm thế nào công nghệ hoặc kỹ thuật canh tác có thể được điều chỉnh và áp
dụng được ở Việt Nam.
Chuẩn bị tổ chức các hội thảo ở Đà Lạt và Cần Thơ
Các thử nghiệm trình diễn nghiên cứu
4

chuẩn bị như là một phần của báo cáo 6 tháng lần tới. Trong chuyến thăm của chuyên gia
Australia dự kiến vào tháng 4/tháng 5, kế hoạch sẽ thông qua các kết quả thử nghiệm cùng
với các đồng nghiệp Việt Nam và sẽ thảo luận chuẩn bị xuất bản các ấn phẩm.
Hà Nội
Một thử nghiệm đã được thực hiện tại Viện Nghiên cứu Rau quả (RIFAV), so sánh năng suất
của 8 giống dưa chuột (Q9, Q16, Q19, Tohoku, Khassib, Status III, Deena and Ajax) trồng
trên giá thể
mụn xơ dừa của Việt Nam. Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn

chỉnh với 4 lần nhắc lại.
Thí nghiệm này gieo hạt vào tháng 9 và thu hoạch vào tháng 10-tháng 11 năm 2006. Kích
thước quả là 117-126g với các giống đạt tiêu chuẩn và 5.9g với giống Cocktail. Năng suất
thương phẩm đạt từ 14 tấn/ha với Khassib đến 56 tấn/ha với Deena, còn giống Cocktail cho
năng suất 3.2 tấn/ha. Tỷ lệ đậu quả dao động đáng kể
giữa các giống từ 15-47% và đặc biệt là
giữa các lần nhắc. Giống tốt nhất là Deena, cho năng suất cao và kích thước quả vừa phải.
Huế
Các thử nghiệm cà chua và dưa chuột được thực hiện trong nhà lưới có kiến thiết đặc biệt
của HUAF. Thử nghiệm dưa chuột so sánh năng suất của 5 giống (Chua Young Sheng,
Status Natu 3, Tohoku, Khassib and Deena) sử dụng hỗn hợp
mụn xơ dừa của Việt Nam.
Trong thử nghiệm này, giống cho năng suất cao nhất là Tuhoku với năng suất thương phẩm
đạt cao nhất là 49 tấn/ha.Giống này cũng cho kích thước quả lớn (274g) và bị ít sâu bệnh hại.
Thử nghiệm cà chua kiểm tra tính phù hợp của việc sử dụng tưới nhỏ giọt với giá thể
mụn xơ
dừa để sản xuất cà chua trái vụ trong nhà lưới. Thử nghiệm này so sánh trồng 1 cây/1 túi bầu
có 1 vòi tưới nhỏ giọt (kỹ thuật chuẩn) có trồng 2 cây/1 túi bầu (2 vời tưới nhỏ giọt. Thử
nghiệm này được tiến hành từ tháng 8-tháng 10 năm 2006. Có một ít sai khác về năng suất
tổng số giữa hai hệ thống này, năng suất thương phẩm cao hơn đáng kể ở công thức trồng
1cây/1 túi bầu (58% so với 42% của công thức 2 cây/1 túi bầu). Ảnh hưởng của sâu bệnh hại
ở công thức này cũng thấp hơn.
Với các thử nghiệm vụ đông – xuân cũng đang được thực hiện và sẽ báo cáo trong báo cáo 6
tháng lần tháng 7 tới .

Nghiên cứu về mụn xơ dừa (TS. Sophie Parks và TS. Ross Worrall)

Việc sử dụng nước cho giá thể xơ dừa trong nhà lưới
Thử nghiệm đã chọn hai loại cây trồng sự khác nhau về nhu cầu nước. Dưa chuột có yêu cầu
về nước cao hơn trong khi đó cây cảnh và hoa Flannel có yêu cầu về nước thấp hơn.

Thử nghiệm được thực hiện tại GHI để so sánh việc sử dụng nước cho các giá thể khác nhau
(gồm cả xơ dừa) cho sản xuất dưa chuột và hoa flannel.

Hệ thống công nghệ thấp đang
được sử dụng để xác định yêu cầu về nước hàng ngày của cây
trồng trong nhà lưới. Nước được dẫn lên giá thể từ đáy của túi bầu, nước này được dẫn vào từ
những cái thùng chứa riêng rẽ. Mức độ sử dụng nước của mỗi cây trồng có thể đo được từ
các thùng. Những bầu không có cây cho phép ước tính mức độ thoát hơi nước của mỗi mẫu
thí nghiệ
m.

Hai giá thể được trộn, một bao gồm xơ dừa sẽ được so sánh:
Hỗn hợp 1: 25% cát + 25% perlite + 25% mùn cưa + 25% mụn xơ dừa
5


Hỗn hợp 2: 25% cát + 25% perlite + 50% mùn cưa
Hỗn hợp có mụn xơ dừa làm tăng khả năng dẫn nước của hỗn hợp 1. Hiệu quả của hai hỗn
hợp này với sinh trưởng của cây và sử dụng nước sẽ được xác định.

Các chỉ tiêu theo dõi:
- Đặc tính lý hoá học của hỗn hợp trước và sau khi thí nghiệm.
- Sử dụng nước hàng này.
- Diện tích lá (tại tuầ
n thứ 3, 6, 9 và 12)
- Số hoa Flannel
- Số quả dưa chuột/ khối lượng
- Trọng lượng chất khô của cây
- Nhiệt độ và bức xạ nhiệt sẽ được theo dõi bằng máy - những chỉ tiêu này có liên quan
đến việc sử dụng nước.


Thí nghiệm autopot cho dưa chuột trồng tròn 2 loại giá thể đã thành công trong việc thu thập
số liệu về sản lượng và sử dụng n
ước. Hệ thống autopot, một hệ thống tưới phụ với các bình
chứa riêng cho từng cây dưa chuột, cho thấy rất hữu ích cho mục đích này. Đây là một biện
pháp tính đơn giản về lượng nước cần để làm cho đầy lại bình chứa khi nước đã được cây
trồng sử dụng. Tuy nhiên, thí nghiệm autopot tương tự như vậy cho hoa flannel lại không
thành công vì sự sinh trưởng chậm của loài hoa này không cho phép đo chính xác lượ
ng
nước trong một thời gian ngắn.

Hai hỗn hợp không có sự sai khác đáng kể về sản lượng dưa chuột (trọng lượng khô của thân,
tổng trọng lượng tươi của quả) hoặc việc sử dụng nước. Hỗn hợp 1 bao gồm 25% cát + 25%
perlite + 25% mùn cưa + 25% mụn xơ dừa. Hỗn hợp 2 bao gồm 25% cát + 25% perlite +
50% mùn cưa. Mối quan hệ giữa tổng lượng nước sử dụng cho cả
cây và trọng lượng khô
của thân là một đường thẳng và tương tự ở cả hai loại hỗn hợp (Hình 1).
0
20
40
60
80
100
120
140
0 20000 40000 60000 80000 100000 120000
Total w ater use (ml)
Shoot dry weight (g)
Mix 1
Mix 2

Linear (Mix 1)
Linear (Mix 2)

Hình 1: Trọng lượng khô thân cây dưa chuột với tổng lượng nước cây sử dụng
ở hỗn hợp 1 hoặc hỗn hợp 2.
6

Autopot là một dụng cụ rất đơn giản và hữu ích để đo lượng nước cây dưa chuột sử dụng và
có thể được người sản xuất sử dụng để kiểm tra việc sử dụng nước hàng ngày của cây. Chúng
có thể cũng được sử dụ
ng hiệuq ủa cho các mục đích trình diễn ở Việt Nam để minh hoạ
việc sử dụng nước cho nông dân, cán bộ nghiên cứu và khuyến nông. Hai giá thể khác nhau
về thành phần không làm ảnh hưởng đến lượng nước được sử dụng hoặc sinh trưởng của cây
dưa chuột.

Xây dựng năng lực là hoạt động chính của dự án trong 6 tháng qua. Các hoạt động anỳ bao
gồm: chuẩn bị các hội thảo tổ chức trong nước ở Đà Lạt và Cần Thơ và chuyển giao chương
trình đào tạo cho cán bộ Việt Nam tại Australia. Như đã báo cáo chi tiết ở trên, các hội thảo
tổ chức trong nước vào tháng 4/tháng 5 sẽ có nhiều nông dân và thành viên của dây chuyền
cung ứng tham gia hơn và chúng tôi hy vọng rằng đi
ều này sẽ giúp việc tiếp nhận các kết quả
dự án nhanh hơn .
Các hội thảo ở Đà Lạt và Cần Thơ và các cơ hội tập huấn phi chính quy sẽ giúp nông dân và
thành viên của dây chuyền cung ứng cơ hội được tập huấn về những nội dung liên quan đến
dự án. Các liên kết với những nông dân này sẽ được đẩy mạnh thông quá các hoạt động của
dự án để giúp việc Mối liên hệ với những nông dân này sẽ được tăng cường thông qua hoạt
động dự
án để tạo điều kiện cho việc áp dụng những kết quả của dự án nhanh hơn.
Lượng nước sử dụng quá thời gian làm tăng sinh trưởng cây và tương tự với cây trồng ở cả
hai loại hỗn hợp (Hình 2).


5.3 Xây dựng năng lực


5.2 Lợi ích cho đối tượng quy mô nhỏ


0
20000
40000
60000
80000
100000
120000
2-Jul 12-Jul 22-Jul 1-Aug 11-
Aug
21-
Aug
31-
Aug
10-Sep
Total water used (ml)
Date of harvest
Mix 1
Mix 2
Poly. (Mix 1)
Poly. (Mix 2)

Figure 2: Tổng số nước cây dưa chuột sử dụng quá thời gian
ở hỗn hợp 1 hoặc hỗn hợp 2.

7

7.1 Những khó khăn và trở ngại
Cấu trúc của dự án này là có nhiều lần báo cáo và thanh toán kinh phí đã được thực
hiện trong 8 tháng trước của dự án. Điều này là rất khó vì 2 lý do:
7. Các vấn đề về thực hiện và tính bền vững
6.1 Môi trường
Đào tạo cán bộ dự án về GAP là một trong những điểm nhấn chính của chương trình
tập huấn mà dự án này tổ chức. Vào tháng 7, cán bộ dự án của Việt Nam đã tham gia
tập huấn về các hệ thống đảm bảo chất lượng và GAP. Chuyến thăm của họ vừa đúng
dịp FreshCare hoàn thành module môi trường của họ. Joseph Ekman (cán bộ dự án và
là cán bộ khuyến nông về kiểm tra ch
ất lượng) là một trong những người chính xây
dựng module này và do vậy ông này có thể trình bày/giới thiệu những thông tin mới
nhất với các đối tác Việt Nam. Do vậy họ cũng có thể thấy các hệ thống kiểm tra chất
lượng đang hoạt động thông qua các chuyến thăm quan của họ đến các trang trại đã
thực hiện FreshCare. Các học viên cũng đã xem xét xem liệu các hệ thống như vậy có
thể được th
ực hiện như thế nào ở Việt Nam. Với việc ban hành hướng dẫn ASEAN
GAP, có thể Việt Nam sẽ phát triển được một hệ thống GAP cho mình và các chuyên
gia khuyến nông đã được đào tạo sẽ là người xây dựng và thực thi hệ thống này. Hiện
tại, ngành rau của Việt nam đang thiếu các yêu cầu về môi trường dưới nhiều hệ thống
GAP sử dụng phân chuồng không trộn, hoá chất không đăng ký và thờ
i gian cách ly
không đủ. Cung cấp cho các cán bộ bảo vệ thực vật và khuyến nông kiến thức về các
hệ thống GAP và cách thực hiện chúng sẽ giúp Việt Nam tiếp nhận các hệ thống này
trong vài năm tới.

6. Báo cáo các vấn đề đan chéo
Tháng 9 năm 2006, đã có sự thay trưởng nhóm dự án phía Australia, vì TS. Nguyễn Quốc

Vọng - NSW DPI nghỉ hưu. TS.Suzie Newman đã thay thế TS. Vọng làm trưởng nhóm dự
án phía Australia, tuy nhiên, TS. Nguyễn Quốc Vọng vẫn tiếp tục tham gia dự án và tham gia
các hội thảo tại Đà Lạt và Cần Thơ. Việc bàn giao chức vụ trưởng nhóm dự án này đã được
tiến hành khá thuận lợi.
5.5 Quản lý dự án
Một số danh mục các ấn phẩm dự kiến sẽ in trong 6 tháng tới.
5.4 Các ấn phẩm
6.2 Vấn đề giới và xã hội
Dự án CARD này sẽ tiếp tục tập trung vào các vấn đề về giới và xã hội khi chúng nảy
sinh trong suốt dự án.


Dự án vẫn tiếp tục và không có sự thay đổi v
ề ngày nộp báo cáo 6 tháng.

8

8. Các bước quan trọng tiếp theo
Hoạt động của dự án trong 6 tháng tiếp theo là:
7.3 Tính bền vững
Một trong những điểm trọng tâm của lo
ạt thử nghiệm hiện tại là để so sánh sản xuất
trong nhà lưới/nhà kính với sản xuất trên đồng ruộng. Một số thử nghiệm trình diễn sẽ
được thực hiện trên trên đồng ruộng, qua đó giúp cho nông dân tiếp nhận kết quả dự án
nhanh hơn và tốt hơn. So sánh sản xuất trong nhà lưới và trên đồng ruộng cần làm rõ
xem sản xuất trong nhà lưới hay trên đồng ruộng có thể tồn tại về ph
ương diện kinh tế
được ở từng vùng dự án. Dự án đã khuyến khích các đơn vị phối hợp tham gia dự án nên
tổ chức các chuyến thăm quan học tập/hội nghị đầu bờ (field days) nếu có thể để giúp
nông dân nhìn thấy các kết quả bước đầu từ các thử nghiệm.

• Đi lại hạn chế (một chuyến đi) cho chuyên gia dự án Australia ở năm thứ 2
của dự án làm cho việc điều phối các hoạt động của dự án và việc đảm bảo dự
án vẫn đang được triển khai gặp khó khăn .
• Quản lý kinh phí – có nhiều lần báo cáo và số lần chuyển tiền tương ứng vào
6 tháng cuối năm thứ 2 của dự án làm cho việ
c quản lý kinh phí khó khăn cho
NSW DPI với việc các tổ chức nghiên cứu Australia phải mang theo một
khoản tiền lớn để đảm bảo các đối tác dự án phía Việt Nam nhận được kinh
phí mà họ yêu cầu để thực hiện các hoạt động dự án.

7.2 Giải pháp
Trong chuyến công tác Việt Nam vào tháng 4/tháng 5, chúng tôi sẽ tham từng đối tác
tham gia d
ự án của chúng tôi để đảm bảo rằng dự án vẫn đang được thực hiện đáp ứng
được các mốc báo cáo của dự án. Một phần của chuyến công tác sẽ dành để hoàn thiện
tất cả các số liệu thử nghiệm và chuẩn bị xuất bản các ấn phẩm cần có. Tuy nhiên,
cũng vẫn phải thẳng thắn nói rằng cần phải có chuyện công tác bổ sung và có thể là
giám
đốc dự án và một chuyên gia về nhà lưới của Australia sẽ trở lại Việt Nam vào
tháng 9 để hoàn thiện các hoạt động dự án. Có thể cố gắng và sử dụng khoản kinh phí
tiết kiệm được từ nguồn kinh phí của Australia cho chuyến công tác này.

Cần xây dựng lại các chỉ số thực hiện thực tiễn hơn cho dự án này.

Giám đốc mới của dự án phía Australia (TS. Newman) tin rằng một vài chỉ số thực
hiện là quá tham vọng trong một khoảng thời gian ngắn (2 năm) của dự án và với
khoảng cách/sự dàn trải địa lý của các đối tác tham gia dự án. Dự án này sẽ đạt được
các kết quả đáng kể, tuy nhiên, dự án chủ yếu tập trung vào xây dựng năng lực chứ
không phải là sự can thiệp trực tiếp, có thể các chỉ số thực hiện sẽ mất nhiều thời gian
hơn mới đạt được.

• Hội thảo ở Cần Thơ và Đà Lạt
• Tập huấn phi chính quy cho nông dân về quản lý cây trồng và GAP
• Hoàn thiện kết quả thử nghiệm từ mỗi vùng dự án và chuẩn bị in các ấn phẩm
• Phát triển nguồn và vật liệu khuyến nông về quản lý dây chuyền cung ứng, GAP,
và quản lý nhà lưới.
• Tiếp tục nghiên c
ứu về mụn xơ dừa ở GHI
9

9. Kết luận
Những điểm nổi bật đạt được trong 6 tháng lần này là:
• Tiếp tụ
c nghiên cứu ở GHI về mô tả đặc điểm lý hoá học của mụn xơ dừa và
tính bền vững của nó trong sản xuất cây trồng.

Dự án này hiện vẫn đang được triển khai và cho đến nay không có những khó khăn trở
ngại nào đáng kể trong việc thực hiện dự án .


• Tổ chức thành công chuyến tập huấn cho 3 cán bộ nghiên cứu của 3 đơn vị tham
gia dự án phía Việt Nam về sản úât rau, quản lý sau thu hoạch và GAP.
• Tiếp tục các thử nghiệm trình diễn nghiên cứu ở Hà Nội, Lâm Đồng và Huế về
các hệ thống sản xuất cải tiến cho dưa chuột và cà chua.
10


11

×