Tải bản đầy đủ (.docx) (131 trang)

bai tieu luan ttck doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.74 KB, 131 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức đi vào
hoạt
động nhưng, thiết nghĩ, đề tài “Các giải pháp thúc đẩy sự hình thành và phát triển
Thị
trường chứng khoán Việt Nam” vẫn mang tính thời sự bởi lẽ:
Một là, Thị trường chứng khoán Việt Nam không phải và không thể chỉ là Trung
tâm
giao dịch chứng khoán. Để hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán, cần
thiết
phải nghiên cứu để hình thành và phát triển nhiều bộ phận khác thị trường thứ nhất
(sở
giao dịch chứng khoán), thị trường thứ hai (thị trường OTC), cũng như các định
chế có
liên quan khác (hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, hiệp hội các nhà tư vấn,
các
Quỹ đầu tư).
Hai là, ý tưởng cơ bản để thiết lập trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành phố
Hồ
Chí Minh là thiết lập một sàn giao dịch thử nghiệm để tập dượt và tạo bước đệm
cho viêc
hình thành Sở giao dịch chính thức. Và, do vậy, cần phải tổng kết để đánh giá đúng
thực
trạng hoạt động của mô hình thử nghiệm nhằm đúc rút những kinh nghiệm cho
việc xây
dựng và phát triển một cơ Sở giao dịch chứng khoán chính thức, hiện đại trong
tương lai.
Ba là, do quá kỳ vọng vào vai trò của thị trường, chứng khoán, Trung tâm giao
dịch đã


khai trương trong bối cảnh các hạ tầng cơ sở cần thiết cho thị trường vẫn chưa
được
chuẩn bị đầy đủ. Hậu quả là, sau một năm hoạt động, Trung tâm giao dịch chứng
khoán
đang đối mặt với nhiều nguy cơ khủng khoảng: khủng hoảng lòng tin, khủng hoảng
thiếu
chứng khoán, nguy cơ biến Trung tâm thành một sòng bạc kiểu mới, nguy cơ thao
túng
thị trường bởi giao dịch tay trong (nội gián) Những nguy cơ này đã và đang là
những
mầm mống phát sinh những yếu tố bất ổn đe doạ đến tính công bằng, minh bạch
vào sự
tồn tại và phát triển bền vững trong tương lai của thị trường, để khắc phục các
nguy cơ
này, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần phải tiếp tục làm rõ nhằm tránh các rủi ro
khi
trang bị lại các hệ thống giao dịch, hệ thống thanh toán, lưu ký cho Sở giao dịch
cũng
như hoạch định một chiến lược phát triển bền vững tổng thể cho thị truờng chứng
khoán
Việt Nam trong tương lai.
Bốn là, theo kinh nghiệm của nhiều nước, ngay cả trong trường hợp thiết lập xong
Sở
giao dịch chứng khoán, từ khi thiết lập cho đến khi Sở giao dịch chính thức khẳng
định vị
thế trên thị trường tài chính cũng phải mất khoảng vài chục năm. Trong thời
khoảng ấy,
nhiều vấn đề phát sinh cần phải được nghiên cứu, xử lý để bảo đảm thị trường hoạt
động
ổn định và có hiệu quả.

2
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Lựa chọn chủ đề “Các giải pháp hình thành và phát triển thị trường chứng khoán

Việt Nam”, đề tài này đặt ra 3 nhiệm vụ:
Một, nghiên cứu một cách có hệ thống nền tảng của chứng khoán và thị trường
chứng
khoán, phân tích các rủi ro gắn liền với các loại chứng khoán, để làm cơ sở luận
giải một
cách khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình thành và phát triển thị
trường
chứng khoán tại Việt Nam.
Hai, đánh giá hiện trạng hạ tầng cơ sở của mô hình thử nghiệm (khung pháp lý, hệ
thống giao dịch, hệ thống thanh toán, hệ thống lưu ký) và phát triển thị trường
chứng
khoán Việt Nam.
Ba, nghiên cứu các giải pháp hình thành và phát triển các khu vực thị trường khác
cũng như chiến lược phát triển và hoàn thiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này, ngoài các phương pháp nghiên cứu truyền thống (duy vật
biện
chứng, duy vật lịch sử, diễn dịch, quy nạp), đề tài còn sử dụng các phương pháp
nghiên
cứu phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp mô hình hoá, phương pháp
kinh tế
lượng
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần phụ lục, đề tài được xây dựng theo kết
cấu
truyền thống 3 chương:

Chương 1. Tổng quan về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Chương 2. Thực trạng hình thành và phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chương 3. Các giải pháp thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường chứng
khoán
Việt Nam.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN
1.1. VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH, THỊ TRƯỜNG
TÀI
CHÍNH
1.1.1. Các dòng lưu chuyển trong nền kinh tế
Chức năng cơ bản của mọi nền kinh tế là sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn
lực
khan hiếm để sản xuất hàng hoá và dịch vụ mà xã hội cần. Kết hợp các yếu tố đầu
vào là
lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, thiết bị sản xuất, cơ sở hạ tầng và vốn để
tạo ra
các đầu ra là các sản phảm hàng hoá, dịch vụ hữu ích cho tiêu dùng hoặc cho quá
trình
sản xuất khác, nền kinh tế tạo ra hai dòng lưu chuyển đối ứng: lưu chuyển của
dòng sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ từ các đơn vị sản xuất - nơi sử dụng các yếu tố đầu vào -
đến
các đơn vị tiêu dùng - nơi tiêu thụ các đầu ra và lưu chuyển của dòng tiền thanh
toán từ
cỏc n v tiờu th ti cỏc n v sn xut. Trong hu ht cỏc nn kinh t ng
i,
chớnh cỏc n v tiờu th (ch yu l cỏc h gia ỡnh) l ngi cung cp cỏc dch

v sn
xut cho cỏc n v sn xut (ch yu l cỏc doanh nghip v chớnh ph) i ly
thu
nhp di hỡnh thc tin lng, tin cụng v cng chớnh cỏc n v sn xut s
dng
phn ln thu nhp mua sm hng hoỏ, dch v hoc úng thu cho chớnh ph.
Kt qu
ca vic trao i ny l hỡnh thnh hai dũng lu chuyn i ng khỏc: lu chuyn
ca
dũng dch v sn xut t cỏc n v tiờu th ti n v sn xut. Trong nn kinh t
tin
t, di s chi phi ca c ch th trng, cỏc dũng chu chuyn sn phm v thu
nhp
ny din ra liờn tc, khụng ngng v cú quan h tỏc ng qua li, ph thuc ln
nhau.
Hỡnh 1.1. Chu chuyn ca cỏc dũng thu nhp, thanh toỏn, sn phm, dch v.
Các đơn vi sản xuất
(Chủ yếu l các doanh
nghiệp v chinh phủ)
Các đơn vi sản xuất
(Chủ yếu l các
hộ gia đình)
D ò n g c h i p h i t i ê u t h ụ v t h u ế
Dòng sản phẩm hng hoá v d i ch vụ
Dòng d i ch vụ sản x uấ t
D ò n g t h u n h ậ p
4
1.1.2. Th trng v vai trũ ca th trng trong nn kinh t
Mi nm tr li õy, sau s sp ca Liờn xụ v ụng u, mt ln na, c ch
th

