1
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Chương trình Khuyến nông, đào tạo và
Phát triển Chăn nuôi bò thịt
tại Nghệ An
Báo cáo tiến độ dự án 010/06VIE
MS5: BÁO CÁO 6 THÁNG LẦN THỨ BA
Tháng 8 - 2008
2
Mục lục
1 Thông tin chung 1
2 Tóm tắt dự án 2
3 Tổng kết hoạt động 2
4 Tiến độ thực hiện 3
Các kết quả cơ bản đạt được 3
Lợi ích của các hộ nông dân 4
Xây dựng năng lực 4
Xuất bản 5
Quản lý dự án 5
5 Báo cáo về kết quả nhân rộng của dự án 5
6 Các vấn đề còn tồn tại và tính bền vững 5
Các vấn đề còn tồn tại 5
Các giải pháp can thiệp 6
Tính bền vững 6
7 Các bước cơ bản tiếp theo 6
8 Tuyên bố theo luật định Error! Bookmark not defined.
1 Thông tin chung
Tên Dự án
Dự án khuyến nông và đào tạo phát
triển chăn nuôi bò thịt quy mô xã bền
vững tại Tỉnh Nghệ An
Cơ quan Việt nam tham gia dự án
Công ty Rau Quả 19/5 Nghệ An và
Trung tâm NC Bò và Đồng cỏ Ba vì
Lãnh đạo dự án Việt nam
Ông Nguyễn Đức Điệp
Cơ quan Australia AusAID
Đại diện Australia
Ông Tim Harvey
Thời gian bắt đầu
Tháng Hai 2007
Thời gian kết thúc (dự định)
Tháng 12 - 2009
Thời gian kết thúc (sửa đổi)
-
Thời gian báo cáo tiến độ
Sáu tháng một lần
Tên và Địa chỉ liên lạc
Ở New Zealand: Lãnh đạo Dự án
Họ tên:
Tim Harvey
Điện thoại
00 64 6 350 5119
Chức vụ:
Giám đốc
Fax:
00 64 6 350 5633
Cơ quan
Trường ĐH Massey
Email:
Ở New Zealand: Phòng Quản lý Hành chính
Họ tên:
Ông M. Peters
Điện thoại:
00 64 6 350 5799 Nối máy
81338
Chức vụ: Trưởng phòng Fax: 00 64 6 801 2682
Cơ quan
Dịch vụ Quản lý Nghiên c ứu
Email:
Ở Việt nam
Họ tên:
ThS. Nguyễn Quốc Toản
Điện thoại:
0946651244
Chức vụ:
Điều phối dự án
Fax:
0343881404
Cơ quan
TT NC Bò và Đồng cỏ Ba vì
Email:
2
2 Tóm tắt dự án
ô
3 Tổng kết hoạt động
Giới thiệu các hoạt động cơ bản:
Trong 6 tháng qua, hai chuyến công tác tới vùng dự án đã được thực hiện hoàn tất vào tháng
Ba và tháng Sáu năm 2008.
Mr Tim Harvey đã tới vùng dự án cuối tháng Ba, đầu tháng Tư năm 2008. Chuyến công tác
đã thành công với các mục tiêu đều đạt được: 9 hộ nông dân tham gia dự án đã được cung cấp
9 máy băm cỏ được thiết kế và sản xuất tại địa phương; đồng thời họ đượ
c cung cấp 6 giống
cỏ và cây họ đậu nhiệt đới mới; kỹ thuật ủ chua cỏ và phụ phẩm nông nghiệp đã được tiến
hành ở hầu hết các hộ gia đình.
Dự án sẽ tiếp tục giới thiệu các kỹ thuật mới tới các địa bàn ở tỉnh Nghệ An có tiềm năng cải
thiện thu nhập cho hộ gia đình nông dân từ việc phát triển chă
n nuôi bò thịt.
