Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Chủ Nghĩa Xã Hội - Gia Đình.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 34 trang )

MỤC LỤC
TỔNG QUAN

3

Khái niệm 3
Vai trò
5
Chức năng 9
Cơ sở khoa học 14

SO SÁNH

15
So sánh với nước ngoài 15
So sánh với chính mình q khứ
Cấu trúc gia đình qua các thời kỳ 16
Tư duy gia đình 18

16

VẤN ĐỀ ĐẶT

24
Dân trí tỉ lệ nghịch với tỉ lệ sinh con 24
Tảo hôn 26
Giáo dục giới tính
28

KẾT LUẬN 32
Kết luận 32


Dự báo xu hướng tương lai, đề xuất - định hướng

TÀI LIỆU THAM KHẢO

34

1

32


I.

TỔNG QUAN
1. KHÁI NIỆM:

Nhìn chung, gia đình là một nhóm người sống cùng nhau và mỗi cá nhân sẽ có sự kết nối sâu sắc
với nhau thông qua các mối quan hệ về tình cảm, hơn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi
dưỡng, quan hệ giáo dục…
Tuy nhiên, trên thực tế, khái niệm “gia đình” là một khái niệm khá phức tạp và nhiều mặt. Gia
đình là một nhóm người đặc biệt, khác với những nhóm xã hội khác vì ý nghĩa của nó vượt xa sự
chung sống đơn thuần và liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau như sinh học, tâm lý, văn hóa,
kinh tế,... Mỗi góc độ nghiên cứu khi tìm hiểu về gia đình đều có thể mang lại sự hiểu biết riêng
biệt và từ đó đưa ra những khái niệm khác nhau về gia đình để phù hợp với từng nội dung nghiên
cứu.
Bởi thế, luôn tồn tại vô số cơ sở mà dựa vào đó “gia đình” có thể được phân chia thành nhiều
loại khác nhau:
- Xét về quy mơ, “gia đình” gồm 3 loại:



Gia đình hai thế hệ (gia đình hạt nhân): là gia đình bao gồm cha mẹ và con.



Gia đình ba thế hệ (gia đình truyền thống/ tam đại đồng đường): là gia đình bao gồm ơng
bà, cha mẹ và con.



Gia đình bốn thế hệ trở lên (tứ đại đồng đường): là gia đình nhiều hơn ba thế hệ

2


- Xét về khía cạnh xã hội học, “gia đình” được chia thành 2 loại:


Gia đình lớn (gia đình ba thế hệ/ gia đình mở rộng): là gia đình gồm những người cùng
huyết thống từ nhiều thế hệ, cư trú dưới một mái nhà duy nhất trong thời gian dài, thường
từ ba thế hệ trở lên. Đây được coi là gia đình truyền thống trong quá khứ.



Gia đình nhỏ (gia đình hai thế hệ hoặc gia đình hạt nhân): đây được coi là gia đình tương
lai bởi nó ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại và phát triển như hiện tại.
 Gia đình nhỏ đầy đủ: là gia đình gồm các cá thể có mối liên hệ sâu sắc giữa
chồng- vợ- con.




Gia đình nhỏ khơng đầy đủ: là gia đình mà trong đó chỉ tồn tại quan hệ của chỉ
người vợ với người chồng hoặc chỉ của người cha hoặc người mẹ với các con.

3


Đối với các gia đình Việt Nam, ở các vùng miền khác nhau, việc chỉ định các thuật ngữ xưng hơ
gia đình cũng khác nhau, phản ánh kết cấu văn hóa và truyền thống độc đáo của từng địa
phương. Hơn nữa, các vùng khác nhau cịn có những thuật ngữ đặc biệt như bố, ba, thầy, u để
xưng hô với nhân vật đáng kính như “cha”. Tương tự như vậy, những từ thay thế của “mẹ” là
má, u, mạ. Ngoài ra, còn các từ khác để chỉ các mối quan hệ trong gia đình như: ơng nội là ba
của ba, bà nội là mẹ của ba, ông ngoại là ba của mẹ, bà ngoại là mẹ của mẹ.
Miền Bắc
Bác: anh, chị của cha, mẹ.
Chú: em trai của cha/ chồng của cơ/ chồng của dì.
Thím: vợ của chú.
Cơ: em gái của cha.
Cậu: em trai của mẹ.
Mợ: vợ của cậu.
Dì: em gái của mẹ/ vợ mới của ba.
Dượng: chồng mới của mẹ.