trng ó khng nh sc sng mónh lit ca nú trong mt th gii y ry nhng
bin
ng. Sau nhiu thp k ngi ca tớnh u vit ca nn kinh t ch huy vi c ch k
hoch
hoỏ tp trung, bc tranh kinh t nghốo nn, m m v khụng gỡ sỏng sa ó buc
Nga v
hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã từng tự hỏi “chúng ta là ai và
chúng ta
đang ở đâu” để rồi đoạn tuyệt với cơ chế quản lý cũ, thực hiện những bước chuyển
đổi
mạnh mẽ từ nền kinh tế chỉ huy sang một nền kinh tế thị trường. Trong khi vẫn
kiên trì
theo việc xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc, bằng
việc
mở cửa của thị trường chứng khoán Thượng Hải vào năm 1990 và thị trường
chứng
khoán Thẩm Quyến vào năm 1992, Trung Quốc cũng đã chính thức mở cửa để
thừa nhận
và kết hợp các yếu tố của nền kinh tế thị trường ngay trong lòng của nền kinh tế xã
hội
chủ nghĩa theo chủ nghĩa thực dụng của Đặng Tiểu Bình. Nhiều quốc gia đang phát
triển
khác như Thái lan, Hàn quốc cũng đang có sự gia tăng nhanh chóng về tổng sản
phẩm
và mức thu nhập bình quân đầu người bởi việc cải tổ mạnh mẽ nền kinh tế và thiết
lập
một thể chế phù hợp với kinh tế của thị trường, giảm thiểu vai trò của Chính phủ
trong
nền kinh tế. Khác hẳn với những nền kinh tế nói trên, Cuba, Bắc Triều Tiên là
những nền

kinh tế đang gặp phải nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân
chủ yếu
vẫn là chưa thừa nhận hoàn toàn kinh tế thị trường và mở cửa nền kinh tế. Vậy thì
thị
trường là gì và tại sao và bằng cách nào thị trường có sức mạnh như vậy?
Theo nghĩa gốc, thị trường chỉ một địa điểm cụ thể để người mua và người bán tập
hợp lại để trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Thế nhưng, ngày nay, cùng với sự phát
triển của
nền kinh tế hàng hoá, nội hàm của khái niệm thị trường đã được mở rộng hơn
nhiều.
Trong kinh tế học hiện đại, thị trường không chỉ là một địa điểm mua bán tập
trung mà
một cơ chế mà theo đó người mua và người bán tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng
hoá và
dịch vụ. Đó có thể một thị trường giao dịch không có địa điểm giao dịch cụ thể nào
hết vì
các giao dịch, trao đổi trên thị trường này được thực hiện thông qua điện thoại,
telex, máy
điện toán và các trang thiết bị khác. Mặc dù cơ chế thị trường hoạt động chưa thật
sự
hoàn hảo theo nguyên lý bàn tay vô hình của Adam Smith nhưng trong các nền
kinh tế
hiện đại, thị trường đã chứng minh những hiệu quả to lớn trong việc giải quyết ba
vấn đề
cơ bản của mọi nền kinh tế: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? và, Sản xuất
cho ai?
Một mặt, thông qua sự thay đổi của giá trị cả hàng hoá và dịch vụ trên thị trường,
thị
trường sẽ tự động xác định loại hàng hoá và dịch vụ gì cần được sản xuất mở rộng
và loại

hàng hoá nào sẽ bị thu hẹp. Mặt khác bằng sự điều tiết của động lực lợi ích (thị
phần, uy
tín, hình ảnh, thu nhập và bằng những lợi ích kinh tế khác), tính sẽ nhạy cảm đối
với nhu
cầu của người tiêu dùng, sự năng động trong việc lựa chọn loại công nghệ sản xuất

5
phương thức quản lý có hiệu quả sẽ được nhiều cá nhân, doanh nghiệp sử dụng và
khai
thác một cách triệt để nhằm sản xuất ngày một nhiều hơn các hàng hoá và dịch vụ
mà xã
hội cần. Lợi ích kinh tế ở đây có giá trị bằng muôn lời hiệu triệu, vạn lời động
viên, kêu
gọi có tính chung chung mà thông thường chỉ tỏ ra có hiệu quả trong các nền kinh
tế thời
chiến. Đó là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách mạnh mẽ.
1.1.3. Chức năng của hệ thống tài chính và thị trường tài chính
Tồn tại một quy luật trong cuộc sống và sinh hoạt đời thường là, giữa mức thu
nhập và
chi tiêu của các tác nhân kinh tế không phải bao giờ cũng có sự ăn khớp với nhau
cả về
mặt thời gian cũng như định lượng. Tại một thời điểm nào đó, khi một tác nhân
kinh tế có
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa cần sử dụng, tác nhân này sẽ có nhu cầu cho vay
các
tác nhân khác trong hệ thống tài chính. Trái lại, tại một thời điểm khác, khi nhu cầu
chi
tiêu và đầu tư vượt quá các nguồn thu nhập hiện tại, tác nhân kinh tế này sẽ trở
thành tác
nhân đi vay trên thị trường tài chính. Như vậy, trong một nền kinh tế tiền tệ, nhu

cầu trao
đổi, mua bán các nguồn vốn tiền tệ là nhu cầu thiết yếu. Và chính đó là lý do tồn
tại của
thị trường tài chính và hệ thống tài chính.
Hệ thống tài chính là tập hợp tất cả các loại thị trường tài chính, các định chế tài
chính, các luật lệ, quy tắc, các kỹ thuật để tạo lập, phân phối, định giá, mua bán,
trao đổi
các sản phẩm và dịch vụ tài chính giữa các tác nhân kinh tế (doanh nghiệp, hộ gia
đình,
chính phủ) trong nền kinh tế. Là một trong những phát minh quan trọng nhất của
xã hội
hiện đại, hệ thống tài chính có nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp các kênh dẫn vốn để
chuyển
tải các quỹ cho vay khan hiếm từ những người tiết kiệm - tác nhân cho vay - sang
những
người cần tiền - tác nhân đi vay - để đầu tư sản xuất hoặc mua sắm hàng hoá dịch
vụ.
Trong nền kinh tế hiện đại, tầm quan trọng của hệ thống tài chính thể hiện ở việc
thực
hiện các chức năng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hệ thống tài chính tạo ra những công cụ tài chính để chuyển dịch rủi ro
từ
những người tiết kiệm (hoặc người cho vay) - người không thích sự không chắc
chắn về
lợi tức hoặc các khoản thanh toán - sang mhững người tiết kiệm hoặc những nhà
đầu tư
sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Bằng việc cung cấp cho các nhà đầu tư nhiều loại tài sản
tài
chính để nắm giữ, thay vì chỉ nắm giữ một loại tài sản tài chính, nhà đầu tư thích
có sự ổn