Mức độ dinh dưỡng cung cấp cho bò thịt cần phải được nâng cao một khi năng suất sản xuất
được nâng cao và nguồn gen di truyền được cải tiến theo hướng ổn định và đem lại lợi ích cho
bà con nông dân. Dự án đã giới thiệu cho bà con nông dân các giống cỏ nhiệt đới mới, trình
diễn hiệu quả của việc sử dụng phụ phẩm nông nghiệp và ủ chua thức ăn xanh
để tăng hàm
lượng dinh dưỡng và cung cấp khẩu phần ăn cân bằng cho gia súc. Dự án cũng đã cung cấp ba
con bò đực giống hướng thịt cho ba xã của vùng dự án bên cạnh việc cung cấp tinh cọng rạ
của các giống Brahman và Droughtmaster để thực hiện kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò.
Kế hoạch phát triển chăn nuôi bò thịt tới năm 2010 được thể hiện trong quyết định số
1155/QĐ-UB của UBND Tỉnh Nghệ An ban hành tháng Năm năm 2003. Kế hoạch nhằm
đạt được mục tiêu tăng trưởng trong chăn nuôi bò thịt, sử dụng lai tạo giống để sản xuất các
giống mới có năng suất cao nhằm cải thiện thu nhập cho bà con nông dân chăn nuôi bò.
Ngành chăn nuôi bò thịt theo truyền thố
ng ở Việt nam dựa trên cơ sở chăn nuôi ở các trang
trại nhỏ lẻ, phân tán, chủ yếu chăn thả trên các vùng đất tận dụng, không có tính chất bền
vững. Dự án này nhằm mục tiêu phát triển mô hình chăn nuôi bò thịt quy mô hộ gia đình ở
cấp độ xã một cách kinh tế, bền vững để cải thiện hệ thống cung ứng bò thịt lâu dài và nâng
cao thu nhập cho nông dân. Dự án đang được thực hiện và
đánh giá hệ thống trang trại chăn
nuôi bò thịt ở Nghệ An nói chung và ba xã vùng xa có mức thu nhập của các hộ gia đình
thấp dưới mức trung bình là Nghĩa Lâm, Nghĩa Yên và Nghĩa Sơn.
Dự án cũng đã giới thiệu một số giống cỏ nhiệt đới mới được nhập khẩu từ Thái lan cho
vùng dự án; Các giống cỏ này đã được trồng có hiệu quả và thích nghi ở vùng dự án góp
phần nâng cao hàm lượng dinh d
ưỡng trong khẩu phần ăn cung cấp cho gia súc nhai lại. Dự
án cũng giới thiệu kỹ thuật ủ cỏ sử dụng các loại phụ phẩm nông nghiệp khác nhau, đặc biệt
kỹ thuật ủ chua lá sắn; Các kỹ thuật này tỏ ra rất có hiệu quả tại vùng dự án. Nguồn gen bò
thịt trong vùng dự án có chất lượng thấp nên dự án đã triển khai một số giống mới như
Sindi, Brahman và Droughtmaster để
cải tạo chất lượng bò thịt lâu dài.
3
Dự án đã tổ chức một chuyến tham quan tập huấn tại trường Đại học Ubon Ratchathani cho
12 bà con nông dân tham gia dự án. Chuyến tham quan tập huấn này rất có hiệu quả và đã góp
phần tăng cường cho thành công của dự án.
Trong 12 tháng tiếp theo dự án sẽ tập trung vào việc phổ biến mở rộng các kỹ thuật mới và cố
gắng đưa các cải tiến mới vào hệ thống cung cấp các sả
n phẩm của ngành chăn nuôi bò thịt
trong vùng.
Các vấn đề liên quan:
Theo ước tính chỉ có 20% số bò cái trong độ tuổi sinh sản tại ba xã dự án là bò lai Sind.
Tỷ lệ phần trăm thấp này sẽ làm giảm tốc độ của việc giới thiệu các giống bò thịt cao sản
Brahman và Droughtmaster. Bò cái địa phương (bò vàng bản địa) có tầm vóc rất nhỏ do đó dự
án cho rằng chỉ nên sử dụng bò địa phương đã sinh sản t
ừ lứa hai trở lên và bò lai
Sind để cho lai tạo giống với Brahman và Droughmaster.
