Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Thực trạng hoạt động, quản lý và khai thác vịnh hạ long trong phát triển du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.51 KB, 83 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Vịnh Hạ Long là một kỳ quan thiên nhiên vơ giá mà tạo hóa đã ban
tặng cho chúng ta. Do đó việc tìm hiểu và khai thác những giá trị tài nguyên
thiên nhiên và văn hóa của Vịnh Hạ Long phục vụ du lịch là một trong những
điều rất cần thiết. Khi đến với Vịnh Hạ Long du khách sẽ được cảm nhận, hịa
mình vào trong những cảnh sắc của tài nguyên thiên nhiên hùng vĩ với những
đảo đá tuyệt đẹp, hang động lộng lẫy nhiều nhũ đá, măng đá, những bãi tắm
trong xanh,…và tài nguyên văn hóa phong phú như những kho tàng cổ vật
của con người, những kiến tạo kỳ vĩ và rất đặc biệt của hệ thống đảo đá…
Trên dải đất Việt Nam tươi đẹp Vịnh Hạ Long luôn nổi bật lên như
một hình ảnh độc đáo và hấp dẫn vào bậc nhất: Hạ Long – hang động kỳ ảo;
Hạ Long - bảo tàng địa chất khổng lồ; Hạ Long – đa dạng sinh thái và Hạ
Long – cái nôi của nền văn hóa cổ.
Vịnh Hạ Long là một thắng cảnh tự nhiên nổi tiếng không chỉ ở trong
nước mà cả trên thế giới, với những giá trị đặc trưng độc đáo của mình, Vịnh
đã được UNESCO 2 lần cơng nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới ( tháng
12/1994 và tháng 11/2000 ). Việc được công nhận là Di sản Thế giới một mặt
là vinh dự và tự hào lớn của Việt Nam, mặt khác nó cũng mang lại cho nước
ta những lợi thế đáng kể về kinh tế, văn hóa và xã hội. Đồng thời đặt ra cho
chúng ta những yêu cầu mới về việc bảo tồn, phát huy giá trị của Di sản và
nhất là việc khai thác 1 cách có hiệu quả nguồn lực tài nguyên thiên nhiên này
phục vụ cho sự phát triển du lịch Việt Nam nói chung và du lịch tỉnh Quảng
Ninh nói riêng.

1


Để giới thiệu, tôn vinh những giá trị đặc sắc và vẻ đẹp kỳ vĩ của khu
Di sản Thiên nhiên Thế giới Vịnh Hạ Long, đồng thời đưa ra những định
hướng, giải pháp, kiến nghị góp phần vào việc bảo tồn, phát huy giá trị, sử


dụng và khai thác có hiệu quả khu Di sản Thế giới Hạ Long, em quyết định
lựa chọn đề tài: “ Một số ý kiến về việc khai thác di sản thiên nhiên thế giới
Vịnh Hạ Long nhằm phục vụ phát triển du lịch bền vững”.
2.Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục tiêu
Mục tiêu của khoá luận này là để:
-

Xác định rõ phạm vi, vai trò của khu Di sản Thế giới Vịnh Hạ

Long trong công cuộc phát triển du lịch của cả nước.
-

Chỉ ra nguồn tiềm năng du lịch nổi trội của Vịnh Hạ Long để

được ưu tiên đầu tư phát triển trong thời gian tới.
-

Xác định các tuyến, điểm du lịch phù hợp để kết hợp giữa tuyến

du lịch trong khu vực Hạ Long với các cụm, điểm du lịch ngoài lãnh
thổ.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện các mục tiêu nêu trên, khoá luận cần thực hiện những nhiệm
vụ, yêu cầu sau:
-

Nghiên cứu thực trạng tình hình khai thác tài nguyên du lịch của

Vịnh để đưa vào hoạt động và phát huy những tiềm năng du lịch sẵn có.

-

Tìm hiểu các cơng tác quản lý, bảo tồn giá trị di sản Vịnh Hạ

Long, từ đó dưa ra những giải pháp phát triển hợp lý khu di sản.
-

Trên cơ sở nghiên cứu đưa ra những thông tin sơ bộ để tạo sự tiếp

cận và cung cấp một số thông tin sơ bộ về Vịnh Hạ Long.

2


3. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu tiềm năng du lịch Hạ Long.
- Nghiên cứu hiện trạng khai thác, tài nguyên phục vụ du lịch trên Vịnh
Hạ Long.
- Tìm hiểu về công tác quản lý và bảo tồn di sản Hạ Long.
- Các đề xuất và kiến nghị nhằm phục vụ khách du lịch.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tài nguyên thiên nhiên – văn hoá, tiềm năng, các loại hình
dịch vụ du lịch trên Vịnh Hạ Long và hiện trạng khai thác du lịch trong
phạm vi khu vực Vịnh Hạ Long được công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế
giới và một số khu vực phụ cận có liên quan.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong q trình thực hiện khố luận, tôi đã kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau.
-


Phương pháp thực địa

-

Phương pháp phỏng vấn các chuyên gia

-

Phương pháp so sánh

-

Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu, tư liệu, thơng tin…

6. Bố cục của khố luận
Bao gồm các phần:

 Mở đầu
 Chương 1: Tài nguyên du lịch Vịnh Hạ Long
 Chương 2: Thực trạng hoạt động, quản lý và khai thác Vịnh Hạ
Long trong phát triển du lịch