định về số lợi tức thu được có thể phân bổ số của cải hiện có của mình trong tập
hợp các
tài sản tài chính khác nhau để phân tán rủi ro. Mặc dù kết quả đầu tư vào một tài
sản tài
chính này có thể là tốt và tài sản kia có thể là không tốt lắm nhưng tính chung,
thông
thường tổ hợp các tài sản (danh mục đầu tư) được chọn bao giờ cũng có mức lợi
tức
trung bình.
6
Thứ hai, cùng với việc tạo ra các tài sản tài chính, hệ thống tài chính cung cấp một
hệ
thống giao dịch để gia tăng tính lưu chuyển (liquidity) của các tài sản tài chính.
Theo
quan điểm của người có tiền nhàn rỗi, tính lưu chuyển của tài sản được xem là một
lợi
ích bởi vì không ai muốn vốn đầu tư của mình bị bất động vào một loại tài sản nhất
định.
Bằng cách tạo ra các tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tài khoản tiền giửi
không
kỳ hạn, thị trường tài chính cho phép nhà đầu tư nắm giữ các tài sản tài chính thích
ứng
nhanh nhạy với những cơ hội đầu tư mới hoặc những sự kiện bất trắc, không dự
đoán
trước hơn là những nhà đầu tư phân bố tài sản của mình vào bất động sản, nhà
máy, máy
móc thiết bị bởi vì, bán một tài sản tài chính để mua tài sản khác hoặc mua hàng
hoá bao
giờ cũng dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Thứ ba, hệ thống tài chính còn có chức năng khác là tập hợp thông tin và cung cấp

thông tin. Những thông tin mà hệ thống tài chính tập hợp và cung cấp là những
thông tin
hữu ích đối với người tiết kiệm lẫn người có nhu cầu vay mượn. Khi thực hiện
chức năng
tập hợp thông tin, hệ thống tài chính xác định các thông tin về những người có nhu
cầu
vay mượn trong tương lai và mục đích sử dụng nguồn ngân quỹ vay mượn này.
Những
thông tin này rất hữu ích đối với người có tiền nhàn rỗi để cân nhắc trước khi quyết
định
cho vay nhằm bảo vệ các khoản đầu tư của mình. Để có được những nguồn thông
tin này
những người muốn đầu tư riêng rẽ (cho vay) số tiền tiết kiệm của mình phải mất
chi phí
giao dịch (kể cả thời gian). Đôi khi thu nhập mang lại do cho vay trực tiếp có thể
không
đủ trang trải các phí giao dịch nay. Thông qua hệ thống tài chính chi phí giao dịch
sẽ
được giảm thiểu một cách đáng kể bởi vì quy mô giao dịch lớn sẽ cho phép có
được mức
tiết kiệm do khối lượng giao dịch lớn (economies of scale).
Dịch vụ thông tin thứ hai mà hệ thống tài chính cung cấp là cung cấp thông tin.
Bằng
cách chuyển tải các thông tin về tình trạng tài chính của các doanh nghiệp vào
trong giá
cả và mức sinh lời của các công cụ tài chính, thị trường tài chính cho phép người đi
vay
và người cho vay có đủ cơ sở để đưa ra các quyết định của mình.
1.1.4. Các loại thị trường tài chính trong hệ thống tài chính
Tồn tại nhiều thị trường tài chính trong hệ thống tài chính. Tương ứng với các tiêu

thức phân loại khác nhau, có nhiều loại thị trường tài chính khác nhau.
Theo bản chất của các công cụ tài chính, vốn lưu chuyển trên thị trường tài chính
thông qua thị trường các chứng khoán vay nợ và thị trường các chứng khoán
góp
vốn.
Theo kỳ hạn của các công cụ tài chính, vốn có thể lưu chuyển thông qua thị trường
tiền
tệ và thị trường vốn trong hệ thống tài chính. Theo quy ước, thị trường tiền tệ là
thị
7
trường giao dịch các công cụ tài chính có kỳ hạn dưới một năm và thị trường vốn
là thị
trường giao dịch các công cụ tài chính có kỳ hạn trên một năm.
Theo mức độ công khai của các giao dịch, vốn lưu chuyển thông qua thị trường
mở và
thị trường thương lượng. Thị trường mở là thị trường mua bán các công cụ tài
chính mà
bất cứ cá nhân và các định chế tài chính nào cũng có thể tham gia. Ngược lại, trong
thị
trường thương lượng, các công cụ tài chính được trao đổi theo những điều khoản
mua
bán trong các hợp đồng có tính chất riêng tư đựoc thiết lập bởi các cuộc bàn thảo
và thoả
thuận trực tiếp giữa người mua và người bán.
Theo thời hạn tồn tại của các công cụ tài chính kể từ đợt phát hành đầu tiên, vốn

thể được trao đổi trên thị trường sơ cấp hoặc thị trường thứ cấp. Thị trường sơ
cấp là thị
trường mua bán các chứng khoán mới được phát hành lần đầu. Ngược lai, thị
trường thứ

cấp là thị trường giao dịch các loại chứng khoán đã qua tay. Theo cấu trúc tổ chức
của
thị trường, vốn đựơc chuyển tải qua thị trường đấu giá hoặc trên thị trường không
chính
thức. Trong thị trường đấu giá, người đầu tư đặt giá mua cao nhất sẽ là người
được
nhận chứng khoán. Trong thị trường không chính thức, các công cụ tài chính
được mua
bán thông qua các nhà môi giới hoạt động bên ngoài các cơ sở giao dịch chính
thức, nơi
giao dịch các công cụ tài chính của các công ty lớn nhất, có tình trạng tài chính ổn
định
nhất.
Cũng có thể phân loại các thị trường tài chính theo phương thức phân phối các
công
cụ tài chính sau khi thực hiện một giao dịch. Trên thị trường giao dich ngay, các
công
cụ tài chính được giao ngay lập tức (thường là trong khoản vài ba ngày làm việc).
Ngược
lại, trên thị trường giao sau (thị trường các công cụ tài chính phát sinh hay thị
trường
các chứng khoán tuỳ thuộc: chứng khoán có giá trị tuỳ thuộc vào giá tri của một
tài sản
khác như các hợp đồng trong tương lai và các hợp đồng quyền chọn), các công
cụ tài
chính có thể được trao đổi tại một thời điểm nhất định trong tương lai ở một mức
giá
được xác định.
1.2. CÁC CÔNG CỤ TÀI CHÍNH VÀ CÁC GIAO DỊCH TÀI CHÍNH
1.2.1. Các tài sản tài chính

Trong một nền kinh tế được tiền tệ hoá ở mức độ cao như kinh tế thị trường, khái
niệm
tài sản bao hàm một nội dung kinh tế khá rộng. Một tài sản, nói theo nghĩa rộng, là
bất cứ
vật sở hữu gì mà có giá trị trong trao đổi. Nói đến tài sản phải kể đến tài sản hữu
hình và
tài sản vô hình. Tài sản hữu hình là tài sản có giá trị phụ thuộc vào những đặc tính
vật
chất riêng biệt. Thuộc về tài sản hữu hình là nhà cửa, đất đai hoặc máy móc thiết
bị. Tài
sản hữu hình có thể được phân loại thêm thành tài sản có thể tái sản xuất như
máy móc
thiết bị và những tài sản không thể tái sản xuất như đất đai, hầm mỏ, tác phẩm
nghệ
8
thuật. Khác với tài sản hữu hình, tài sản vô hình tượng trưng cho các trái quyền
hợp
pháp - quyền đòi phải hoàn trả một số tiền, quyền đòi thực hiện một nghĩa vụ - đối
với
các khoản lợi nhuận trong tương lai. Giá trị của các tài sản vô hình không có sự
liên quan
gì tới hình thức, nội dung vật chất mà người sử dụng để ghi nhận các chứng chỉ
hữu hình
nhưng tự bản thân tài sản tài chính lại không có giá trị. Đúng ra, giá trị của các tài
sản tài
chính dựa trên giá trị của dòng thu nhập được tạo ra bởi các tài sản thật. Các tài
sản tài
chính cũng còn được gọi là các công cụ tài chính hoặc các chứng khoán là các
tài sản
vô hình.

Mặc dù có hàng nghìn loại tài sản tài chính khác nhau nhưng, theo Peter S. Rose
[113,
p.24], tựu trung có thể chia các tài sản tài chính ra làm 3 nhóm: Tiền, chứng khoán
góp
vốn (hay chứng khoán sở hữu), chứng khoán cho vay (hay chứng khoán nhận nợ).
1.2.1.1. Tiền
Trong các nền kinh tế tiền tệ, bất cứ tài sản tài chính nào được thừa nhận một cách
rộng rãi như một phương tiện thanh toán hàng hoá, dich vụ hoặc để thanh toán nợ
nần
đều được gọi là tiền [113,p.24], [115,p.9]. Định nghĩa này nhấn mạnh yếu tố niềm
tin,
yếu tố tâm lý bao hàm trong khái niệm tiền tệ. Trong lịch sử, đã có nhiều thứ hàng
hoá
khác nhau được sử dụng như tiền bởi vì người ta tin tưởng vào giá trị của chúng và
sẵn
sàng thừa nhận chúng khi thanh toán.
Theo truyền thống, phần lớn các nhà kinh tế đã định nghĩa tiền là tất cả các loại
tiền
giấy, tiền xu do công chúng nắm giữ, tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân hàng
thương mại
và các định chế nhận tiền gửi khác. Tài sản tài chính quan trọng nhất trong nền
kinh tế thị
trường là tiền. Tiền tự bản thân nó là một tài sản tài chính thật sự bởi vì tất cả các
dạng
tiền tệ mà chúng ta sử dụng hôm nay đều là những trái quyền (quyền đòi chi trả)
đối với
các định chế phát hành ra nó. Bởi vì tất cả các tài sản tài chính được đánh giá bằng
tiền
và vì các dòng lưu chuyển vốn giữa người cho vay và người đi vay diễn ra qua
trung gian

của tiền tệ cho nên có thể nói rằng, tài sản tài chính quan trọng nhất trong nền kinh
tế là
tiền.
1.2.1.2. Các chứng khoán vay nợ
Loại tài sản tài chính thứ hai là các chứng khoán vay nợ. Thuộc về nhóm tài sản tài
chính này là các trái phiếu, các khoản phải thu và tiền gửi tiết kiệm. Trái phiếu là
giấy
chứng nhận về một khoản vay do người cho vay (người sở hữu trái phiếu) dành
cho
người đi vay (người phát hành trái phiếu). Cũng giống như vay ở các ngân hàng,
theo quy
định, để có thể vay nợ thông qua việc phát hành trái phiếu, người phát hành phải
đưa ra
một cam kết có tính rằng buộc về mặt pháp lý dưới hình thức một bản giao kèo ủy
thác
9
tài sản hoặc một chứng thư ủy thác tài sản mà theo đó người nhận uỷ thác, thường
là các
ngân hàng thương mại, để đại diện cho quyền lợi của người giữ trái phiếu. Nếu
người
phát hành trái phiếu không có khả năng trả lãi và số tiền nợ gốc (mệnh giá nợ) thì
người
được uỷ nhiệm có quyền đua các chủ nợ vỡ nợ ra toà.
Các chứng khoán nợ thường được phân làm hai loại: các chứng khoán nợ có thể
chuyển nhượng được và các chứng khoán nợ không thể chuyển nhượng được.
Chứng
khoán nợ có thể chuyển nhượng được là chứng khoán có thể được dễ dàng chuyển
nhượng từ người sở hữu này sang người sở hữu khác như một chứng khoán khả
mại.
Ngược lại, chứng khoán nợ không thể chuyển nhượng là loại chứng khoán không

thể
chuyển nhượng một cách hợp pháp.
1.2.1.3. Các chứng khoán góp vốn
Các chứng khoán góp vốn, thường được gọi là cổ phiếu, tượng trưng cho những
cổ
phần sở hữu trong một doanh nghiệp. Đó là “ những trái quyền (claims) đối với lợi
nhuận
của một doanh nghiệp” [113,24]. Giữ một chứng khoán góp vốn trong tay có nghĩa

người giữ chứng khoán sở hữu một phần tài sản của một công ty. Cũng vì vậy, chỉ
có cổ
phiếu công ty, không có cổ phiếu của chính phủ hoặc chính quyền địa phương, vì
các cá
nhân không thể “sở hữu” chính phủ (ít nhất là trên phương diện pháp lý).
Có hai loại cổ phiếu là cổ phiếu thường và cổ phiến ưu đãi. Thông thường, tất cả
các
công ty đều phát hành cổ phiếu thường. Về bản chất, cổ phiếu thường tượng trưng
cho
quyền sở hữu chủ yếu đối với một công ty vì loại cổ phiếu này cho phép các cổ
đông
được quyền bỏ phiếu bầu các thành viên của Hội đồng quản trị và xác định các
chính
sách của công ty. Đổi lại, người sở hữu cổ phiếu này chỉ có quyền hưởng lợi tức
sau khi
cả các loại chứng khoán khác đã được trả. Vì vậy, trong trường hợp một công ty bị
giải
thể thì người sử hữu cổ phần thường là người có những quyền sau cùng đối với tài
sản
của công ty. Nếu một công ty bị buộc phải phá sản thì những người nắm giữ những
chứng khoán cao cấp như các trái phiếu sẽ có quyền ưu tiên được chia những tài

sản còn
lại của công ty.
Khác với cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi hơn hẳn cổ phiếu thường ở hai điểm:
(1)
được ưu tiên nhận lãi theo một tỷ lệ đã được ấn định trước khi cổ tức được chi trả
cho các
cổ phiếu thường và (2) quyền ưu tiên đối với phần tài sản còn lại của công ty nếu
công ty
được đặt trong tình trạng phá sản. Như vậy, cổ phiếu ưu đãi giống như một loại
trái
phiếu cấp thấp nhưng không có bảo đảm giống như bảo đảm của trái phiếu và cổ
phiếu
ưu đãi cũng không có sự hấp dẫn giống như cổ phiếu thường.
10
1.2.2. Các hình thức tài trợ trên các thị trường tài chính
Các chủ thể tham gia các giao dịch tài chính giữ các vai trò khác nhau trên thị
trường
tài chính. Một cách tổng quát, có thể chia các chủ thể tham gia vào thị trường tài
chính
theo ba nhóm vai trò khác nhau: các đơn vị thặng dư hoặc thâm hụt; các trung gian
tài
chính và ngân hàng trung ương.
Nhóm các đơn vị thặng dư hoặc thâm hụt là các hộ gia đình, các doanh nghiệp,
chính
phủ và người nước ngoài. Khi ở vị thế thặng dư vốn, các chủ thể thặng dư có thể
cho vay
phần vốn chưa cần dùng đến của mình trên thị trường tài chính và trở thành người
cho
vay. Ngược lại, khi ở trong tình trạng thâm hụt, chủ thể này sẽ có nhu cầu vay
mượn

phần thiếu hụt tạm thời trên thị trường tài chính và trở thành người đi vay. Nhóm
giữ vai
trò trung gian tài chính là các định chế tài chính. Đây là các chủ thể có chức năng
chuyển
tải vốn từ đơn vị thặng dư tới đơn vị thâm hụt. Là ngân hàng của các ngân hàng, để
thực
hiện chức năng hoạch định chính sách tiền tệ, bảo vệ và duy trì sự phát triển bền
vững
của nền kinh tế, ngân hàng trung ương phát hành và mua các công cụ tài chính.
Đây là
chủ thể duy nhất trên thị trường tài chính có chức năng này.
Trong thc t, chuyn ti vn tit kim t cỏc n v thng d sang cỏc n v
thõm
ht, cỏc h thng ti chớnh ó s dng nhiu kờnh dn vn khỏc nhau. Thớch ng
vi
nhng tin b vt bt trong cụng ngh thụng tin (thụng tin v tinh, cỏp quang, la-
de, fax,
internet ), s thay i ca lut l v ũi hi ngy cng kht khe ca cụng chỳng,
cỏc
nh ch ti chớnh ó phỏt trin nhiu phng thc giao dch lu chuyn ngy
cng tt
hn khi lng qu cho vay khan him t cỏc n v thng d n cỏc n v thõm
ht.
Trong thc t, ngun vn cú th s dng cho vay c trao i gia ngi i
vay v
ngi cho vay thụng qua ba hỡnh thc ti tr khỏc nhau.
chuyên nghiệp
đầu t
Các tổ chức
đầu t

chuyên nghiệp
Các tổ chức
Các đơn vị
thặng d thâm hụt
N g â n q u ỹ
C h ứ n g k h o á n t r ự c t i ế p C h ứn g k h oá n t r ự c t i ế p
N g â n q u ỹ
C h ứn g k h o á n t r ự c t i ế p
N g â n q uỹ
Ch ứn g k hoá n t r ực t i ế p
N g â n q u ỹ
Các đơn vị
11
Hỡnh1.2. Cỏc hỡnh thc ti tr chu chuyn ca vn v chng khoỏn
Trong hỡnh thc ti tr trc tip, ngi i vay v ngi cho vay cú th liờn lc,
tip
xỳc trc tip vi nhau m khụng cú s tr giỳp ca mt trung gian ti chớnh hoc
ca bt
c mt nh ch ti chớnh no khỏc. Bng hỡnh thc ti tr ny, sau khi ó tho
thun mt
giao dịch, để nhận được vốn, người đi vay trao cho người cho vay một tài sản
chính (cổ
phiếu, trái phiếu, các giấy tờ nhận nợ khác ) chứng tỏ rằng người cho vay có
quyền đòi
nợ hợp pháp đối với các khoản thu nhập trong tương lai hoặc hiện có của mình.
Tài trợ trực tiếp là phương pháp đơn giản nhất để thực hiện các giao dịch tài chính.
Tuy nhiên, hình thức này cũng có một hạn chế. Hạn chế dễ thấy nhất phải có sự
chấp
thuận một cách tự nguyện giấy nhận nợ của người đi vay. Hạn chế thứ hai, quan
trọng

hơn, là người đi vay và người cho vay phải cùng có nhu cầu trao đổi cùng một số
tiền và
cùng vào một thời điểm. Rõ ràng , không có sự trùng hợp cơ bản này, giao dịch
theo
phương thức tài trợ trực tiếp khó có thể thực hiện được. Hạn chế thứ ba là, để có
thể tìm
biết nhu cầu của nhau, cả người cho vay và người đi vay phải chịu thêm một khoản
chi
phí được gọi là chi phí thông tin. Dĩ nhiên là để có thể tìm được người cho vay có
đúng
số tiền và sẵn sàng chấp thuận giấy nhận nợ của người đi vay, người đi vay phải
liên hệ
và tiếp xúc với nhiều người có quỹ cho vay thặng dư.
Những hạn chế nói trên đã thúc đẩy sự ra đời của hình thức tài trợ một phương
pháp
giao dịch khác là tài trợ bán trực tiếp. Trong hình thức lưu chuyển vốn này, tiến
trình
cho vay giữa người cho vay và người đi vay có sự can thiệp của bên thứ ba - các
nhà môi
giới, các nhà kinh doanh, các ngân hàng đầu tư, các ngân hàng cầm cố.
Ra đời sau, tài trợ bán trực tiếp đã khắc phục được vài nhược điểm cố hữu của
phương
thức tài trợ trực tiếp. Đóng góp dễ thấy của hình thức tài trợ bán trực tiếp là bằng
sự tham
gia của các nhà môi giới và các nhà kinh doanh trong các giao dịch, hình thức tài
trợ này
đã tiết giảm được các chi phí giao dịch và chi phí tìm kiếm các chủ thể tham gia
trong các
quan hệ giao dịch trên thị trường tài chính. Mặt khác, với sự góp mặt của các nhà
môi

giới, kinh doanh chứng khoán và của các ngân hàng đầu tư, thị trường bán lại (thị
trường
thứ cấp) các chứng khoán do người đi vay phát hành đã có được mức tăng trưởng
đáng
kể. Thông qua sự vận hành của thị trường thứ cấp, vốn cho vay không còn bị kẹt
khi phải
nắm giữ các chứng khoán và chờ đến ngày đáo hạn. Các chứng khoán của người đi
vay
có thể dễ dàng được bán lại cho các nhà đầu tư tiềm năng thông qua các nhà môi
giới
hoặc kinh doanh chứng khoán miễn là người đi vay có uy tín đủ tốt.
Mặc dù đã có sự cải thiện đáng kể hiệu quả vận hành của hệ thống tài chính thông
qua
những đóng góp quan trọng của các nhà môi giới và kinh doanh chứng khoán, hình
thức
12
tài trợ bán trực tiếp không phải là không có những hạn chế. Thứ nhất, khi nắm giữ
chứng
khoán của người đi vay, người cho vay phải chấp nhận những rủi ro gắn với những
chứng
khoán này. Thứ hai, để hình thức giao dịch trực tiếp có thể xảy ra, vẫn phải có sự
phù
hợp cơ bản về ý muốn cũng như nhu cầu của các đơn vị thâm hụt và đơn vị thặng
dư.
Những khiếm khuyết của hình thức tài trợ trực tiếp và bán trực tiếp là lý do thúc
đẩy
sự ra đời và phát triển của hình thức thứ ba để thực hiện các giao dịch tài chính -
tài trợ
gián tiếp với sự tham gia của các trung gian tài chính. Với phương thức tài trợ này,
bằng

những kết quả của những nỗ lực trong quá trình trung gian hoá tài chính, nhu
cầu giao
dịch tài chính của cả đơn vị thặng dư và đơn vị thâm hụt đều được thoả mãn đầy đủ
hơn
so với hình thức tài trợ bán trực tiếp.
Khác với các nhà mua bán chứng khoán chuyên nghiệp, các trung gian tài chính là
các
định chế tài chính có thể phát hành các công cụ tài chính của riêng mình. Đặc tính
riêng
có này giúp các trung gian tài chính có thể tạo ra các công cụ tài chính hấp dẫn để
thu hút
vốn của các đơn vị thặng dư. Những công cụ tài chính (chứng khoán) này thường
được
gọi là các chứng khoán gián tiếp hoặc các chứng khoán thứ cấp để phân biệt với
các
chứng khoán trực tiếp hoặc chứng khoán sơ cấp do các đơn vị thâm hụt phát
hành.
Đây là phần cốt lõi của quá trình trung gian hoá tài chính.
Một bộ phận khác của tiến trình trung gian hoá tài chính là việc sử dụng nguồn vốn

được qua việc bán các chứng khoán gián tiếp để mua các chứng khoán trực tiếp.
Đó là
công cụ tài chính do đơn vị thâm hụt phát hành và bán cho các đơn vị thặng dư với
sự trợ
giúp hoặc không có sự trợ giúp của các nhà mua bán chứng khoán chuyên nghiệp.
Nói
cách khác, đối với chứng khoán trực tiếp, chứng khoán do đơn vị thặng dư mua
cũng
chính là chứng khoán do đơn vị thâm hụt bán và chứng khoán trực tiếp được lưu
chuyển

từ đợn vị thâm hụt tới đơn vị thặng dư trong khi vốn lưu chuyển theo chiều ngược
lại.
Đây là đặc tính dùng để phân biệt chứng khoán trực tiếp với chứng khoán gián
tiếp.
Có thể nói rằng, hai bộ phận trong tiến trình tài trợ gián tiếp đề cập ở trên đã tạo
tiền
đề cho sự chuyển hoá các chứng khoán tài chính - chuyển đổi các chứng khoán
trực
tiếp thành các chứng khoán gián tiếp. Bằng việc bán các chứng khoán thứ cấp hấp
dẫn
cho các đơn vị thặng dư đồng thời mua các chứng khoán do các đơn vị thâm hụt
phát
hành, các trung gian tài chính đã giữ vai trò không thể thiếu được trong nền kinh
tế.
Chính quá trình chuyển đổi các chứng khoán trực tiếp thành các chứng khoán gián
tiếp đã
cho phép khắc phục được những nhược điểm cố hữu của hình thức tài trợ trực tiếp
và tài
trợ bán trực tiếp.
13
1.2.3. Các thuộc tính của các công cụ tài chính
Là các kênh dẫn vốn trên các thị trường tài chính, các công cụ tài chính là các
phương
tiện giữ vai trò quan trọng trong việc chuyển tải vốn từ các đơn vị, cá nhân thừa
vốn
nhưng thiếu hoặc chưa có cơ hội đầu tư tới các đơn vị có cơ hội đầu tư nhưng thiếu
vốn.
Phù hợp với các bước phát triển của thị trường tài chính, nhiều công cụ tài chính đã
được
sản sinh và được phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng. Nếu kể đến các loại

chứng chỉ
tiền có thể giao dịch được, thương phiếu, hối phiếu ngân hàng, các hợp đồng mua
lại, các
loại tín phiếu kho bạc trên thị trường tiền tệ đến các khoản cho vay phục vụ cho
quá
trình sản xuất và lưu thông hàng hoá (cho vay vốn lưu động) ở các ngân hàng, các
khoản
cho vay tiêu dùng, các khoản cho vay cầm cố, các loại cổ phiếu, trái phiếu công ty,
trái
phiếu đô thị, công trái trên thị trường vốn thì quả là kỹ thuật và công nghệ tài chính
đã có
một bước phát triển khá dài. Tuy có nhiều loại nhưng tựu trung các công cụ này
đều có
chung một số thuộc tính và chính các thuộc tính này là những nhân tố quyết định
lượng
cầu về từng loại công cụ tài chính.
1.2.3.1. Tính sinh lời
Trong một nền kinh tế thị trường có các định chế tài chính phát triển, tiền là một
phương tiện cất trữ giá trị, nhưng tiền không phải là một phương tiện cất trữ giá trị
duy
nhất. Nhiều loại tài sản tài chính như trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ, cổ
phiếu và
các loại chứng khoán khác cũng thường được dùng như một phương tiện cất trữ
của cải
có lợi thế hơn tiền bởi vì khác với tiền, các công cụ này có khả năng sinh lời cho
người
nắm giữ. Khi một tổ chức, cá nhân quyết định mua một loại chứng khoán nào đó
điều đầu
tiên mà tổ chức, cá nhân đó quan tâm tính toán là lợi tức kỳ vọng mà tài sản đó có
thể