Miền Trung và miền Nam
Bác (trai): anh của cha.
Bác gái: vợ của bác.
Chú: em trai của cha.
Thím: vợ của chú.
Cơ: chị hoặc em gái của cha.
Dượng: chồng của cô.
Cậu: anh hoặc em trai của mẹ.

Mợ: vợ của cậu.
Dì: chị hoặc em gái của mẹ.
Dượng là chồng của dì.
Để đề cao biểu tượng của sự đồn kết, tình u và sự hịa hợp giữa những cơng dân nói chung và
những thành viên trong một gia đình nói riêng.Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ký ban hành
Quyết định 72/2001/QĐ-TTg chọn ngày 28 tháng 6 hàng năm là ngày gia đình Việt Nam.

2. VAI TRỊ
- Gia đình là tế bào của xã hội:
Gia đình có vai trị quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Bởi gia đình
là nơi thực hiện đồng thời hai loại tái sản xuất: tái sản xuất ra của cải vật chất và tái sản xuất ra
bản thân con người, làm cho xã hội tồn tại và phát triển lâu dài.
Xã hội muốn tồn tại thì phải bắt đầu từ gia đình trước tiên. Gia đình là nơi sinh đẻ và ni dạy
con cái, góp phần vào sự trường tồn của gia đình và xã hội, có con người thì mới có gia đình và
cũng từ gia đình thì mới có con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Nhiều gia
đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt
nhân của xã hội là gia đình”.Vì vậy muốn có một xã hội phát triển lành mạnh thì phải quan tâm
xây dựng tế bào gia đình thật tốt.

4


Đối với Việt Nam, trải qua nhiều thế hệ, gia đình được hình thành và phát triển với những chuẩn
mực, giá trị rất tốt đẹp, góp phần xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc và phát triển đất nước. Dẫu
cho qua nhiều thời kỳ phát triển, cấu trúc và quan hệ trong gia đình Việt Nam có thể thay đổi thì
những chức năng cơ bản của gia đình vẫn tồn tại và gia đình vẫn là một nhân tố khơng thể thiếu
trong q trình xây dựng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn của lịch sử thì tác động của gia đình đối với xã hội khơng hồn
tồn giống nhau vì mức độ tác động của gia đình đối với xã hội lại phụ thuộc vào bản chất của
từng chế độ xã hội, vào đường lối và chính sách của giai cấp cầm quyền cũng như phụ thuộc vào

chính đặc điểm của mỗi hình thức gia đình trong lịch sử. Chính vì vậy nên quan tâm xây dựng
quan hệ gia đình bình đẳng, hạnh phúc vẫn là mục tiêu hết sức quan trọng đối với cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Chẳng hạn, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 72/2001/QĐ-TTg
lấy ngày 28/6 hàng năm làm Ngày Gia đình Việt Nam. Quyết định nhấn mạnh đến vai trị của gia
đình cũng như những trách nhiệm của các cán bộ ngành, các cấp và toàn thể xã hội xây dựng gia
đình văn minh, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, đẩy mạnh công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội:
Gia đình là nơi duy trì nịi giống, là mơi trường quan trọng hình thành, ni dưỡng và giáo dục
nhân cách con người. Trong gia đình, mỗi cá nhân được tồn và khơn lớn, người già có nơi
nương tựa, người lao động có điều kiện để phục hồi sức khỏe và thoải mái tinh thần. Gia đình là
một tổ ấm thực sự của con người.

5


Bắt nguồn từ nhu cầu từ mối quan hệ tình cảm trong gia đình, con người mới có thêm nhu cầu
quan hệ xã hội, quan hệ với những người khác ngồi gia đình. Mỗi cá nhân khơng chỉ là thành
viên trong gia đình mà cịn là thành viên của xã hội. Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên đáp
ứng nhu cầu quan hệ xã hội của mỗi cá nhân và cũng là môi trường đầu tiên mà mỗi cá nhân học
được và thực hiện quan hệ xã hội.
Ngược lại, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội tác động đến cá nhân. Qua
lăng kính của gia đình, những hiện tượng xã hội có thể tác động tích cực hay tiêu cực đến tư
tưởng, lối sống, đạo đức, nhân cách… của mỗi cá nhân.
Có những vấn đề quản lý xã hội phải thông qua hoạt động của gia đình để tác động đến cá nhân.
Nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi cá nhân được thực hiện với sự hợp tác của các thành viên trong
gia đình. Thế nên ở bất cứ xã hội nào, giai cấp cầm quyền muốn quản lí xã hội theo yêu cầu của
mình cũng đều coi trọng việc xây dựng và củng cố gia đình.
- Gia đình có vai trị đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng

cao phục vụ đất nước:
Gia đình giữ vai trò đặc biệt quan trọng tới số lượng, chất lượng dân số và cơ cấu dân cư của
quốc gia. Gia đình khơng chỉ duy trì nịi giống mà cịn là môi trường để giáo dục nếp sống, bồi
dưỡng đạo đức cho con người.
Gia đình là nơi cung cấp nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Nguồn nhân lực cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay ngày càng
địi hỏi trình độ và u cầu cao, đó phải là những người “giàu lịng u nước, có ý thức làm chủ,
trách nhiệm cơng dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh
thần quốc tế chân chính”.