Hy vọng rằng kỹ thuật viên thụ tinh nhân tạo đã được đào tạo tốt sẽ thu hoạch được nhiều kết
quả truyền giống nhân tạo tốt với tỷ lệ đậu thai cao vì thế bà con nông dân có thể nhận thức
được lợi ích lâu dài của chương trình cải tạo giống.
Hiện nay nhà máy chế biến dứa địa ph
ương đang gặp khó khăn trong việc cung ứng sản phẩm
vì vậy công ty và bà con nông dân gặp khó khăn trong việc thu mua bã dứa thường xuyên.
Bản thân Công ty Rau Quả 19/5 hiện đang gặp khó khăn trong việc tìm nguồn tài chính để
phát triển đàn bò hạt nhân của Công ty, bên cạnh đó là việc Công ty thiếu cán bộ có kinh
nghiệm và trình độ chuyên môn trong nghề chăn nuôi gia súc nhai lại.
4 Tiến độ thực hiện
Các kết quả cơ bản đạt được
1. 150 kg hạt giống cỏ bao gồm các giống Mulato II, Paspalum, Stylo, Hamatha và đậu
bò đã được nhập từ trường Đại họcUbon Ratchathani vào vùng dự án Tháng Ba năm
2008. Bảy trong số 9 nông dân tham gia dự án và 34 nông dân mở rộng đã trồng
thành công các giống cỏ mới này. Tốc độ sinh trưởng và thành lập thảm của các giống
cỏ mới vào mùa mưa tại vùng dự án là hết sức ấn tượ
ng.
2. Việc giới thiệu các biện pháp kỹ thuật ủ chua cỏ xanh vẫn đang được tiếp tục. Toàn bộ
các nông dân tham gia dự án đều được cung cấp máy băm cỏ và bể ủ cỏ cỡ nhỏ. Một
bể ủ cỏ trình diễn cỡ lớn với dung tích 2 tấn đã được xây dựng tại một hộ gia đình
nông dân của dự án. Kết quả ủ chua cỏ xanh t
ốt nhất đã đạt được từ việc thực hiện ủ
chua từ hỗn hợp cỏ voi và lá sắn. Ở huyện Nghĩa đàn, diện tích đất dành cho trồng sắn
khá lớn do đó tiềm năng sử dụng loại phụ phẩm này là rất cao. Theo đánh giá, huyện
có khả năng nâng cao sản lượng của ngành chăn nuôi lên tới 20-30ổitng vòng 5-10
năm nữa.
3. 3 bò đực giống h
ướng thịt đã được chuyển giao tới các xã của vùng dự án để cải tiến
nguồn gen trực tiếp cho bò địa phương. Số bò đực này sẽ tăng cường cho việc giới
thiệu vật liệu gen di truyền mới bên cạnh việc áp dụng kỹ thuật truyền giống nhân tạo.
4. 12 thành viên bao gồm nông dân, cán bộ kỹ thuật và chuyên viên khuyến nông huyện
đã được tổ chức đi thăm và t
ập huấn tại trường Đại học Ubon Ratchathana ở Thái lan
tháng Ba năm 2008. Chương trình tập huấn đã được thực hiện rất thành công và đã
4
giúp cho đoàn tham quan nhận thức được tiềm năng của ngành chăn nuôi gia súc nhai
lại dựa trên cơ sở phát triển đồng cỏ thâm canh.
Lợi ích của các hộ nông dân
Trên 40 hộ nông dân ở huyện Nghĩa Đàn đã được cung cấp hạt giống để trồng các giống cỏ
nhiệt đới mới. Các giống cỏ có hàm lượng dinh dưỡng và năng lượng cao này bên cạnh các
biện pháp kỹ thuật mới đ
em lại cho bà con nông dân khả năng nâng cao năng suất chăn nuôi,
từ đó tăng lợi nhuận và thu nhập cho gia đình. Hai giống cỏ Mulato II và Paspalum có thể
được nhân giống và cấy trồng một cách dễ dàng và hiệu quả. Điều này có nghĩa là mục tiêu
cho tới cuối năm 2009 sẽ có khoảng 100 hộ gia đình nông dân trồng hai giống cỏ Paspalum
và Mulatto II hoàn toàn có khả năng đạt được. Đội ngũ dự án tin tưởng rằng 100 hộ nông dân
v
ới kỹ thuật mới này sẽ cung cấp một cơ sở ổn định và bền vững để nhân rộng các giống cỏ
chất lượng này trong các vùng chăn nuôi của huyện miền núi Nghĩa đàn.
Việc cung cấp 3 bò đực giống hướng thịt tới vùng dự án làm cho việc cải tạo giống luôn săn
sàng cho các tất cả hộ gia đình chăn nuôi bò ở tên địa bàn ba xã. Điều này tạo cơ h
ội cho việc
nâng cao số lần phối giống mới để cải tạo đàn bò địa phươnâmtị vùng dự án lên tới 600 lần
trong một năm bên cạnh việc áp dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo đạt được khoảng 100 lần nữa.
Vùng dự án hiện có khoảng 2800 con bò; như vậy sẽ có khoảng 25-30% số hộ gia đình nông
dân có cơ hội tiếp cận với các giống bò thịt cả
i tiến.
Việc sử dụng kỹ thuật ủ chua cỏ xanh để cải thiện tình hình cung cấp thức ăn xơ thô và nâng
cao hàm lượng dinh dưỡng trong thức ăn vào mùa đông cho gia súc nhai lại không phải là
điều mới mẻ ở Việt nam. Tuy vậy tại vùng dự án, không có hộ gia đình nông dân nào đã từng
có kinh nghiệm và áp dụng kỹ thuật ủ chua cỏ xanh. Tiềm năng nâng cao số đầu gia súc và
sản lượng chă
n nuôi ở vùng dự án là rất lớn tồn tại song song với khả năng cung cấp thức ăn
xơ thô và phụ phẩm nông nghiệp trong vùng. Các hộ nông dân ở 3 xã dự án đều có thể tham
gia các buổi trình diễn ủ cỏ và tập huấn cùng với 9 hộ nông dân dự án, những người đều đã
được cung cấp máy băm cỏ và bể ủ cỏ. Dự án cũng đã hướng dẫn bà con nông dân làm thế
nào để ủ
chua cỏ từ nhiều loại nguyên liệu xơ thô và phụ phẩm nông nghiệp khác nhau.
Xây dựng năng lực
Chuyên viên của Trạm Khuyến nông Nghia đàn đã tham gia đầy đủ các buổi tập huấn và đánh
giá các giống cỏ mới. Một chuyên viên của Trạm đã được mời đi thăm trường Đại học Ubon
Ratchathani và các hộ gia đình nông dân chăn nuôi bò ở Thái lan. Sự tham gia này đã giúp họ
củng cố được kiế
n thức chuyên môn và nâng cao năng lực để tư vấn nông dân giúp họ có
được những lựa chọn phù hợp để phát triển chăn nuôi trong hộ gia đình trong tương lai.
Cán bộ kỹ thuật của Công ty Rau Quả 19/5 giờ đây cũng có hiểu biết tốt hơn về dinh dưỡng
thức ăn và lựa chọn giống cây thức ăn gia súc có chất lượng cao. Điều này dẫn đến kết quả là
có sự chuy
ển biến lớn ở Trang trại chăn nuôi bò của Công ty.
Cán bộ từ Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ cũng được tham gia trong việc đào tạo tập
huấn cũng như đi thăm Trường Đại học Ubon Ratchathani. Họ cũng tham gia trong việc đánh
giá các giống cỏ mới được trồng trên địa bàn của Trung tâm thuộc huyện Ba vì.
Các cán bộ lãnh đạo địa phương từ ba xã dự án cũng đã tham gia tích cực trong d
ự án và đã
được nâng cao kiến thức và sự hiểu biết về cách quản lý và chăn nuôi bò thịt cũng như
chương trình cải tạo giống bò.