 Chương 3: Một số kiến nghị, giải pháp nhằm phát triển hợp lý khu
du lich Hạ Long

 Phần kết luận
 Tài liệu tham khảo
 Phụ lục
3



CHƯƠNG 1
TÀI NGUYÊN DU LỊCH VỊNH HẠ LONG

1.1. Lược sử hình thành
Vào thời cổ sinh muộn, ở các kỷ Carbon và Permi (từ 340- 240 triệu
năm trước) chế độ biển nơng với khí hậu nóng ẩm kéo dài tồn tại hàng trăm
triệu năm đã làm hình thành lên hai hệ tầng đá vôi là Cát Bà và Quang Hanh
dày hàng nghìn mét. Đây chính là những chất liệu đầu tiên để tạo nên Vịnh
Hạ Long sau này.
Sang Đại Trung Sinh (từ 240- 67 triệu năm trước), vỏ mặt trái đất diễn
ra những chuyển động kiến tạo nâng, đứt gãy uốn nếp dữ dội, nhưng rất chậm
chạp. Trải qua hàng trăm triệu năm, quá trình vận động này đã làm hai hệ tầng
đá vôi này bị đập vỡ.
Ở Đại Tân Sinh (từ 67 triệu năm đến nay), quá trình biển tiến, biển lùi
xuất hiện liên tục xâm thực mạnh mẽ vào khối đá vơi, cùng với lượng nước
mưa đổ xuống hồ tan carbonnat canxi, bóc mịn, mài mịn các khối đá làm
tan ra và chỉ cịn sót lại các đảo như ngày nay sau những thăng trầm của địa
chất. Hiện nay trên Vịnh Hạ Long các đảo đá chủ yếu thuộc hai loại: hình
chóp và hình trụ tức là dạng địa hình fengcong do nước mưa và nước biển
xâm thực từ bên dưới.
Thời kỳ Pleistoxen (từ 2 triệu đến 11 nghìn năm trước) là thời gian chủ
yếu tạo nên hệ thống các hang động nổi tiếng ở Vịnh Hạ Long, chúng thường
tập trung ở các độ cao10,15,20,25, và 60m. Ban đầu, nước mưa chảy theo
những khe nứt vỡ của đá vôi được tạo ra do các chuyển động kiến tạo phát
sinh đứt gãy. Q trình ăn mịn hố học do nước mưa ngày càng mở rộng các
khoảng trống khe nứt để hình thành nên các hang động. Thời gian Holoxen
hay cịn gọi là thời kỳ biển tiến Holoxen bắt đầu từ 11.000 năm trước và kéo

4



dài tới ngày nay. Từ 7- 4000 năm trước, biển tiến Holoxen mở rộng cực đại
và Vịnh Hạ Long chính thức được hình thành. Từ 4 – 3000 năm trước, biển
lùi dần và giữ mức ổn định như ngày nay.
Có thể khẳng định rằng, trang sử đá Hạ Long là hình ảnh sinh động
nhất về lịch sử địa chất của khu vực, nó ghi lại q trình hình thành, vận động
kiến tạo của vỏ trái đất cách ngày nay 250- 270 triệu năm. Cuộc chuyển động
uốn nếp Caledonie và thuộc điệp Carbon thường và Permi tạo khu vực Đông
Nam Á thành đảo núi xen kẽ các trũng biển. Cách ngày nay 175 triệu năm
cuộc vận động tạo sơn Indossinias mạnh, nâng các trũng biển thành lục địa.
Mặc dù vậy, địa hình Vịnh Hạ Long về cơ bản vẫn khơng thay đổi cho tới
ngày nay. Vì vậy, Hạ Long khơng chỉ đẹp mà còn là bảo tàng địa chất quý
giá, được gìn giữ ngồi trời đã q 250 triệu năm.
Giáo sư Tony Waltham - Viện địa chất Hoàng gia Anh khi nghiên cứu
về địa chất đã khẳng định: Những ngọn núi đá tuyệt đẹp mọc lên từ mặt biển
yên tĩnh của Vịnh đã tạo nên một khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời. Khơng thể
nói gì hơn, ta có thể khẳng định Vịnh Hạ Long là một thắng cảnh Karst mang
ý nghĩa toàn cầu với nền tảng cơ bản là khoa học địa chất. Cùng với giá trị
về mặt cảnh quan, giá trị về địa chất học của Hạ Long cần phải được bảo tồn
vì lợi ích của lồi người.
Về giá trị địa chất Vịnh Hạ Long, IUCN đã đánh giá như sau: “ Vịnh
Hạ Long là một điển hình về biển gắn với cảnh quan tháp Karst và là một
trong những khu vực quan trọng nhất thế giới về Karst. Mặc dù Di sản có
những nét đặc trưng địa mạo giống với nhiều vùng khác nhưng rõ ràng, nó
vẫn hơn hẳn so với bất kỳ khu vực nào trên thế giới. Hơn thế nữa, khu Di sản
Hạ Long thể hiện đầy đủ tính ngun vẹn về các q trình địa chất ở quy mơ
lớn. Mặc dù lồi người đã cư trú ở khu vực này rất lâu, nhưng điều này
không làm mất đi mà vẫn lưư giữ được tính nguyên vẹn vốn có. Vịnh Hạ Long
có thể được coi như là một trong những Di sản có tháp Karst đá vơi rộng lớn

nhất và phát triển mạnh nhất thế giới”.
5


Nếu giá trị cảnh quan tự nhiên tuyệt vời dễ thấy đã tơn vinh khu di sản,
phản ánh hình thể và màu sắc của một viên ngọc quý, thì giá trị địa chất cần
được xem như là cấu trúc và chất liệu tạo nên viên ngọc ấy.
Bờ và trong lòng Vịnh Hạ Long chứa đựng nhiều hệ tầng trầm tích
thành phần cacbonat và lục nguyên với nhiều di tích cổ sinh vật dưới dạng
hố thạch, trong đó có các ngành động thực vật đã bị biến mất trên trái đất.
Đó là những trang sử đá ghi lại những biến cố vĩ đại của q trình địa chất và
tiến hố của sự sống. Lịch sử địa chất lâu dài của Vịnh Hạ Long được biết ít
nhất trên 500 triệu năm với những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác nhau, với
nhiều lần tạo sơn – biến thối, sụt chìm - biển tiến. Khu vực Vịnh Hạ Long đã
từng là biển sâu váo các kỷ Odovic – Silua ( khoảng 500 – 410 triệu năm
trước), là biển nông vào các kỷ Carbon – Pecmi (khoảng 340 – 250 triệu năm
trước), biển ven bờ vào cuối kỷ Paleogen - đầu kỷ Neogen (khoảng 26- 20
triệu năm trước) và trải qua một số lần biển tiến trong kỷ Nhân Sinh (khoảng
2 triệu năm qua).
Xen kẽ với các thời kỳ biển tồn tại là các thời kỳ lục địa. Vịnh Hạ Long
đã trải qua những thời kỳ cổ địa lý rất đặc biệt. Kỷ Carbon (khoảng 340 – 285
triệu năm trước) là thời gian nóng ẩm của trái đất, phát triển môi trường đầm
lầy thực vật thuận lợi cho hình thành các bể than khổng lồ ở Châu Âu thì ở
Vịnh Hạ Long lại là vùng biển nơng, khí hậu khơ nóng để hình thành nên tầng
đá vôi dày. Trái lại, vào kỷ Trias (khoảng 240- 195 triệu năm trước) khi trái
đất nói chung, Châu Âu nói riêng có khí hậu khơ nóng thì khu vực Vịnh Hạ
Long là những đầm lầy ẩm ướt với những cánh rừng tuế, dương xỉ khổng lồ
tích tụ nhiều thế hệ.
Vịnh Hạ Long ngày nay mới chỉ được hoàn tồn định hình trong 7-8
nghìn năm qua. Nhưng để có Vịnh, đã phải có một biến cố tích tụ tầng đá vơi

dày trên nghìn mét trong khoảng 340 – 240 triệu năm trước, một thời kỳ xâm
thực Karst kéo dài trên 20 triệu năm trong môi trường lục địa kỷ Neogen và
Nhân Sinh, và phải có một biển tiến liên quan tới các chu kỳ trái đất ấm lên
làm băng tan trong hơn một vạn năm qua.
6


Do vậy, Vịnh Hạ Long còn lưu lại nhiều giá trị quý giá cho khoa học
địa chất Kỷ Nhân Sinh và địa chất biển. Các bậc thềm biển nâng cao, các bề
dày đồng bằng phân bậc nằm chìm dưới đáy Vịnh, các dịng sơng cổ ngập
chìm, hang động, trầm tích hang động, các ngấn biển cổ và bệ hàu hà nằm
cao trên vách đá là kho tư liệu quý giá nghiên cứu biến động mực nước biển
cổ và hiện đại, cũng như ảnh hưởng của nó tới con người từ các nền văn hoá
khảo cổ xa xưa như Soi Nhụ, Tiền Hạ Long, Hạ Long và rồi cho đến ngày
nay. Vịnh Hạ Long là mẫu hình tiêu biểu về một vịnh biển tạo nên không
phải từ các mũi nhô, mà từ hệ thống đảo chắn. Đó là vịnh thuỷ triều, nhật
triều đều có biên độ lớn điển hình nhất thế giới, một kiểu bờ ăn mịn hố học
tiêu biểu và đặc sắc.
Vịnh Hạ Long cịn là mẫu hình tuyệt vời về cấu trúc địa chất Karst
trưởng thành trong điều kiện nhiệt đới ẩm, trải qua trên 20 triệu năm nhờ sự
kết hợp đồng thời giữa các yếu tố như tầng đá vơi rất dày, khí hậu nóng ẩm và
q trình nâng kiến tạo chậm chạp trên tổng thể.
Vì nó mang trong mình những giá trị địa chất địa mạo quý giá như vậy
cho nên Vịnh Hạ Long đã được ghi vào danh mục Di sản Thiên nhiên Thế
giới hai lần về giá trị thẩm mỹ cũng như về địa chất địa mạo.
1.2. Xuất xứ tên gọi
Tên Hạ Long có nghĩa là “ Rồng xuống”. Từ trước thế kỷ 19, tên Vịnh
Hạ Long chưa được ghi chép trong những tư tịch cổ nước ta, mà vùng biển
này được biết đến với những tên: An Bang, Lục Thuỷ, Vân Đồn… . Cuối thế
kỷ 19 tên Vịnh Hạ Long mới xuất hiện trên các bản đồ hang hải của Pháp.

Trên tờ “tin tức Hải Phòng” xuất bản bằng tiếng Pháp đã đưa tin: “Rồng xuất
hiện trên Vịnh Hạ Long”.
Theo huyền thoại xưa, tên gọi Hạ Long gắn liền với câu chuyện về đàn
Rồng xuống giúp dân Việt đánh giặc ngoại xâm. Chuyện kể rằng: “ Ngày xưa
khi người Việt mới dựng nước, nhân dân đang sống yên ổn thì bị giặc ngoại
7


bang xâm lấn bờ cõi nước ta. Trước thế mạnh, trời sai Rồng mẹ mang theo
một đàn Rồng con xuống giúp người Việt đánh giặc. Khi thuyền giặc từ biển
cả ào ạt tấn cơng vào bờ thì đàn Rồng cũng lập tức hạ giới phun ra vô số châu
ngọc, những châu ngọc ấy thoắt biến thành muôn ngàn đảo đá sừng sững liên
kết lại như bức tường thành vững chãi. Thuyền giặc đang lao nhanh bất ngờ
bị chặn lại liền đâm vào các đáo đá, sô vào nhau vỡ tan tành. Sau khi giăc tan,
thấy cảnh hạ giới thanh bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây lại cần cù
chịu khó, đồn kết giúp đỡ lẫn nhau. Rơng mẹ và rồng con không trở về trời
mà ở lại hạ giới, chỗ Rồng mẹ xuống là Hạ Long, nơi Rồng con xuống chầu
bên Rồng mẹ là Bái Tử Long. Đuôi của đàn Rồng quẫy lên trắng xoá là Long
Vỹ (tức bán đảo Trà Cổ ngày nay)”. Và từ đó cái tên Vịnh Hạ Long được đặt
cho nơi đây.
1.3. Hạ Long 2 lần được ghi vào danh sách di sản thế giới
Năm 1962 Vịnh Hạ Long được Bộ Văn Hố Thơng Tin xếp hạng Di
tích danh thắng cấp Quốc gia với diện tích 1553km² với 1969 hịn đảo, khu
trung tâm Vịnh Hạ Long với diện tích 434km² và 775 hịn đảo có giá trị ngoại
hạng về cảnh quan và địa chất, địa mạo được tổ chức giáo dục khoa học và
văn hố Liên Hợp Quốc ( UNESCO) hai lần cơng nhận là Di sản Thiên nhiên
Thế giới ( năm 1994 và năm 2000).
Khu Di sản Thiên nhiên Thế giới được UNESCO cơng nhận có giới
hạn bởi 3 điểm: Đảo Đầu Gỗ, Hồ Ba Hầm và Đảo Cống Tây.
● Lần thứ nhất:

Ngày 21/12/1994 Chính phủ Việt Nam đã cho phép xây dựng hồ sơ về
Vịnh Hạ Long để trình Hội đồng Di sản thế giới xét duyệt. Năm 1993, hồ sơ
khoa học về Vịnh Hạ Long được hoàn tất và chuyển đến UNESCO để xem
xét. Trong q trình hồn chỉnh hồ sơ Vịnh Hạ Long, Unesco lần lượt cử các
đoàn chuyên gia đến Quảng Ninh để khảo sát, hướng dẫn, nghiên cứu, thẩm
định hồ sơ tại chỗ. Hồ sơ Vịnh Hạ Long được chấp nhận đưa vào xem xét tại
hội nghị lần thứ 18 của Hội đồng di sản thế giới.
8


Ngày 17/12/1994 trong kỳ họp 18 tại Phu Kẹt – Thái Lan, uỷ ban Di
sản thế giới đã công nhận Vịnh Hạ Long vào danh mục Di sản Thiên nhiên
Thế giới với giá trị ngoại hạng về mặt thẩm mỹ theo tiêu chuẩn thứ 3 của
công ước quốc tế về di sản tự nhiên và văn hoá của thế giới.


Lần thứ hai:

Ngày2/12/2000 tại hội nghị lần thứ 24 của hội đồng Di sản thế giới tại
thành phố Caims Bang Queesland, Australia, Hội đồng Di sản thế giới đã
công nhận Vịnh Hạ Long là di sản thế giới lần hai theo tiêu chuẩn về giá trị
địa chất, địa mạo của công ước quốc tế về bảo vệ di sản văn hoá và thiên
nhiên thế giới.
1.4. Tài nguyên du lịch tự nhiên trên Vịnh Hạ Long
1.4.1. Vị trí địa lý
Vịnh Hạ Long là vùng biển đảo nằm ở phía đơng bắc Việt Nam, thuộc
địa phận Quảng Ninh có toạ độ từ 106°56’ đến 107°37’ kinh độ đông và
20°43’ đến 21°09’ vĩ độ bắc. Phía Tây và Tây Bắc Vịnh Hạ Long kéo dài từ
huyện Yên Hưng qua thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả đến hết phần biển
đảo huyện Vân Đồn; phía Đơng Nam và phía Nam giáp Vịnh Bắc Bộ, phía

Tây Nam và Tây giáp đảo Cát Bà ( TP Hải Phịng), phía Bắc giáp Trung
Quốc, phía Đơng tiếp giáp với Biển Đơng.
Vịnh Hạ Long là một phần rìa của đại lục Châu Á bị chìm xuống biển
nơi sâu nhất khơng q 200m, với diện tích 1500 km², có 1600 đảo lớn nhỏ,
trong đó có gần 1000 đảo có tên.
1.4.2. Địa hình
Địa hình Hạ Long với hệ thống hang động là một kiểu đặc sắc của địa
hình Karst với những đảo núi xen kẽ giữa các trũng biển, là vùng bằng cát
mặn có sú vẹt mọc và những đảo đá vơi vách đứng. Chúng ta có thể hồn tồn
tìm thấy ở Hạ Long những dạng địa hình rất độc đáo và có vai trị lớn đó là:

9


Dạng địa hình đá vơi: được hình thành cách đây 250 đến 280 triệu năm,
qua quá trình vận động tạo sơn của vỏ trái đất là phần rìa của đại lục Châu Á
chìm xuống mặt Vịnh rộng khoảng 1500km², có hàng ngàn đảo đá và hang
động kỳ diệu. Một phần diện tích đáng kể của đảo là núi, các đảo nhỏ ngồi
khơi có ngọn cao tới 150m đến 200m,chủ yếu các đảo cấu tạo bằng đá phiến
tựa những chiếc mộc bản chạy song song với các rặng núi trong đất liền. Du
ngoạn trên Vịnh Hạ Long là điều lý thú bởi hệ thống các đảo và quần đảo một
phần được cấu tạo bằng đá phiến và một phần mang đặc trưng của một miền
núi đá vôi cổ vốn phát sinh trên đất liền sau bị nước biển dâng lên làm ngập
chìm. Hệ thống các hang động đá vơi cũng có tuổi cacbonpecmi thiên hình
vạn trạng do thiên nhiên tạo ra như: Hang Sửng Sốt, Hang Đầu Gỗ, Hang Bồ
Nâu, Hang Trinh Nữ… nằm ở độ cao khác nhau và đã làm chứng cho thời kỳ
xa xưa về sự xâm thực của nước biển.
Địa hình bờ bãi biển: Đặc trưng địa hình là sườn thoải, cát trắng, nước
biển trong xanh. Trong đó có những biển đẹp đã được đưa vào khai thác phục
vụ cho hoạt động du lịch như: Bãi Cháy. Ti Tốp, Quan Lạn, Ba Trái Đào…

với nhiệt độ trung bình 25°c rất lý tưởng.
1.4.3. Khí hậu
Khí hậu của Hạ Long nói riêng và Quảng Ninh nói chung có khí hậu
tiêu biểu của các tỉnh miền Bắc Việt Nam, mang tính chất nhiệt đới ẩm. Một
năm có bốn mùa: xn, hạ, thu, đơng. Đây là vùng biển nhiệt đới gió mùa.
Mùa hạ nóng ẩm mưa nhiều gió thình hành là gió nam. Mùa đơng lạnh, khơ
hanh và ít mưa, gió thịnh hành là gió đơng bắc. Nhiệt độ trung bình từ 1525oc, độ ẩm trung bình hàng năm là 84%, lượng mưa hàng năm lên tới 20002200mm/năm, số ngày mưa trung bình là 90 – 170 ngày. Vịnh Hạ Long có
chế độ nhật triều thuần nhất điển hình (biên độ triều từ 3,5 – 4,0m. Độ mặn
của nước biển từ 31-34,5MT, mùa mưa thấp hơn.

1
0


Nhiệt độ trung bình ở Hạ Long thay đổi như sau:
Tháng

3-4

5-8

9 -10

11 - 12

Nhiệt độ TB

14 – 22o

25 – 30o


20 – 25o

12 – 19o

Vịnh Hạ Long được che chắn bởi ba phía cùng với địa hình đáy biển
tương đối bằng phẳng nên đây là vùng vịnh khá tĩnh, tần xuất lặn sóng chiếm
khoảng 80 – 84%. Nhìn chung khí hậu Hạ Long khá thuận lợi cho hoạt động
du lịch đặc biệt từ tháng 4 đến tháng 11, đây là thời kỳ gió mùa nồm nam rất
thuận lợi cho loại hình du lịch biển.
1.4.4. Thủy văn
Trong khu vực của Vịnh Hạ Long, lượng nước song với phù sa đổ vào
biển hầu như khơng vó nên nước biển thường trong, có độ mặn cao, đáy cát
mịn. Có thể nói hiếm có nơi nào mặt nước lại trong xanh và đẹp tĩnh lặng như
Hạ Long.
Thuỷ triều Hạ Long có chế độ nhật triều đối với biên độ lớn từ 4 – 4,5m
là hiện tượng hiếm thấy trên thế giới, tạo ra những thay đổi lớn trong ngày về
diện mạo và cảnh quan bờ, đảo. Việc lợi dụng con nước triều có thể đưa khách
đi thăm những nơi đẹp, huyền bí của Vịnh. Việc nắm vững quy luật thủy triều
có thể tạo ra những cơ hội cho hoạt động du lịch biển như: du thuyền, lướt ván,
lặn biển, tham quan đánh bắt cá của làng chài và vãn cảnh biển.
1.4.5. Tài nguyên động - thực vật
Khu vực Vịnh Hạ Long chịu ảnh hưởng chung của cả chế độ khí hậu
lục địa Đơng bắc Việt Nam, và chế độ khí hậu biển Bắc Bộ ảnh hưởng của
yếu tố địa chất, địa hình, thủy văn, đã cấu tạo hệ sinh thái đa dạng và hấp dẫn
của vùng.
Hạ Long tập trung hầu hết các hệ sinh thái của vùng biển nhiệt đới như:
Hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái cỏ biển, hệ
1
1



sinh thái rừng thường xanh nhiệt đới… Ngoài ra Vịnh Hạ Long cịn có hệ
sinh thái tùng áng đặc thu khơng nơi nào có được. Trong vùng biển Hạ Long
san hô mọc rải rác ở nhiều nơi nhưng tập trung chủ yếu ở phía Đơng và Nam
xa bờ lục địa, san hơ ở Vịnh Hạ Long có khoảng 170 lồi thuộc 44 chi 12 họ.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn của Hạ Long rất phong phú với các cây tiêu biểu
như quần xã của vẹt, dù, sú, mắm ,quăn… Đây cũng là nơi cư trú của vơ số
lồi động vật như chi di cư, bán di cư ( 37 loài), động vật đáy có 81 li, cá 90
lồi thuộc 55 họ. Ngồi ra Vịnh Hạ Long cịn có hệ sinh thái tùng áng đặc thù.
Hệ sinh thái rừng thường xanh nhiệt đới:
Chủ yếu ở khu lục địa ven biển và các đảo ven bờ gồm các đảo núi đá
lục nguyên (Đảo Tuần Châu, Hòn Kều, Hòn Gạc…) và các đảo đá với tính đa
dạng sinh học cao. Tổng số 1224 lồi thực vật, trong đó có 27 lồi q hiếm:
Chị đãi, Kim giao, Lát khói, Lát hoa, Dẻ hương… Đặc biệt các nhà nghiên
cứu của văn phòng tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới ( IUCN) tại Hà Nội đã
phát hiện ra 7 lồi đặc hữu, chỉ có ở Vịnh Hạ Long là: Thiên Tuế Hạ Long,
Khổ Cử Đại Tím, Cọ Hạ Long, Móng Tai Hạ Long, Ngũ Gia Bì Hạ Long, Hài
Vệ Nữ Hoa Vàng.
Theo thống kê hệ sinh thái Rừng thường xanh nhiệt đới ở Hạ Long và
Bái Tử Long có khoảng: 447 lồi mộc lan, 12 loài dương xỉ, 20 loài thực vật
ngập mặn. Hệ động vật thống kê được: 4 loài lưỡng cư, 10 loài bị sát, 40 lồi
chim và 14 lồi thú.
Hệ sinh thái biển – san hơ:
Theo thống kê có khoảng 20 lồi thực vật ngập mặn, đây là môi trường
sống cho 169 loài giun nhiều tơ, 91 loài rong biển, 400 loài cá, 200 lồi chim,
10 lồi bị sát và 6 lồi khác. Hệ sinh thái san hô là đặc thù của vùng nhiệt
đới. Trong vùng biển Hạ Long san hô mọc rải rác ở nhiều nơi tập trung chủ
yếu ở phía đơng và phía nam xa bờ lục địa, san hơ ở Vịnh Hạ Long có khoảng
170 lồi thuộc chi 12 họ, các rạn san hơ ở đây thường có kiểu riềm bờ. Các


1
2


rạn san hơ trong vùng kín cũng phát triển nhiều ở Vịnh Hạ Long, Bái Tử
Long. Hạ Long cũng là nơi sinh cư của nhiều loại chân bùng, loài hai mai vỏ,
loài gin nhiều tơ, cua và cỏ biển. Là nơi cư trú của nhiều lồi có tác dụng chắn
song, tham gia hấp thụ nhiều chất hữu cơ, làm sạch nước biển.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn của Hạ Long rất phong phú với các cây tiêu biểu
như: Quần Xã Vẹt, Dù, Sú, Mắm, Quăn… Đây là nơi cư trú của vơ số lồi
động vật như: Chi di cư, Bán di cư ( 37 loài), động vật đáy 81 loài, cá 90 loài
thuộc 55 họ.
1.5. Tài nguyên du lịch nhân văn trên Vịnh Hạ Long
1.5.1. Các di tích khảo cổ
Vịnh Hạ Long mang trong mình một kho tàng địa chất khổng lồ, với
những giá trị nhất định về lịch sử địa chất, địa mạo được trải qua trên 500
triệu năm, với những hoàn cảnh cổ địa lý khác nhau, nhiều lần tạo sơn, biển
thối, sụt chìm, biển tiến. Vịnh Hạ Long cịn giữ lại được dấu ấn của q trình
sơn tạo địa mãng vĩ đại của trái đất, có cấu tạo địa luỹ, địa hào cổ.
Xưa kia Vịnh Hạ Long là một trong những nơi cư trú của người Việt
cổ, từ đó đến nay đã trải qua 3 nền văn hoá kế tiếp: Văn hoá Soi Nhụ, Cái Bèo
và Hạ Long.
- Văn hoá Soi Nhụ ( cách ngày nay 18000 – 7000 năm): phân bố chủ
yếu ở khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, các di tịch tiêu biểu là: Mê
Cung, Tiên Ông, Thiên Long… các di vật còn lại chủ yếu là ốc mui, ốc suối
và một số công cụ lao động thô sơ của người Việt cổ. Ở nền văn hoa snày
phương thức sống của người dân Soi Nhụ là “ bắt sò ốc, hái lượm, đào củ,rễ
cây”. Họ cũng biết bắt cá để cải thiện bữa ăn, nhưng chủ yếu cấu tầng văn hoá
vẫn là ốc núi, ốc suối. Cư dân Soi Nhụ so với dân cư ở Hồ Bình và Bắc Sơn

thời đó thì họ có cuộc sống gần gũi với biển hơn được tiếp xúc nhiều và chịu
chi phối của biển.
- Văn hoá Cái Bèo ( cách ngày nay 7000 – 5000 năm): Nối giữa văn
hoá Soi Nhụ và văn hoá Hạ Long, di chỉ Cái Bèo thuộc đảo Cát Bà ( Hải
1
3


Phịng). Ở khu vực Vịnh Hạ Long có những di chỉ thuộc văn hoá này như
Giáp Khẩu và Hà Gián… Di chỉ Cái Bèo là một trong những yếu tố khẳng
định tổ tiên của người Việt cổ từ rất sớm đã làm bạn cùng chung sống với
biển khơi đã phát triển một nền văn hoá rực rỡ, là điểm hội tụ của nhiều sắc
tố, dịng văn hố truyền thống lâu đời trong khu vực và Đơng Nam Á ( dịng
văn hoá Cuội).
- Văn hoá Hạ Long ( cách ngày nay 4500 – 3500 năm) được chia thành
2 giai đoạn là Giai đoạn Sớm và Giai đoạn Muộn.
+ Giai đoạn Sớm: là kết quả của đợt biển tiến Holocen Trung vào
khoảng 6000 – 5000 năm trước. Đợt biển tiến này đã làm mất đi mơi trường
sống của cư dân văn hố Cái Bèo, cho nên 1 bộ phận thuộc văn hoá Cái Bèo
đã chuyển dần phía đơng bắc rồi định cư tại vùng ven biển Hải Ninh ( thị xã
Móng Cái ngày nay), tạo nên loại hình sớm Thoi Giếng của văn hoá Vịnh Hạ
Long. Địa bàn cư trú của họ thuộc các di chỉ Thoi Giếng, Gị Bà Mừng, xóm
Chùa, thơn Nam thuộc xã Vạn Minh ( Móng Cái). Phương thức sống của họ
là săn bắn và hái lượm. Người Thoi Giếng đã sớm phát triển nghệ thuật chế
tác công cụ lao động, và đồ gốm bắt đầu phát triển với sự trợ giúp của kỹ
thuật bàn xoay.
+ Giai đoạn Muộn: là kết quả của mực nước biển dâng cực đại rồi
sau đó rút dần ( khoảng 4000 – 3000 năm trước). Đặc trưng cơ bản của
nền văn hoá này là bộ phận người Hạ Long di cư vào khu vực đồng bằng,
trung du miền núi Bắc Bộ, họ cư trú ở một số hang động, chân núi ven

biển, nhưng chủ yếu học cư trú trên các dải cát, các bậc thềm và mặt đồng
bằng cổ cạnh biển. Cho thấy rằng địa bàn cư trú của dân cư Hạ Long
trong giai đoạn Muộn cực kỳ phong phú nhờ gần biển, họ tạo ra những
công cụ đá độc đáo mang đặc trưng văn hoá Hạ Long. Thời kỳ này khu
vực Hạ Long bắt đầu xuất hiện trung tâm giao lưu văn hố và trao đổi
hàng háo Đơng Bắc Á, là bàn đạp cho sự tích tụ tinh hoa thế giới và phát
triển văn hoá chung của khu vực Quảng Ninh.
1.5.2. Các di tích lịch sử văn hố và kiến trúc nghệ thuật

1
4


Với sự tồn tại và phát triển của văn hoá truyền thống ( văn hố phi vật
thể) Hạ Long cịn có các di tích lịch sử văn hố ghi dấu thời kỳ lịch sử dân tộc
hào hùng như: thương cảng Vân Đồn tồn tại dưới thời Lý Anh Tông thế kỷ
12, là thương cảng sầm uất đầu tiên của Việt Nam, với các hoạt động trao đổi,
buôn bán, giao lưu văn hoá suốt một thời gian từ thời Lý, Trần đến thời Lê.
Nhóm di tích cách mạng ở Quảng Ninh, nhiều vùng đất đã nổi danh
trong cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc như thơn Bắc Mã, xã Bình
Dương, huyện Đông Triều, nơi thành lập đội quân cách mạng khu Trần Hưng
Đạo. Ngày 8/6/1945 mỏ than Mạo Khê nơi thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên
của vùng mỏ…Nhất là khi nói đến Quảng Ninh ai cũng nhớ đến núi Bài Thơ,
với ngọn cờ đổ sao vàng là tượng trưng cho khí phách đấu tranh cách mạng
quật cường của nhân dân đất Cảng.
Nhóm di tích lịch sử văn hố: có sức hấp dẫn lớn đối với du khách tiêu
biểu là quần thể danh thắng Yên Tử ( một thời là thủ đơ tâm linh của Đại
Việt) đền Cửa Ơng toạ lạc trên ngọn núi nhìn ra vịnh Bái Tử Long thuộc
phường Cửa Ông ( thị xã Cẩm Phả). Đền được xây dựng vào thế kỷ 19 thờ
Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng – con trai thứ 3 của Trần Hưng Đạo.

Bãi cọc Bạch Đằng ( Hạ Long) là nơi ghi dấu 3 trận thắng trên sông
Bạch Đằng của quân và dân ta dưới sự chỉ huy của 3 vị anh hùng: Ngơ Quyền
(938), Lê Hồn (981), Trần Hưng Đạo (1288) và ghi dấu chiến công oanh liệt
của nhân dân Quảng Ninh qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
Đình Quan Lạn nằm trên đảo Quan Lạn của quần đảo Vàm Thư ( Cẩm
Phả). Đình dược xây dựng từ thời Hậu Lê ( khoảng thế kỷ 17) thờ thành Hồng
làng và các vị tiên cơng đã có cơng lập ra xã Quan Lạn thờ Trần Khánh Dư,
người có cơng lớn trong trận đánh đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ ở Vân
Đồn, Cửa Lục góp phần quan trọng trong đại thắng Bạch Đằng 1288.
Ngồi ra cịn một số di tích có giá trị văn hố như Miếu Tiên Cơng và
chùa Bắc Mã, trong đó nổi lên đặc sắc nhất là khu di sản văn hoá thiên nhiên

1
5


thế giới - Vịnh Hạ Long với hàng ngàn đảo lớn, nhỏ hàng chục hang động
trong đó có nhiều hang chưa dấu vết văn hoá cổ, đặc sắc nhất là khu di tích
danh thắng núi Bài Thơ với bài thơ bất hủ của Lê Thánh Tông 1468 khắc trên
vách núi đá.
Với những giá trị về văn hố có được của Vịnh Hạ Long càng mang
cho mình sức mạnh để thu hút du khách thập phương.
1.5.3. Nghề thủ công truyền thống.
Quảng Ninh vón có những nghề thủ cơng truyền thống khá nổi tiếng
như dệt thảm Hàng Kênh, thuỷ tinh Kiến An, gốm Đơng Triều.
Ngồi ra, trong các nhóm đồng bào dân tộc thiểu số ở Hạ Long (Quảng
Ninh) cịn có các nghề dệt thổ cảm, đan mây tre. Những nghề này nếy khéo tổ
chức, khái thác có thể có ý nghĩa phục vụ du lịch rất lớn, cung cấp nhiều sản
phẩm lưu niệm cho du khách.
1.5.4. Các lễ hội văn hoá lịch sử

Là vùng đất có lịch sử lâu đời, một nền văn hố truyền thống phong
phú vẫn cịn đầy sức sống. Quảng Ninh là nơi mà người dân thập phương đổ
về tham dự những lễ hội thường kỳ diễn ra hàng năm ở các địa phương.
Trong những năm gần đây đời sống của nhân dân được nâng cao rõ rệt, kéo
theo các lễ hội truyền thống được quảng đại nhân dân quần chúng tham gia,
đóng góp, khơi phục và phát triển.
Quảng Ninh lại là vùng đất đa dạng về địa hình về dân tộc và cả về
kinh tế sản xuất cho nên lễ hội ở đây cũng mang tính chất phong phú, đa dạng
từ các lễ hội phật giáo, lễ hội tín ngưỡng dân gian đến lễ hội địa phương đến
lễ hội địa phương và các lễ hội du lịch, phản ánh truyền thống của các cư dân
lúa nước đồng bằng, các cư dân ven biển và hải đảo, các dân tộc thiểu số và
cộng đồng dân cư đô thị. Một số lễ hội được diễn ra ở Quảng Ninh như lễ hội
dân gian Hội ĨPị ( của dân tộc sán chỉ ở huyện Bình Liêu), hội hát Giao, hội
chèo cạn, hát đối đáp của các dân tộc thiểu số mỗi dịp xuân về, đặc sắc là tục
hát cưới ở Hoảnh Bồ.
Bên cạnh những lễ hội dân gian tiêu biểu vẫn tồn tại một số lễ hội vừa
mang tính chất du xuân vừa mang tính tín ngưỡng như hội chùa Yên Tử, hội
1
6


đền Cửa Ơng, hội Tiên Cơng, hội chùa Quỳnh Lâm. Trong các lễ hội lịch sử
phải kể đến lễ hội làng Quan Lạn, là nơi thờ phó tương Trần Khánh Dư, vị
tướng hải quân kiệt xuất thời Trần.
1.5.5. Dân cư và dân tộc
Trong khu vực di sản thế giới Vịnh Hạ Long hiện nay có một bộ phận
dân cư sinh sống, chủ yếu tập trung ở làng chài: Cửa Vạn, Ba Hang, Cống
Tàu, Vông Vênh với số khẩu trên 1600 người trực thuộc phường Hung Thắng
( TP Hạ Long). Họ sống trên các nhà bè, thuyền chủ yếu bằng nghề đánh bắt
và nuôi trồng hải sản.

Trong khu vực ven bờ ở Hạ Long là nơi cư trú sinh sống của một bộ
phận cư dân TP Hạ Long, Thị xã Cẩm Phả, Huyện đảo Vân Đồn và huyện đảo
Cát Bà ( Hải Phòng).
Ẩn chứa bên trong cuộc sống náo nhiệt của một thành phố công nghiệp
trẻ là cả kho tàng các giá trị văn hóa quý giá, đặc sắc phản ánh đậm nét sự tồn
tại và phát triển không ngừng của vùng đất Hạ Long và của dân tộc ta từ thời
tiền sử đến nay. Loại Hình văn hóa phi vật thể đặc trưng của vùng biển Hạ
Long là hát giao duyên của người dân chài lưới. Họ không chỉ hát trên bờ khi
hội hè tết lễ, khi thuyền về đổ bến, mà hát khi cả đang chèo thuyền hoặc lúc
neo thuyền đợi quăng lưới, thả câu, hát vào tuần trăng mỗi khi cá ăn tản.
Ngày nay trên Vịnh Hạ Long là nơi sinh sống của trên 21 đân tộc anh
em, mỗi dân tộc với mỗi phong tục tập quán riêng góp phần xây đắp nét đặc
sắc văn hóa của vùng Hạ Long.
1.6. Các tài nguyên du lịch nổi bật nhất của Vịnh Hạ Long
Khu Di sản Thiên nhiên Thế giới Vịnh Hạ Long với những thuận lợi
hiếm có về tài nguyên thiên nhiên và văn hoá để phát triển các hoạt động du
lịch, được ưu tiên đầu tư về cơ sở hạ tầng, có sở vật chất, các lợi thế và tiềm
năng đang được khai thác và phát huy đúng hướng đã góp phần quan trọng
vào mức tăng trưởng kinh tế của thành phố Hạ Long và tỉnh Quảng Ninh.
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hạ Long, du lịch đã
1
7


được xây dựng là ngành kinh tế mũi nhọn, là động lực để thúc đẩy các lĩnh
vực kinh tế khác
1.6.1. Hệ thống đảo đá tiêu biểu trên Vịnh Hạ Long
● Núi Bài Thơ
Núi Bài Thơ là ngọn núi đá vôi đẹp thuộc tỉnh
Quảng Ninh. Trên núi này còn lưu lại các bài thơ chữ Hán của Lê Thánh