6


Các kỹ sư của Trung tâm Vũ trụ Việt Nam (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam) chế tạo vệ tinh NanoDragon. (Nguồn: Trung tâm Vũ trụ Việt Nam)
Đối với trẻ em - những mầm non tương lai của đất nước thì gia đình càng có vai trị quan trọng
trong việc giáo dục và rèn luyện nhân cách phù hợp với những chuẩn mực tốt đẹp của xã hội. Gia
đình là mơi trường giáo dục đầu tiên của mỗi con người, từng “lời ăn tiếng nói” hay từng “đường
đi nước bước” đều được con trẻ học hỏi từ người thân trong gia đình nên hành vi đầu đời của các
em có dấu ấn sâu sắc của gia đình. Trẻ em có hành vi tốt hay xấu trước hết và chủ yếu là do môi
trường giáo dục của gia đình tạo nên. Và hơn thế gia đình cịn là nhịp cầu kết nối với nhà trường
trong quá trình giáo dục trẻ em. Gia đình phải ln liên hệ với nhà trường, từ đó nắm bắt những
ưu điểm và hạn chế của các em để tác động giúp các em biết khắc phục mặt yếu, phát huy mặt
mạnh của bản thân.
- Gia đình có vai trị giữ gìn, lưu truyền, phát triển văn hóa dân tộc:
Gia đình là nơi bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội.
Những giá trị truyền thống quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương, đùm bọc lẫn
nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù và sáng tạo trong lao động, bất khuất kiên cường
vượt qua mọi khó khăn thử thách đã được gia đình Việt Nam gìn giữ, vun đắp trong suốt quá
trình lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc và phát huy trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy chỉ

có thơng qua gia đình mới là con đường gần nhất, chắc chắn nhất để giáo dục, rèn luyện nhân
cách của mỗi con người để phát triển và đóng góp cho xã hội.
Qua lao động, qua việc xử lý các mối quan hệ hằng ngày hay thông qua các câu chuyện cổ tích,
qua các câu ca dao, tục ngữ, gia đình đã truyền thụ cho con trẻ những nét đẹp của truyền thống
gia đình, dịng họ, truyền thống văn hóa dân tộc. Từ đó mỗi cá nhân hình thành và bồi dưỡng
tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tính cộng đồng, lịng nhân ái, tinh thần tự lực, tự cường,
anh hùng trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hịa bình, chăm chỉ cần cù trong lao động sản
xuất…
Chiều ngày 15/8/2023, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ VH-TT&DL và Hội Khuyến học Việt
Nam tổ chức hội thảo về vai trị của gia đình, dịng họ trong xây dựng xã hội học tập góp phần
giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa và những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam trong thời
kỳ mới. Từ đó có thể đánh giá đúng vai trị của gia đình, dịng họ trong xây dựng xã hội học tập,
giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa và những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Hội thảo
đã mang lại ý nghĩa thiết thực khi góp phần triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhằm
7


phát huy sức mạnh con người Việt Nam, gắn với giữ gìn hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị quốc gia.
Hơn thế nữa, hội thảo còn là cơ sở quan trọng để Bộ VH-TT&DL nghiên cứu, lồng ghép mơ
hình gia đình học tập, dịng họ học tập vào bình xét gia đình văn hóa, tổ, ấp văn hóa.

Các đại biểu tại đầu cầu Quảng Nam theo dõi hội thảo. Ảnh: X.P

3. CHỨC NĂNG
 BỐN CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH
- Chức năng tái sản xuất con người
Đây là chức năng đặc thù của gia đình, khơng một cộng đồng nào có thể thay thế. Chức năng này
khơng chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con người, đáp ứng nhu cầu duy trì nịi
giống của gia đình, dịng họ mà cịn đáp ứng nhu cầu về sức lao động của xã hội.
Chức năng này bao gồm: tái sản xuất, duy trì nịi giống, ni dưỡng nâng cao thể lực, trí lực bảo