5
Đội ngũ chuyên gia New Zealand cũng đã được nâng cao sự hiểu biết và sự đánh giá của họ
về lịnh vực chăn nuôi nói chung và chăn nuôi bò thịt nói riêng ở huyện Nghĩa đàn.
Xuất bản
Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nghệ An đã đến thăm vùng dự án và đã
gửi báo cáo tới các lãnh đạo Tỉnh Nghệ An. Dự án cũng đã xuất hiện trong kênh thông tin của
chương trình CARD.
Qu
ản lý dự án
Giám đốc dự án người Việt nam, ông Nguyễn Đức Điệp đã ngừng đảm nhiệm chức vụ Giám
đốc Công ty Rau Quả 19/5 vào cuối tháng Sáu năm 2008 để đảm nhận cương vị mới là Phó
Chủ tịch Hội đồng Nhân dân huyện Nghĩa đàn mới sau khi huyện Nghĩa đàn cũ được tách làm
hai đơn vị hành chính là Thị xã Thái hoà và huyện Nghĩa đàn mới. Thị trấn Thái Hòa nằm
cách xa Công ty Rau Quả 19/5 về phía tây nam 12 km đã trở thành một thị xã mới tách riêng
khỏi huyện Nghĩa đàn. Người thay thế ông Nguyễn Đức Điệp đảm nhiệm cương vị mới là ông
Hoàng Văn Tạo, Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp. Ông Tạo đã dành nhiều thời gian để đi tham
quan vùng dự án cùng chúng tôi và biểu hiện thái độ hết sức ủng hộ cho dự án. Ông Điệp sẽ
tiếp tục tham gia và
ủng hộ cho dự án trên cương vị mới là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân
Huyện Nghĩa đàn.
Ông Nguyễn Quốc Toản tiếp tục thực hiện rất tốt nhiệm vụ điều phối dự án và trong thời gian
vừa qua đã dành nhiều thời gian và công sức để chọn lựa 3 con bò đực giống hướng thịt cho
vùng dự án. Ông Toản cũng đã điều phối vi
ệc ký hợp đồng chăn nuôi bò đực giống với các hộ
nông dân và đã tập huấn cho họ kỹ thuật chăn nuôi và chăm sóc bò đực giống.
5 Báo cáo về kết quả nhân rộng của dự án
Ông Nguyễn Đình Lý, chuyên viên khuyến nông huyện, (người đã được tham gia chuyến đi
tham quan tập huấn tại Thái lan) đã phân chia hạt cỏ giống cho 34 hộ gia đình nông dân chăn
nuôi bò trong phạm vi huyện Nghĩa đàn, mỗi hộ được nhận khoảng 200 gam hạt của ba giống,
Ubon paspalum, Mulato II và hoặc là Ubon stylo, đậu bò hay Hamata stylo. Tất cả 34 hộ đã
gieo trồng số hạt giống nhập từ Thái lan nói trên và đã thành lập được thảm cỏ t
ốt. Đội ngũ dự
án đã đi thăm 2 trang trại của 2 trong số 34 hộ gia đình này và đã có ấn tượng rất tốt đẹp trước
thảm cỏ của các giống cỏ mới này.
6 Các vấn đề còn tồn tại và tính bền vững
Các vấn đề còn tồn tại
Quy mô nhỏ bé của trang trại các hộ gia đình là rào cản chủ yếu đối với sự phát triển lâu dài
của ngành chăn nuôi bò thịt trong khu vực. Một trang trại có hiệu quả kinh tế bền vững nên có
quy mô chăn nuôi từ 20 đến 50 con bò thịt. Vì các hộ nông dân riêng lẻ thường chỉ sở hữu
một diện tích đất đai nhỏ nên cách duy nhất để đạt được quy mô phát triển này là thành lập
hợp tác xã chăn nuôi bò thịt hoặc xây dựng mô hình kiểu doanh nghiệp thương mại. Trong
vùng dự án, diện tích đất đai trồng mía và trồng sắn khá lớn nên khả năng thích hợp nhất có
thể đem lại lợi nhuận cao cho bà con nông dân đó là việc thành lập hợp tác xã.
6
Khả năng tồn tại của các nhà máy chế biến nông sản trong vùng là không bền vững vì sự yếu
kém trong khâu thành lập các hợp đồng cung ứng. Điều này có nghĩa là sự sẵn có các phụ
phẩm chế biến từ các nhà máy này là không ổn định và không đủ độ tin cậy để các trang trại
phát triển chăn nuôi bò thịt trên cơ sở khai thác các loại phụ phẩm làm thức ăn gia súc đầu tư
một cách có hiệu qu
ả.
Một trong những trở ngại chính của việc cải tiến nguồn gen di truyền lâu dài đó là khả năng
thực hiện được kỹ thuật truyền giống nhân tạo thành công và có hiệu quả trong khu vực. Mặc
dù dự án đã đào tạo được một kỹ thuật viên truyền giống nhân tạo cho bò nhưng điều này
không thể tạo ra một giải pháp có tính chất lâu dài ở nơi mà tất cả
nông dân đều có thể tiếp
cận và sử dụng dịch vụ truyền giống nhân tạo đáng tin cậy.
Các giải pháp can thiệp
Nếu các giống cỏ mới đã được chứng tỏ là thành công trong việc sử dụng làm thức ăn chăn
nuôi thì có thể lựa chọn giải pháp triển khai một hình thức kinh doanh mới là nhân giống cỏ
trong phạm vi huyện để cung cấp cỏ giống cho các địa phương khác trong tỉ
nh và thậm chí
cho cả các tỉnh khác của Việt nam.
Việc sử dụng bò đực giống cải tiến ở cấp độ cơ sở đã được thực hiện phổ biến ở Việt nam và
việc dự án cung cấp bò đực giống cho các xã trong vùng dự án đã chứng tỏ là thành công và
góp phần vào việc giảm thiểu hoá hạn chế của công tác cải tạo giống thông qua việc áp dụng
kỹ thu
ật truyền giông nhân tạo.
Tính bền vững
Ngành chăn nuôi bò thịt nói riêng và chăn nuôi gia súc nói chung ở huyện Nghĩa đàn chắc
chắn là đứng vững được và có khả năng mở rộng và phát triển thông qua việc cải thiện chế độ
dinh dưỡng, lựa chọn các loại thức ăn xơ thô, thành lập các đồng cỏ nhiệt đới mới và sử dụng
lá sắn làm nguồn bổ sung protein chủ lực.
7 Các bước cơ bản tiếp theo
a Phân tích và đánh giá việc áp dụng kỹ thuật ủ chua cỏ xanh có sự kết hợp nhiều loại cây
thức ăn khác nhau, đặc biệt kết hợp giữa lá sắn và các loại thức ăn xơ thô khác
b Đánh giá sự phát triển của các con bò đực giông
c Mở rộng việc áp dụng kỹ thuật ủ chua sử dụng các loại phụ phẩm nông nghiệp và chế
biến; cố gắ
ng nâng cao nhận thức và sử dụng kỹ thuật này
d Đánh giá sự phát triển của các giống cỏ mới theo mùa vụ trong điều kiện môi trường địa
phương
e Đánh giá khả năng nhân giống các giống cỏ mới để làm cho chúng trở nên phổ biến và
sẵn có
f Xem xét lại hệ thống tiếp thị sản phẩm chăn nuôi bò thịt và khả năng phát triển việc ký
k
ết các hợp đồng cung cấp thịt bò dài hạn
g Hoàn thành các đợt công tác tháng Chín năm 2008 và tháng Hai năm 2009
h Tiếp tục thu thập các dữ liệu về trọng lượng cơ thể sống của đàn bò dự án
i Tổ chức tập huấn về việc thành lập hợp tác xã và tận dụng các cơ hội.