Tông khắc trên đá năm 1468, và của Trịnh Cương năm 1729. Các bài thơ này
đã đem lại tên gọi cho núi.
Một ngọn núi đá vôi cao 106m nằm ở trung tâm thành phố Hạ Long, kề
ngay bên vịnh Hạ Long, nhìn xa trơng như một tồ lâu đài khổng lồ với ba
ngọn tháp nhấp nhô trên những bức tường thành kiên cố. Đó là núi Bài Thơ.
Nằm ở trung tâm thành phố Hạ Long, có độ cao 200m, núi Bài Thơ là
một di tích có giá trị văn hố lịch sử quan trọng. Trước kia núi có tên gọi là
núi Truyền Đăng. Đến tháng 2 năm 1468, nhân một dịp đi kinh lý vùng Đông
Bắc, cảm hứng trước cảnh đẹp thần tiên của Vịnh Hạ Long vua Lê Thánh
Tông đã làm một bài thơ và cho khắc vào vách núi phía Nam. Từ đó núi có
tên là núi Đề Thơ, sau được gọi là núi Bài Thơ. 261 năm sau (năm 1729),
nhân dịp duyệt thủy quân trên Biển Đông, chúa Trịnh Cương đã là một bài
thơ họa lại bài thơ của vua Lê Thánh Tông và cho khắc ngay gần đấy.
Núi Bài Thơ có nhiều vách đá dựng đứng, nhiều hang và các hườm đá.
Các hang trong núi được gọi từ hang số 1 đến hang số 6, mỗi hang có độ rộng
dài khác nhau. Hang số 1 có trần cao và rộng, nền hang bằng phẳng, hang số
2 dài và hẹp, hang số 3 có hai ngăn, ngăn ngồi rộng, ngăn trong dài và hẹp,
hang số 6 là một căn cứ địa của tự vệ Hồng Gai thời chống Mỹ. Các hang ở
núi Bài Thơ đã được sử dụng như những nơi để tạm trú sản xuất, trạm y tế
trong thời gian chiến tranh chống Mỹ. Trên núi có nhiều lồi thực vật, trong
đó một số lồi có hoa và dáng đẹp như phong lan, si đá, thanh trúc. Đứng trên

1
8


núi Bài Thơ có thể nhìn thấy tồn cảnh thành phố Hạ Long và cả vùng biển
xanh biếc với chi chít những núi đá vơi.
Dưới chân núi Bài Thơ là chùa Long Tiên ở phía Bắc - ngơi chùa lớn
nhất và đẹp nhất của thành phố Hạ Long, đền thờ Đơng Hải Đại vương Trần

Quốc Nghiễn ở phía Tây (đền Đức Ơng). Những di tích này cùng với núi Bài
Thơ tạo nên một cụm di tích thiên nhiên, lịch sử văn hóa quan trọng và hấp
dẫn của thành phố và thắng cảnh Hạ Long. Núi Bài Thơ trở thành biểu tượng
của thành phố Hạ Long, niềm tự hào của người dân Hạ Long và Quảng Ninh.
 Đảo Ti Tôp
Đảo Ti Tốp trên Vịnh Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, cách Bãi Cháy chừng
14 km về phía đơng. Hịn đảo này được Bác Hồ đặt theo tên của nhà du hành
vũ trụ Giéc Man Ti Tốp người Nga, nhân dịp Bác cùng ông tới thăm vịnh Hạ
Long vào năm 1962.
Hòn Ti Tốp nằm cách hang Bồ Nâu chừng 1km về phía bắc, là hịn núi
có bờ dốc đứng, một bờ nghiêng với một bãi cát trắng, phẳng ngay dưới chân.
Các tàu du lịch thường ghé vào đây. Du khách lên bờ để tắm biển hoặc leo lên
một chiếc lầu ở lưng chừng và một chiếc khác ở trên đỉnh núi để ngắm cảnh
từ trên cao.
Bãi tắm Ti tốp có hình vầng trăng ôm trọn lấy chân đảo, bãi cát tuy nhỏ
nhưng rất thoáng đãng và yên tĩnh, bốn mùa nước sạch và trong xanh, đặc biệt
phong cảnh trời mây, non nước ở đây tuyệt đẹp.
Hiện nay tại bãi tắm này đã có một quầy bar, có dịch vụ cho thuê áo
tắm, phao bơi, tắm nước ngọt. Có dịch vụ cho th mơ tô nước, dù bay. Nước
ngọt được Ban Quản lý Vịnh cho vận chuyển từ đất liền ra. Bãi tắm này hiện
đang thu hút rất nhiều khách ra tắm biển và thăm đảo.

1
9


 Đảo Tuần Châu
Đảo Tuần Châu cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy 4km về phía tây nam,
thuộc vịnh Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Là một đảo đất rộng gần 3km2, gần bờ có làng mạc, dân cư thưa thớt.

Người ta cũng đã tìm được ở đây nhiều di chỉ khảo cổ thuộc nền văn hoá Hạ
Long. Năm 2001, một con đường lớn đã được xây, nối đảo với đất liền. Bắt
đầu từ đó, bộ mặt của Tuần Châu thay đổi theo từng ngày.
Hiện nay có một tổ hợp dịch vụ: vui chơi, biểu diễn hoành tráng vào
loại nhất miền Bắc, một quần thể khách sạn, nhà hàng, bãi tắm sang trọng đã
đưa vào phục vụ góp phần làm thay đổi bộ mặt của Hạ Long trong năm Du
lịch 2003.
Bãi tắm Tuần Châu tắm đẹp nằm ở khu du lịch đảo Tuần Châu cách
cảng tàu du lịch khoảng 8km, đây là một bãi tắm nhân tạo với thảm cát trải
dài 2km. Có khu vui chơi giải trí, thể thao, và nhiều hoạt động du lịch.
Tới khu du lịch đảo Tuần Châu, sau khi tắm biển du khách có thể vãn cảnh,
tham gia các hoạt động vui chơi giải trí, thể thao, như leo núi, cắm trại trên
khu du du lịch sinh thái đồi thông hoặc nghỉ ngơi trong các nhà nghỉ từ sang
trọng đến bình dân, xem biểu diễn của cá heo, sử tử biển, thăm công viên
nhac nước…
Bãi tắm Tuần Châu với thảm cát trải dài 2 km, sát bãi biển là khu biệt
thự 50 phòng nghỉ đạt tiêu chuẩn quốc tế 5 sao và trên 300 phòng nghỉ khác
đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Tại đảo Tuần Châu du khách có thể tham dự các hoạt động thể thao dưới
nước: mô tô trượt nước tốc độ cao; ca nô kéo dù, lướt ván; câu cá trên biển Hạ
Long; chèo thuyền; khinh khí cầu tham quan vịnh Hạ Long hoặc leo núi, cắm
trại...Các dịch vụ: biểu diễn cá heo, sư tử biển, hải cẩu, xiếc thú, võ thuật phục
vụ khách liên tục 3 suất/ngày trong tất cả các ngày trong tuần trừ thứ 2.

2
0




×