đảm tái sản xuất nguồn lao động và sức lao động cho xã hội
Việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người diễn ra trong từng gia đình, nhưng nó khơng
chỉ là việc việc riêng của gia đình mà là vấn đề xã hội. Bởi vì, nó quyết định đến mật độ dân cư
và nguồn lực lao động của một quốc gia và quốc tế, một yếu tố cấu thành của tồn tại xã hội.
Thực hiện chức năng này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển mọi mặt đời sống của xã hội.
Vì vậy, tùy theo từng nơi, phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội, chức năng này được thực hiện theo
xu hướng hạn chế hay khuyến khích. Trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, ảnh hưởng đến
chất lượng nguồn lực lao động mà gia đình cung cấp.
- Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
Đây là chức năng hết sức quan trọng
Bên cạnh chức năng sinh đẻ, gia đình cịn có trách nhiệm ni dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành
người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội.
Chức năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con cái, đồng thời thể
hiện trách nhiệm của gia đình với xã hội.

8


Thực hiện chức năng này, gia đình có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình thành nhân cách,
đạo đức, lối sống của mỗi người. Bởi vì, ngay khi sinh ra, trước tiên mỗi người đều chịu sự giáo
dục trực tiếp của cha mẹ và người thân trong gia đình. Những hiểu biết đầu tiên, mà gia đình
đem lại đều có ý nghĩa rất quan trọng đối với một đời người.Vì vậy, gia đình là một mơi trường
văn hóa, giáo dục, trong môi trường này, mỗi thành viên đều là những chủ thể sáng tạo những
giá trị văn hóa, chủ thể giáo dục đồng thời cũng là những người thụ hưởng giá trị văn hóa, và là
khách thể chịu sự giáo dục của các thành viên khác trong gia đình.
Chức năng ni dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đối với mỗi cá nhân trong
suốt cuộc đời, từ lúc còn bé cho đến khi trưởng thành và tuổi già. Mỗi cá nhân trong gia đình đều
có vị trí, vai trị nhất định trong việc giáo dục của gia đình.
Với chức năng này, gia đình góp phần to lớn vào việc đào tạo thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của xã
hội, cung cấp nguồn lao động để duy trì sự trường tồn của xã hội. Vì vậy, giáo dục của gia đình

gắn liền với giáo dục của xã hội. Nếu giáo dục của gia đình không gắn với giáo dục của xã hội,
mỗi cá nhân sẽ khó khắc khi hịa hợp với xã hội, và ngược lại, giáo dục của xã hội sẽ không đạt
được hiệu quả cao khi không kết hợp với giáo dục của gia đình, khơng lấy giáo dục của gia đình
là nền tảng.
Do vậy, để thực hiện tốt chức năng này địi hỏi những người làm cha mẹ phải có kiến thức cơ
bản, tương đối toàn diện về mọi mặt, nhất là phương pháp giáo dục

- Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Đây cũng là chức năng quan trọng của gia đình.
Cũng như các đơn vị kinh tế khác, gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản
sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Khác với các đơn vị kinh tế khác, gia đình cịn là
cộng đồng duy nhất, tham gia vào quá trình tái sản xuất ra sức lao động - một yếu tố không thể
thiếu trong quá trình sản xuất của xã hội.
Gia đình thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình về lao
động sản xuất cũng như sinh hoạt gia đình. Đó là việc sử dụng hợp lý các khoản thu nhập của các
thành viên trong gia đình vào việc đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên
cùng với việc sử dụng quỹ thời gian nhàn rỗi để tạo ra một mơi trường văn hóa lành mạnh trong
gia đình, nhằm nâng cao sức khỏe, đồng thời để duy trỉ sở thích, sắc thái riêng của mỗi người.
Ở mỗi hình thức gia đình tùy theo từng giai đoạn phát triển của xã hội, chức năng kinh tế của gia
đình có sự khác nhau, về quy mô sản xuất, sở hữu tư liệu sản xuất và cách thức tổ chức sản xuất
9


và phân phối. Vị trí, vai trị của kinh tế gia đình và mối quan hệ của kinh tế gia đình với các đơn
vị kinh tế khác trong xã hội cũng khơng hồn tồn giống nhau.
Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần
của các thành viên trong gia đình. Hiệu quả hoạt động kinh tế của gia đình quyết định hiệu quả
đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên gia đình. Đồng thời, gia đình đóng góp vào q
trình sản xuất và tái sản xuất ra của cải, sự giàu có của xã hội. Gia đình có thể phát huy một cách
có hiệu quả mọi tiềm năng của mình về vốn, về sức lao động, tay nghề của người lao động, tăng

nguồn của cải vật chất cho gia đình và xã hội.
Thực hiện tốt chức năng này, khơng những tạo cho gia đình có cơ sở để tổ chức tốt đời sống,
nuôi dạy con cái, mà cịn đóng góp to lớn đối với sự phát triển của xã hội.
- Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình
Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu tình cảm, văn hóa,
tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ chăm sóc sức khỏe người ốm,
người già, trẻ em.
Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm vừa
là trách nhiệm, đạo lý, lương tâm của mỗi người. Do vậy, gia đình là chỗ dựa tình cảm cho mỗi
người, là nơi nương tựa về mặt tinh thần chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất của con
người.
Với việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và
phát triển của xã hội. Khi quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình cảm trong xã hội cũng
bị phá vỡ.
 NGỒI RA, GIA ĐÌNH CỊN CĨ CHỨC NĂNG VĂN HĨA, CHỨC NĂNG
CHÍNH TRỊ…
- Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa của dân tộc cũng như tộc
người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của cộng đồng được thực hiện trong gia
đình. Gia đình khơng chỉ là nơi lưu giữ mà còn là nơi sáng tạo và thực hiện những giá trị đạo
đức, văn hóa.
- Với chức năng chính trị, gia đình là một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức thực hiện
chính sách, pháp luật của nhà nước và quy chế (hương ước) của làng xã và hưởng lợi từ hệ thống
pháp luật, chính sách và quy chế đó. Gia đình cũng là cầu nối của mối quan hệ giữa nhà nước với
công dân.
 SỰ BIẾN ĐỔI TRONG THỰC HIỆN CÁC CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Chức năng tái sản xuất con người
- Ngày nay, với những thành tựu của y học hiện đại, việc sinh đẻ được các gia đình tiến hành
một cách chủ động, tự giác khi xác định số lượng con cái và thời điểm sinh con. Hơn nữa, việc
sinh con cịn bị điều chỉnh bởi chính sách xã hội của Nhà nước, tùy theo tình hình dân số và nhu

cầu về sức khỏe lao động của xã hội.

10


-Ví dụ: Hiện nay, thực hiện kế hoạch hố gia đình nhằm hạn chế việc sinh đẻ ở mức hợp lý (mỗi
gia đình chỉ có từ một đến hai con để ni dạy con cho tốt). Vì tái sản xuất ra con người không
chỉ quan tâm tới số lượng mà cần chú ý chất lượng của thế hệ mai sau và thế hệ hiện tại (sức
khoẻ của người mẹ).

- Trong gia đình hiện đại, sự bền vững của hơn nhân phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố tâm lý,
tình cảm, kinh tế, chứ không phải chỉ là các yếu tố có con hay khơng con, có con trai hay khơng
có con trai như gia đình truyền thống. Nếu như trước kia, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán
và nhu cầu sản xuất nơng nghiệp, trong gia đình Việt Nam truyền thống, nhu cầu về con cái thể
hiện trên ba phương diện: phải có con, càng đơng con càng tốt và nhất thiết phải có con trai nối
dõi. Ngày nay, nhu cầu ấy đã có những thay đổi căn bản: thể hiện ở việc giảm mức sinh của phụ
nữ, giảm số con mong muốn và giảm nhu cầu nhất thiết phải có con trai của các cặp vợ chồng.
Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
- Chức năng giáo dục gia đình hiện nay phát triển theo xu hướng: đầu tư tài chính của gia đình
cho giáo dục con cái tăng lên. Nội dung giáo dục gia đình, dịng họ, làng xã, mà hướng đến giáo
dục kiến thức khoa học hiện đại, trang bị cơng cụ để con cái hịa nhập với thế giới.
- Tuy nhiên, sự phát triển của hệ thống giáo dục xã hội, cùng với sự phát triển kinh tế hiện nay,
vai trò giáo dục của các chủ thể trong gia đình có xu hướng giảm. Nhưng sự gia tăng của các
hiện tượng tiêu cực trong xã hội và nhà trường, làm cho sự kỳ vọng và niềm tin của các bậc cha
mẹ vào hệ thống giáo dục xã hội trong việc rèn luyện đạo đức, nhân cách cho con em của họ đã
giảm đi rất nhiều so với trước đây. Mâu thuẫn này là một thực tế chưa có lời giải hữu hiệu ở Việt
Nam hiện nay. Những tác động trên đây làm giảm sút đáng kể vai trị của gia đình trong thực
hiện chức năng xã hội hóa, giáo dục trẻ em ở nước ta thời gian qua.
- VD: Hiện tượng trