Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " DỰ ÁN NUÔI THÂM CANH CÁ BIỂN TRONG AO BẰNG MƯƠNG NỔI - MS10 " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.4 KB, 10 trang )


1

Ministry of Agriculture & Rural Development




062/04 VIE


DỰ ÁN NUÔI THÂM CANH CÁ BIỂN
TRONG AO BẰNG MƯƠNG NỔI



MS10
: BÁO CÁO KẾT THÚC DỰ ÁN


1
Mục lục

1. Đơn vị thực hiện 1
2. Sơ lược về dự án 2
3. Báo cáo tóm tắt 2
4. Giới thiệu dự án 3
5. Tiến độ thực hiện 4
5.1 Các kết quả chính 4
5.2 Lợi ích của người sản xuất nhỏ 5
5.3 Xây dựng năng lực 5


5.4 Quảng bá thông tin 6
5.5 Quản lý dự án 6
6. Các vấn đề quan trọng 6
6.1 Môi trường 6
6.2 Các vấn đề về giới và xã hội 7
7. Các vấn đề có liên quan đến việc triển khai và tính bền vững của dự án 7
7.1 Khó khăn 7
7.2 Giải pháp 7
7.3 Tính bền vững 8
8. Các hoạt động quan trọng tiếp theo 8
9. Kết luận 8

1
1. Đơn vị thực hiện
Tên dự án
Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương
nổi
Cơ quan thực hiện ở Việt Nam
Trường Đại học Nha Trang (trước đây là
Trường Đại học Thủy sản)
Chủ nhiệm dự án phía Việt Nam
TS. Hoàng Tùng
Đối tác Australia
Queensland Department of Primary Industries
& Fisheries
Chủ nhiệm dự án phía Australia Mr Michael Burke
Ngày bắt đầu dự án
15/04/2005
(01/08/2005 ở Việt Nam)
Ngày kết thúc dự án (theo hợp đồng)

15/04/2007
Ngày kết thúc dự án (đề nghị điều chỉnh)
15/09/2007
Giai đoạn báo cáo
tháng 13-18 của Dự án

Địa chỉ liên lạc
Phía Australia: Trưởng nhóm
Tên:
Mr Michael Burke
Telephone:
+61 7 34002051
Chức vụ:
Nghiên cứu viên
Fax:
+61 7 34083535
Cơ quan:
DPI&F
Email:


Phía Australia: Đơn vị quản lý hành chính
Tên:
Michelle Robbins
Telephone:
+61 7 3346 2711
Chức vụ:
Senior Planning Officer,
R&D Coordination
Fax:

+61 7 3346 2727
Cơ quan:
DPI&F
Email:


Phía Việt Nam
Tên:
TS. Hoàng Tùng
Telephone:
+84.979710372
Chức vụ:
Giám đốc Trung tâm NC và ĐT
Quốc tế
Fax:
+84.58.831145
Cơ quan:
Trường Đại học Nha Trang
Email:



2
2. Sơ lược về dự án
Dự án này nhắm đến việc xây dựng một mô hình ương nuôi ấu trùng và cá giống của các
đối tượng có giá trị kinh tế cho người nuôi cá biển ở Việt nam với các đặc tính dễ ứng
dụng, có hiệu quả kinh tế và không ảnh hưởng đến môi trường. Thông qua việc sử dụng
các mương nổi trong ao, dự án sẽ giúp người nuôi thiết lập một hệ thống ương ấu trùng/cá
giống mang tính thâm canh, có tuổi thọ cao và dễ
quản lý chăm sóc. Nhờ vậy sẽ góp phần

tích cực giảm chi phí sản xuất và gia tăng lượng con giống cá biển hiện vẫn còn rất hạn
chế ở cả Australia và Việt nam. Dự án này cũng sẽ thử nghiệm mương nổi để nuôi thương
phẩm các đối tượng cá biển thông qua việc hợp tác với các nghiên cứu viên của Australia.
Các nghiên cứu viên của Bộ Công nghiệp Cơ bản và Nghề cá bang Queensland, Australia
sẽ
tư vấn, giúp đỡ phía Việt nam về kỹ thuật quản lý hệ thống nuôi, quản lý chất lượng
nước và xử lý chất thải. Các đối tượng sẽ đưa vào thử nghiệm ương nuôi qua dự án này là
cá Mú, cá Bớp và cá Chẽm. Tất cả các thử nghiệm sẽ được thực hiện trong hệ thống nuôi
khép kín, không đổ nước thải ra môi trường xung quanh. Các kết quả thu được từ dự án sẽ
được sử
dụng một cách có hiệu quả để đào tạo cán bộ và sinh viên của trường Đại học
Thủy sản, người nuôi và các đơn vị sản xuất có liên quan. Sự tham gia tích cực và đóng
góp nhân vật lực của các cơ quan phối hợp khác nhau vào hoạt động nghiên cứu chính là
điểm đặc biệt của dự án này và sẽ giúp cho nghiên cứu có tính gắn kết chặt chẽ với thực
tiễn sản xuất và có khả
năng ứng dụng cao.
3. Báo cáo tóm tắt
Kết quả đánh giá thị trường cho cá mulloway (Argyrosomus hololepidotus) cho thấy
cá nuôi cần phải có kích thước lớn hơn để có thể phi lê được. Vì thế thử nghiệm nuôi
thương phẩm cuối cùng tại BIARC tập trung vào đánh giá khả năng sử dụng mương nổi
để nuôi cá thương phẩm đến cỡ 1,5 kg. Trong khoảng thời gian từ 22/02/2007 đến
30/07/2007 chúng tôi đã nuôi cá mulloway từ cỡ 930 g lên 1333 g trong các mương nổi
cỡ nhỏ (3.6 m
3
, thường dùng để ương cá). Sinh khối tại thời điểm thu hoạch đạt 55 kg/m
3
.
Cá nuôi trong 2 mương nổi cỡ lớn (20m
3
) tăng trưởng từ 826 g lên 1228 g ở mương số 5

và từ 1077 g to 1412 g ở mương số 6. Hệ số chuyển đổi thức ăn cho giai đoạn này khá
cao, trung bình 2,9. Tuy nhiên, cũng cần biết là loài cá này sau khi đã đạt cỡ 1 kg sẽ có
tốc độ tăng trưởng giảm rất nhiều. Thử nghiệm còn cho thấy việc quản lý cá nuôi trong
mương (cho ăn, quan trắc, thu hoạch) hết sức dễ dàng cho tất cả các công đoạn t
ừ ương,
nuôi tăng sinh khối và nuôi thương phẩm.
Đồng thời, các nghiên cứu theo hướng xử lý làm sạch nước bằng phương pháp sinh
học cũng đã hoàn tất. Các nội dung cụ thể cho hợp phần Australia bao gồm: (a) đánh giá
khả năng thu gom chất thải của bộ thu gom chất thải đặt trong mương; (b) sử dung rong
Asparagopsis armata để hấp thu các muối dinh dưỡng; và (c) sử dụng công nghệ bio-
flocs để quản lý độ pH và xử
lý chất thải. Kết quả cho thấy công nghệ bio-flocs có thể đáp
ứng tốt yêu cầu xử lý nước của hệ thống nuôi không xả thải ở Australian (xem báo cáo kỹ
thuật số 5). Toàn bộ số cá thu được từ thử nghiệm đều đã được đưa ra tiêu thụ trên thị
trường. Các thử nghiệm tại BIARC cũng kết thúc. Công tác khuyến ngư vẫn được tiếp
tục. Các cán bộ của dự
án đã trình bày báo cáo tại Hội nghị của Hội Nuôi trồng Thủy sản
bang Queensland vào tháng 7/2007 và mỗi khi có đoàn khách đến thăm BIARC. Trưởng
Dự án phía Australia Michael Burke đã tham dự và trình bày báo cáo tại Hội nghị của Hội
NTTS Thế giới tổ chức vào tháng 8/2007 ở Hà Nội.

3
Ở Việt nam, thử nghiệm nuôi không thay nước và các thử nghiệm ương trên cá Mú
và cá Giò cũng hoàn tất tốt đẹp. Tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá Mú Malaba khi
ương trong mương nổi rất tốt, cao hơn nhiều so với bất cứ hệ thống ương nào khác. Cá
Giò được ương trong mương lại có tỉ lệ hao hụt tương đối cao. Nguyên nhân là do cá
giống trước khi đưa vào ương đã bị nhi
ễm ký sinh trùng. Học viên Cao học thứ 2 đã hoàn
tất đề tài nghiên cứu tại Nha Trang và đang trong giai đoạn xử lý số liệu và viết báo cáo.
Hội thảo khuyến ngư cuối cùng của Dự án đã được tổ chức dưới hình thức triển lãm công

nghệ và trình bày báo cáo khoa học tại Hội nghị của Hội NTTS Thế giới tại Hà Nội vào
tháng 8/2007. Triển lãm đã rất thành công, thu hút nhiều người đến thăm quan và thả
o
luận về khả năng sử dụng mương nổi trong sản xuất. Tài liệu hướng dẫn ngắn dưới dạng
tờ rơi đã được biên soạn bằng 2 thứ tiếng (Anh và Việt) để cung cấp cho các cá nhân và
tổ chức có quan tâm. Dự án còn kết hợp với Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa tổ chức
một hội thảo về mương nổi tại Cam Ranh vào giữa tháng 8/2007 cho khoảng 50 người
nuôi và cán bộ
quản lý ở địa phương. Hợp phần Việt Nam đã đăng 1 báo cáo tại Hội thảo
quốc tế IMOLA (tại Đại học Nông Lâm Huế tháng 4/2007), 1 bài báo trên tạp chí The
Advocate của Liên hiệp Doanh nghiệp NTTS Thế giới (số 4 năm 2007) và 1 báo cáo khoa
học trên tạp chí Khoa học Công nghệ Thủy sản (số 1 năm 2007). Các hoạt động này đã
giúp phổ biến kết quả nghiên cứu của dự án đến với người sử d
ụng.
4. Giới thiệu dự án
Nuôi trồng thủy sản (NTTS) đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của
Việt Nam và đã được FAO đánh giá là một trong những hoạt động hiệu quả giúp xoá đói
giảm nghèo. Việt nam đặt chỉ tiêu phấn đấu cho năm 2010 là sản xuất 2 triệu tấn sản
phẩm thủy sản trong đó NTTS chiếm tỉ trọng lớn với đối tượng nuôi tập trung vào nhóm
cá biển. Mục tiêu đầy tham vọng này rất khó
đạt được trừ phi tiến hành áp dụng phương
pháp ương nuôi hiệu quả cao, có khả năng đáp ứng nhu cầu về con giống cỡ lớn cho nghề
nuôi lồng trên biển và nuôi ao. Chi phí để ương nuôi con giống cỡ lớn trong bể cao, do
vậy cần xem xét các hình thức khác như ương nuôi trong ao đất, trong giai hay trong
mương nổi. Về phương diện này, hệ thống mương nổi có một số thuận lợi đáng kể so vớ
i
các hình thức nuôi khác như cho phép quản lý hệ thống nuôi một cách hiệu quả, cho năng
suất và mức độ an toàn sinh học cao.
Tại Queensland nuôi cá biển trong lồng từ lâu được coi là một hình thức gây ảnh
hưởng xấu cho các rạn san hô và các hệ sinh thái nhạy cảm tương tự khác. Do vậy, phát