mang lại. Vì vậy, với một cá nhân thích mạo hiểm, cổ phiếu sẽ là loại chứng khoán
được
ưa chuộng nhất vì người sở hữu cổ phiếu là người có đủ tư cách hội viên và có
quyền
chia lợi tức theo tỷ lệ vốn tham gia trên thu nhập ròng và tài sản có của một công
ty. Trái
lại, với một người cẩn trọng, trái phiếu sẽ được ưu tiên hơn vì người mua trái phiếu

quyền hưởng một khoản thu nhập cố định bất kể trong tình huống nào và bất kể
hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp ra sao.
1.2.3.2. Tính rủi ro
Rủi ro là một tình huống khó tránh trong hoạt động kinh doanh. Và dường như
trong
nền kinh tế thị trường, một nghịch lý phổ biến thường thấy là một dịch vụ kinh
doanh
càng có nhiều rủi ro thì mức lợi tức dự tính mang lại càng có độ hấp dẫn. Hoạt
động đầu
tư và mua bán chứng khoán cũng vậy. Hai dạng rủi ro thường gặp trong đầu tư
chứng
khoán là rủi ro vỡ nợ và rủi ro thị trường. Rủi ro vỡ nợ xảy ra khi người phát hành
các
14
công cụ tài chính bị phá sản nên không thể trả đủ cho người mua số gốc vốn ban
đầu. Vì
vậy, để tránh loại rủi ro này, việc điều tra tìm hiểu, lựa chọn nên mua cổ phiếu
(hoặc trái
phiếu) của công ty nào và nên đầu tư vào ngành kinh tế nào, xu hướng phát triển
của
ngành kinh tế đó trong tương lai sẽ ra sao là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Khác
với rủi ro vỡ nợ, rủi ro thị trường xảy ra do sự biến động của giá thị trường. Khi
mức lạm
phát dự đoán thay đổi, khi triển vọng kiếm lợi nhuận của các doanh nghiệp trở nên
khó
khăn hơn, khi mức lãi suất trên thị trường gia tăng, khi nền kinh tế đang trong
trạng thái
khủng hoảng. Vì lý do đó, mức độ rủi ro trên thị trường thường gia tăng theo độ
dài của
khoảng thời gian đến hạn của các công cụ tài chính.
1.2.3.3. Tính lưu chuyển
Là một khái niệm quan trong được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực tài chính nhưng
cho
đến nay, ngay ở các nước có thị trường tài chính phát triển, vẫn còn những quan
điểm
khác nhau về thuật ngữ “tính lưu chuyển” và chưa có một định nghĩa nào được
thừa nhận
một cách thống nhất.
Theo giáo sư James Tobin, một cách hữu ích để hiểu về tính lưu chuyển của một tài
sản kiếm người tiêu thụ nếu muốn bán ngay tài sản đó. Với ý nghĩa đó, các tài sản
như
tác phẩm nghệ thuật của một hoạ sỹ ít nổi danh hoặc một căn nhà rộng lớn và có
kiểu
dáng khác thường là những tài sản hoàn toàn không có tính lưu chuyển vì để bán
các tài
sản nay, người chủ sở hữu phải tìm một người mua thích hợp trong số rất ít những
người
mua.
Theo Thomas Fitch, tính lưu chuyển là thuộc tính dễ chuyển đổi thành tiền mặt,
với sự

mất mát tối thiểu về giá trị, của một tài sản. Các chứng khoán ngắn hạn như trái
phiếu
chính phủ ngắn hạn được bán dễ dàng cho các nhà đầu tư khác tại một mức giá có
mức
chênh lệch khá hẹp giữa giá đặt mua và giá chào bán và trong một khối lượng giao
dịch
tương đối lớn được gọi là các chứng khoán có tính lưu chuyển.
Như vậy, tuy được thể hiện dưới nhiều lớp vỏ ngôn ngữ bề ngoài khác nhau nhưng
“liquidity” phản ánh nhu cầu nắm giữ các tài sản có thể dễ dàng chuyển đổi thành
tiền
mặt để đáp ứng một cách kịp thời và vô điều kiện các nghĩa vụ thanh toán, các ràng
buộc
về tài chính trong các trường hợp khẩn cấp trong hoạt động kinh doanh của cá nhân

các doanh nghiệp. Mang trong mình thuộc tính này, tài sản tài chính không những
có thể
chuyển đổi thành tiền một cách dễ dàng mà chuyển đổi được tại mức giá tối đa.
Thông
thường trên thị trường tài chính, một công cụ tài chính được xem là có tính lưu
chuyển
cao khi và chỉ khi công cụ ấy thoả mãn ba điều kiện:
15
Thứ nhất, công cụ tài chính phải có độ ổn định về giá để bảo vệ được nhà đầu tư
trước
sự biến động mạnh của giá thị trường. Vì lý do này, tính lưu chuyển của một công
cụ tài
chính thay đổi theo mức độ ổn định về giá của nó qua thời gian.
Thứ hai, công cụ tài chính có tính khả mại cao (có thị trường bán lại sôi động) để,
khi
cần, nhà đầu tư có thể bán lại các công cụ tài chính đó một cách dễ dàng.

Thứ ba, công cụ tài chính phải có khả năng hoán đổi (reversibility) để các nhà đầu

có thể thu hồi được vốn đầu tư ban đầu mà không phải chịu mất mát, thua lỗ lớn.
Cần để
ý rằng, bao giờ cũng vậy, luôn luôn và hầu như ngay lập tức, nhà đầu tư có thể tìm
được
người mua để bán một tài sản nhưng điều đó không có nghĩa là tài sản mà nhà đầu
tư nắm
giữ là tài sản có tính lưu chuyển bởi vì vấn đề không phải chỉ đơn giản là chuyển
đổi tài
sản thành tiền được mà là ở chỗ bán được với giá trị cao nhất. Một tài sản càng mất
nhiều thời gian để thanh lý, chi phí giao dịch có liên quan đến việc chuyển đổi,
thanh lý
càng cao thì tính lưu chuyển của tài sản đó càng thấp. Vì vậy, một khoản tiền gửi
có thể
rút theo nhu cầu thuộc tài khoản tiền gửi thanh toán ngay (tài khoản không kỳ hạn)

tính lưu chuyển cao hơn các loại trái phiếu kho bạc, trái phiếu công ty hoặc công
trái.
Ba thuộc tính nói trên của công cụ tài chính có liên hệ chặt chẽ với nhau. Dễ thấy
nhất
là mối liên hệ gữa mức rủi ro và khả năng sinh lời (hình1). Thông thường, các công
cụ tài
chính có mức rủi ro cao là những công cụ có mức sinh lời cao nhất và đó chính là
yếu tố
hấp dẫn nhà đầu tư và các doanh nghiệp nắm giữ các công cụ tài chính có mức rủi
ro cao.
Giữa khả năng sinh lời và mức lưu chuyển cũng có mối liên hệ mật thiết. Công cụ
càng
có tính lưu chuyển cao thì mức sinh lời của nó càng thấp. Vì vậy, những nhà đầu tư

không muốn nguồn vốn nhàn rỗi của mình bị bất động thường chọn một công cụ
tài
chính có mức sinh lời thấp hơn dể có một công cụ tài chính có mức lưu chuyển cao
hơn.
Sau hết, như đã trình bày trong thuộc tính lưu chuyển, mối liên hệ giữa mức độ rủi
ro và
mức lưu chuyển là mối liên hệ cố hữu. Một công cụ tài chính càng có tính lưu
chuyển cao
thì càng có lợi thế trong giao dịch, mua bán, vì bất cứ lúc nào, người nắm giữ cũng
có thể
bán nó với thời gian ngắn nhất, ở mức giá hợp lý nhất (không thấp hơn giá gốc ban
đầu).
16
Hình 1.3. Quan hệ giữa rủi ro và sinh lời
Các mối quan hệ giữa các thuộc tính của các công cụ tài chính cho thấy rằng trên
thị
trường tiền tệ và thị trường vốn, không một công cụ nào có các lợi thế tuyệt đối so
với
các công cụ khác. Nói một cách khác, không thể có một công cụ tài chính vừa có
mức
sinh lời cao, vừa có mức rủi ro ít lại vừa có tính lưu chuyển cao. Có lẽ đó là lý do
của sự
tồn tại không thể thay thế được lẫn nhau của nhiều loại hình công cụ tài chính trên
các thị
trường tài chính.
1.2.4. Các dạng rủi ro liên quan đến việc đầu tư vào các tài sản tài chính
Giống như đầu tư vào các loại tài sản khác, bên cạnh những khoản sinh lời hấp
dẫn.
đầu tư vào các tài sản tài chính cũng thường gặp một số rủi ro.
1.2.4.1. Rủi ro vỡ nợ

Rủi ro vỡ nợ còn được gọi là rủi ro tín dụng là rủi ro xảy ra khi người phát hành
các
chứng khoán không thể thực hiện thanh toán đúng hạn các khoản lãi và gốc cho
người
mua các chứng khoán.
Ri ro v n l hu qu ca 2 dng ri ro: ri ro kinh doanh v ri ro ti chớnh. Ri
ro
kinh doanh l ri do xy ra khi dũng tin mt thu vo ca ngi phỏt hnh b suy
gim
do iu kin kinh doanh tr nờn khú khn. Hu qu l ngi phỏt hnh mt kh
nng
thanh toỏn cỏc khon chi phớ hot ng nh thanh toỏn tin hng hoỏ v dch v
cho
Rủi ro thấp Rủi ro vửa Rủi ro Rủi ro Rủi ro cao
phải trung bình trên trung bình
Đờng thị trờng vốn
Độ dốc chỉ mức lợi tức tối thiểu
cho mỗi đơn vị rủi ro
công ty
Trái phiếu Bất động
sản
Cổ phiếu
của các
trong nớc
công ty
mạo hiểm
Đầu t vốn
chính phủ
Trái phiếu
ngắn hạn

Trái phiếu
chính phủ
R di hạn f
LS kỳ vọng
17
ngi cung cp, tr lng cho cụng nhõn. Ri ro ti chớnh l ri ro xy ra khi
dũng tin
mt thu vo ca ngi phỏt hnh khụng ỏp ng cỏc ngha v ti chớnh (tr
n v
tr lói). Thụng thng cỏc nc cú nn kinh t th trng phỏt trin, ri ro v n
thng do cỏc cụng ty dch v ca nh u t, cỏc cụng ty xp loi tớn nhim xỏc
nh v
xp loi.
1.2.4.2. Ri ro lm phỏt
Là một hiện tượng phổ biến trong mọi nền kinh tế tiền tệ, lạm phát tác động đến
mọi
ngõ ngách trong đời sống kinh tế. Trong lĩnh vực đầu tư và các tài sản tài chính,
lạm phát
“ăn mòn” giá trị của tài sản, làm cho mức sinh lời danh nghĩa có sự khác biệt so
với mức
sinh lời thật. Khi mức sinh lời thực tế - mức sinh lời đã được điều chỉnh theo tỷ lệ
lạm
phát - âm, người ta nói đã có rủi ro lạm phát hay rủi ro sức mua trên công cụ tài
chính
đó.
1.2.4.3. Rủi ro tỷ giá hối đoái
Rủi ro tỷ giá hối đoái hay rủi ro tiền tệ xảy ra khi nhà đầu tư trong nước mở rộng
hoạt động kinh doanh chứng khoán trên các thị trường quốc tế. Bởi vì giá trị của
luồng
tiền mặt thu vào do đầu tư vào chứng khoán hoàn toàn lệ thuộc vào tỷ giá hối đoái

giữa 2
đồng tiền ở 2 thời điểm thanh toán nên trong thực tế, loại rủi ro này rất khó xác
định.
1.2.4.4. Rủi ro giá cả
Rủi ro giá cả phát sinh từ thực tế là người đầu tư không thể biết chắc chắn giá thị
trường của các chứng khoán trong tổ hợp các chứng khoán đầu tư trong tương lai
sẽ là
bao nhiêu. Vì vậy khi buộc phải bán một chứng khoán (hoặc toàn bộ chứng khoán
trong
tổ hợp các chứng khoán) để thực hiện một mục đích đầu tư nhất định, giá trị của
các
chứng khoán có thể bị hạ thấp. Rủi ro này được gọi là rủi ro giá cả. Ví dụ, giá định
một
định chế tài chính có một tổ hợp các chứng khoán đầu tư có giá trị thị trường là
200 triệu
đồng và định chế tài chính ấy phải đáp ứng một nghĩa vụ trả nợ 200 triệu trong 2
năm
tới. Định chế tài chính này phải đương đầu với rủi ro là, trong 2 năm sau, khi phải
bán tổ
hợp các chứng khoán đầu tư để trả nợ nói trên, giá thị trường của tổ hợp các chứng
khoán
đầu tư có thể ít hơn 200 triệu.
Trong các nghiệp vụ giao dịch trên thị trường chứng khoán, rủi ro giá cả là rủi ro
chủ

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×