triển các phương pháp nuôi mới trên đất liền đảm bảo tính bền vững nhưng vẫn mang lại
lợi nhuận là việc cần thiết. Chi phí cho d
ụng cụ sử dụng trong hệ thống nuôi cá biển tuần
hoàn rất cao và không phù hợp với điều kiện khí hậu cũng như không thể tận dụng cơ sở
hạ tầng ao nuôi thủy sản có sẵn của Queensland. Việc kết hợp hệ thống mương nổi với
nguyên tắc xử lý chất thải bằng phương pháp sinh học cho phép xây dựng một hệ thống
nuôi bán mở hoặ
c kín hoàn toàn, nhờ vậy giảm đáng kể ảnh hưởng của có thể của NTTS
lên môi trường.
Dự án CARD này kết hợp công nghệ nuôi cá bằng hệ thống mương nổi cải tiến và
nguyên tắc xử lý chất thải bằng phương pháp sinh học. Các mương nổi, làm bằng plastic
hay vật liệu rẻ tiền, đã được thử nghiệm thành công ở Nhật, Australia và Mỹ. Thông qua
dự án này, các vật liệu rẻ tiề
n sẵn có của địa phương được sử dụng để xây dựng hệ thống
mương nổi, sau đó được vận hành thử nghiệm ở cả quy mô thí nghiệm và sản xuất. Các
đối tượng nuôi thử nghiệm là các loài cá bản địa có giá trị cao như: cá Chẽm, cá Đục, cá
Hồng. Cá Giò, cá Mú nước ngọt… Dự án cũng sẽ tập trung vào việc nâng cao năng lực
của các đơn vị tham gia thực hiện dự
án phía Việt Nam thông qua các đợt tham quan thực
tế, các khoá đào và thực tập nghiên cứu. Các kết quả thu được từ dự án sẽ được nhanh

4
chóng phổ biến đến nông dân địa phương thông qua các buổi tập huấn khuyến ngư. Điểm
đặc biệt của hệ thống này chính là ở khả năng ứng dụng cao của nó cho các nông hộ nuôi
ở qui mô nhỏ. Họ có thể sử dụng hệ thống ao đìa đã có sẵn mà không phải sửa đổi hay
đầu tư thêm nhiều. Dự án này hy vọng sẽ góp phần nâng cao sản lượng cá biển giống và
tận dụng các ao nuôi tôm hiện đang bị bỏ hoang do dịch bệnh ở vùng duyên hải. Mục tiêu
của dự án hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của chương trình CARD: sử dụng công nghệ
đơn giản có hiệu quả để giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường và phát triển năng lực
cán bộ của quốc gia.

5. Tiến độ thực hiện
5.1 Các kết quả chính
Hợp phần Australia
• Hoàn tất thử nghiệm đánh giá khả năng nuôi vỗ cá mulloway đạt kích thước
thương phẩm tại BIARC. Kết quả cho thấy có thể dùng mương nổi để nuôi cá
đến cỡ 1,5 kg/con để phi lê.
• Hoàn tất các thử nghiệm làm cơ sở xây dựng hệ thống nuôi sử dụng mương nổi
không thay nước. Các nội dung thử nghiệm bao gồm: (a) đánh giá khả nă
ng thu
gom chất thải của bộ thu gom chất thải đặt trong mương; (b) sử dung rong
Asparagopsis armata để hấp thu các muối dinh dưỡng; và (c) sử dụng công
nghệ bio-flocs để quản lý độ pH và xử lý chất thải. Kết quả cho thấy công nghệ
bio-flocs có thể đáp ứng tốt yêu cầu xử lý nước của hệ thống nuôi không xả thải
ở Australian

Hợp phần Việt Nam
• Thực hiện thử nghiệ
m nuôi không thay nước đồng thời cùng với các thử nghiệm
ương giống cá Mú Malaba và cá Giò. Kết quả nghiên cứu rất khả thi. Tuy nhiên,
việc cá giống (thuộc nhóm cá dữ) thất thoát từ mương ra ngoài ao chứa đã khiến
cho tỉ lệ sống của tôm nuôi thấp, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả nuôi của toàn
hệ thống. Trong toàn bộ thời gian thử nghiệm, nước trong ao chứa không hề được
thay.
• Học viên cao họ
c thứ 2 – Ngô Văn Mạnh, giảng viên trẻ của Trường Đại học Nha
Trang dưới sự hướng dẫn của TS. Hoàng Tùng đã hoàn tất đề cương nghiên cứu
và thực hiện thành công đề tài luận văn thạc sỹ. Đề tài này nghiên cứu ảnh hưởng
của mật độ thả ban đầu, kích cỡ cá thả và khẩu phần ăn, chế độ cho ăn đến tốc độ
tăng trưởng c
ủa cá Chẽm trong mương nổi.

• Tổ chức triển lãm công nghệ mương nổi tại quầy số 62 tại Hội nghị của Hội
NTTS Thế giới năm 2007 tại Hà Nội để giới thiệu kết quả nghiên cứu đến người
nuôi, cán bộ nghiên cứu, cán bộ phát triển NTTS địa phương và nước ngoài.
Không chỉ dừng ở mức độ cung cấp thông tin dưới dạng tờ rơ
i và trao đổi trực
tiếp, Dự án còn xây dựng các mô hình thu nhỏ của mương nổi để người xem dễ
tiếp cận hơn và thu hút được rất nhiều người đến thăm.
• Đăng 1 báo cáo tại Hội thảo quốc tế IMOLA (tại Đại học Nông Lâm Huế tháng
4/2007), 1 bài báo trên tạp chí The Advocate của Liên hiệp Doanh nghiệp NTTS
Thế giới (số 4 năm 2007) và 1 báo cáo khoa học trên tạp chí Khoa học Công nghệ
Thủy sản (số 1 nă
m 2007). Trình bày một báo cáo về hệ thống nuôi kết hợp không
thay nước tại Hội nghị của Hội NTTS Thế giới năm 2007 tại Hà Nội
• Chuẩn bị báo cáo tổng kết và các báo cáo kỹ thuật để CARD đánh giá.

5
• Tiếp tục các hoạt động quảng bá công nghệ dưới hình thức tư vấn miễn phí cho
các cá nhân, tổ chức có quan tâm. Tổ chức hội thảo ở Cam Ranh cùng với Trung
tâm Khuyến ngư Khánh Hòa cho 50 người nuôi và cán bộ ở địa phương.

5.2 Lợi ích của người sản xuất nhỏ
Hợp phần Australia:
• Công ty IRI của Australia đã chỉnh sửa thiết kế và sử dụng mương nổi cho m
ột
dự án mới tại Queensland sử dụng nước thải để nuôi cá nhằm tạo nguyên liệu
sản xuất bột cá. Hệ thống của công ty này dựa trên thiết kế ban đầu sử dụng
nhựa HDPE làm vật liệu của Dự án CARD. Địa điểm đặt hệ thống nuôi là tại
Vịnh Hervey, thuộc vùng duyên hải Fraser của bang Queensland. Các thử
nghiệm ban đầu đã được thực hiện để xác
định đối tượng nuôi phù hợp trong

thời gian xây dựng hệ thống phao nổi hỗ trợ. Công nghệ mương nổi được lựa
chọn nhờ chi phí vận hành thấp và tính tiện lợi cao trong quản lý đàn cá nuôi,
quan trắc tốc độ tăng trưởng và dịch bệnh, kiểm soát địch hại và thu hoạch (xem
thêm báo cáo kỹ thuật số 8).
• Nhiều chủ doanh nghiệp nuôi tôm ở Queensland đã yêu cầu được cung cấp chi
tiế
t về thiết kế hệ thống để có thể thử nghiệm. Đối tượng nuôi được quan tâm là
cá biển. Ngoài ra còn có các dự định tạo lập cơ sở nuôi cá bằng mương nổi cho
các cộng đồng người thổ dân Australia.
• Thử nghiệm nuôi cá biển trong mương nổi đặt trong ao với nước ngầm có độ
mặn được khai thác từ các mỏ than đã được thực hiện, sử dụng các thông số thu
được từ thử nghiệm tại BIARC để xây dựng mô hình phù hợp. Tuy nhiên,
hướng phát triển này không khả thi vì thành phần ion của nước ngầm không
đảm bảo yêu cầu phát triển của cá.

Hợp phần Việt Nam
• Người nuôi cá qui mô nhỏ tại tỉnh Khánh Hòa tiếp tục tiếp cận được với nguồn
cá giống có kích thước lớn do Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa tổ chức ương.
Đây là đơn vị đầu tiên tiếp nh
ận chuyển giao công nghệ của Dự án CARD
VIE062/04 theo thỏa thuận hợp tác ban đầu.
• Kết quả nghiên cứu đã được phổ biến đến 50 người nuôi ở địa phương qua hội
thảo tại Cam Ranh vào tháng 8/ 2007 và 1.200 khách tham dự Hội nghị của Hội
NTTS Thế giới tại Hà Nội.
5.3 Xây dựng năng lực
Hợp phần Australia
• Nhờ sự thúc đẩy của dự án CARD VIE062/04, cá Giò bố mẹ
đã được thu gom
và thuần hóa tại BIARC. Số cá bố mẹ này sẽ được sử dụng để thử nghiệm cho
đẻ và nuôi thương phẩm khi dự án đã kết thúc. Dự kiến cá giống sẽ được ương

trong các mương nổi do Dự án đã thiết lập lên.
• Trưởng Dự án phía Australia, Michael Burke đã tham dự Hội nghị của Hội
NTTS Thế giới tại Hà Nội tháng 8/2007 và thăm một số đị
a điểm ở lân cận TP
Hồ Chí Minh để tìm hiểu về hoạt động sản xuất giống và nuôi thương phẩm
bằng lồng các đối tượng cá Chẽm, cá Mú, cá Giò và phát triển mạng lưới hợp
tác.


6
Hợp phần Việt Nam
• Các cán bộ tham gia dự án của Trường Đại học Nha Trang đều được nâng cao
trình độ. Giảng viên Ngô Văn Mạnh đã hoàn tất đề tài luận văn Cao học của
mình. Thư ký của Dự án, KS. Bành Thị Quyên Quyên được V.L.I.R. của Bỉ cấp
học bổng để học Thạc sĩ tại Bỉ nhờ kinh nghiệm nghiên cứu có được từ dự án.
Cán bộ kỹ
thuật của dự án, KS. Huỳnh Kim Khánh đã theo học Cao học NTTS
tại Trường ĐH Nha Trang. Chủ nhiệm Dự án phía Việt Nam, TS. Hoàng Tùng
được phong học hàm Phó giáo sư.
• Công nghệ nuôi và thiết bị đã được chuyển giao hoàn toàn cho Trung tâm
Khuyến ngư Khánh Hòa. Trung tâm này đã có đủ khả năng đẻ tiếp tục chuyển
giao hoặc cải tiến công nghệ.

5.4 Quảng bá thông tin
• Hệ thống nuôi thử nghiệm 2 đối tượng là cá Mulloway và cá Đụ
c đặt tại BIARC
tiếp tục thu hút nhiều sự quan tâm của các đòan thăm quan. Cán bộ dự án đã
trình bày một số báo cáo tại hội nghị của Hội NTTS bang Queensland vào tháng
7/2007.
• Trưởng Dự án phía Australia - Michael Burke đã tham dự và trình bày báo cáo

tại Hội nghị của Hội NTTS Thế giới tại Hà Nội năm 2007.
• Chủ nhiệm Dự án phía Việt Nam, TS. Hoàng Tùng đã trình bày 3 báo cáo tại
Hội nghị quốc tế và có 3 bài báo đăng tạ
i Hội thảo IMOLA, tạp chí The
Advocate, tạp chí Khoa học và Công nghệ Thủy sản. Các thông tin này cũng
được đưa lên mạng internet qua trang web của Trường Đại học Nha Trang
(www.ntu.edu.vn
)
• Toàn bộ kết quả của dự án đã được trình bày/triển lãm tại Hội nghị của Hội
NTTS Thế giới tại Hà Nội năm 2007 với 1200 người tham dự từ khắp nơi trên
thế giới (trong số này ¼ là người Việt Nam).
5.5 Quản lý dự án
• Tiếp tục có sự thay đổi về nhân sự tại BIARC. Hiện tại Luke Dutney, Stephen
Nicholson và Dan Willett đang chịu trách nhiệm quản lý dự án và các ho
ạt động
thử nghiệm cũng như công tác tổng kết dự án.
• Toàn bộ các báo cáo kỹ thuật đã được nộp cho văn phòng CARD và được
nghiệm thu.
• Hoạt động trao đổi thông tin diễn ra hiệu quả giữa 2 hợp phần Australia và Việt
nam.
• Kinh phí đã được QDPI&F chuyển cho Trường Đại học Nha Trang để triển khai
tác thử nghiệm theo đúng kế hoạch.
• Các hoạt độ
ng ở Việt Nam được thực hiện đúng tiến độ.

6. Các vấn đề quan trọng
6.1 Môi trường
Tại Australia việc sử dụng công nghệ mương nổi cần phải đáp ứng được yêu cầu
phát triển các hệ thống nuôi không gây hại cho môi trường. Mặc dù hệ thống nuôi sử


7
dụng mương nổi có năng suất cao, người nuôi chỉ có thể sử dụng nó nếu được hỗ trợ các
giải pháp kỹ thuật kèm theo để đảm bảo nước thải từ hệ thống có hàm lượng dinh dưỡng
thấp hơn mức cho phép theo qui định Cơ quan Bảo vệ Môi trường Liên bang. Các hoạt
động nghiên cứu trong giai đoạn vừa qua đã tập trung vào thử nghiệm thu gom chất thải,
sử
dụng rong để lọc nước hay ứng dụng công nghệ ‘biofloc’ để xử lý nước nhằm thiết lập
một hệ thống nuôi không thay nước. Kết quả được trình bày trong báo cáo kỹ thuật số 5.
Tương tự như vậy, ở Việt Nam Mô hình nuôi tôm Sú mật độ thấp kết hợp với ương
thâm canh con giống cá biển bằng mương nổi trong ao đã được xây dựng và thử nghiệm.
Kết quả cho th
ấy chất lượng nước ao tốt và ổn định trong suốt 4 tháng nuôi không thay
nước với nhiều đợt ương giống cá Chẽm, cá Mú và cá Giò. Tôm nuôi đạt kích thước lớn
và có hệ số sử dụng thức ăn cao. Các khó khăn phát sinh như sự thất thoát của cá ương
trong mương vào ao, Artemia sinh khối không phát triển được trong ao chứa và trục trặc
của hệ thống cấp khí cũng được xác định và có hướng khắc phục. Nghiên cứ
u này đã đặt
nền móng quan trọng để xây dựng một mô hình nuôi kết hợp theo hướng bền vững, cho
phép tái sử dụng nước trong ao nuôi để loại trừ các tác động môi trường có thể của nghề
nuôi trồng thủy sản. Xem thêm chi tiết trong báo cáo kỹ thuật số 5 của Dự án.

6.2 Các vấn đề về giới và xã hội
Ở Việt Nam, quản lý hệ thống ương nuôi hàng ngày là một công việc không cần
nhiều s
ức lực nhưng đòi hỏi thường xuyên theo dõi. Do vậy, việc này rất phù hợp với nữ
giới, góp phần tạo điều kiện cho họ tham gia vào nghề nuôi trồng thủy sản. Trong phạm
vi công việc của dự án, chỉ cần hai phụ nữ tham gia làm việc trong phòng thí nghiệm. Tuy
nhiên, do trình độ thâm canh và năng suất cao, mô hình nuôi này sẽ chỉ phù hợp để áp
dụng cho một số lượng nông trại giới hạn. Do vậy, đ
óng góp về mặt xã hội của dự án cần

được xem xét chủ yếu ở khía cạnh dự án có thể cung cấp một số lượng lớn cá giống cho
những trai nuôi thương phẩm của người dân.

7. Các vấn đề có liên quan đến việc triển khai và tính
bền vững của dự án
7.1 Khó khăn
• Do áp lực cạnh tranh của hàng thủy sản nhập khẩu giá rẻ, rất nhiều người nuôi ở
bang Queensland hiện đang tìm kiếm các phương thức nuôi kết hợp sử dụng cơ sở
hạ tầng sẵn có. Việc sử dụng mương nổi trong các hệ thống nuôi kết hợp cho phép
người nuôi tận dụng tối đa mặt nước (ví dụ như nuôi cá lớn trong mương và tôm
hoặc cá ăn tạp, ăn mùn xác hữu cơ trong ao chứa). Giải pháp này cho phép tăng
năng suất và sử dụng hiệu quả nguồn dinh dưỡng đầu vào. Tuy vậy, lượng chất
thải và phương pháp xử lý vẫn còn đang là một thách thức lớn.
• Sự thiếu hụt nguồn cá biển giống tại Việt Nam sẽ tiếp tục là trở lực cho khả năng
sử dụng công nghệ m
ương nổi do công nghệ này đòi hỏi một số lượng cá lớn.

7.2 Giải pháp
• Sử dụng công nghệ biofloc để quản lý chất lượng nước trong ao chứa và giảm
thiểu yêu cầu trao đổi nước với môi trường.

8
• Sử dụng mương nổi cho nghề ương cá Tra vì nguồn cá giống rất phong phú.
7.3 Tính bền vững
• Có thể đảm bảo ở Việt Nam vì số lượng các cá nhân, cơ sở và tỉnh quan tâm đến
công nghệ mương nổi ngày càng tăng. Các công ty hiện đang sử dụng công nghệ
này bao gồm: Viet Seabass Co., Truong Thanh Co., Australis, Minh Thuan Co. và
Trung tâm giống Bến Tre. Thành công của các cơ sở như Australis hoặc Trung
tâm giống Bến Tre sẽ thu hút quan tâm của các doanh nghiệp khác m
ột cách

nhanh chóng. Chi phí năng lượng để vận hành hệ thống không cao như ước đoán
ban đầu. Hơn nữa chi phí đầu tư hệ thống còn có thể cắt giảm khoảng 50% nhờ
thiết kế mới (phiên bản SMART-2 version) kết hợp với sử dụng vật liệu
composite có chất lượng thấp hơn.

• Tại Australia, ngoài việc nuôi thương phẩm, mương nổi hiện còn được sử dụ
ng để
nuôi cá bằng nước thải đã xử lý để tạo nguyên liệu làm bột cá hoặc kết hợp với
các hệ thống sử dụng nước ngầm để nuôi cá biển. Kết quả thử nghiệm thành công
tại BIARC đã thiết lập các cơ sở quan trọng để tiếp tục pháp triển và ứng dụng
công nghệ mương nổi.
8. Các hoạt động quan trọng tiếp theo
Tại Việt Nam (sau khi dự án kết thúc)
• Tiếp tục quảng bá công nghệ thông qua việc công bố kết quả của dự án trên các
tạp chí khoa học, hoặc dưới dạng tài liệu khuyến ngư và giảng dạy tại trường đại
học. Triển khai nghiên cứu về tác dụng có lợi của dòng chảy đến tăng trưởng và
sức khỏe của cá nuôi nhằm tối ưu hóa thiết kế vận hành c
ủa mương nổi cho các
đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao.
• Tìm kiếm kinh phí để tiếp tục thực hiện công tác nghiên cứu phát triển theo các
hướng (i) áp dụng công nghệ mương nổi cho nghề nuôi và ương cá Tra, (ii) xây
dựng hệ thống nuôi kết hợp không thay nước cho khu vực ven biển sử dụng công
nghệ mương nổi kết hợp với xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học.

Tại Australia (sau khi dự án kế
t thúc)
• Tập hợp số liệu, thông tin từ các báo cáo kỹ thuật để biên soạn tài liệu hướng dẫn
sử dụng mương nổi để nuôi cá.
• Tiếp tục quảng bá công nghệ mương nổi tại Australia.
9. Kết luận

Toàn bộ hoạt động của dự án ở cả 2 hợp phần đã được hoàn tất theo đúng kế hoạch.

×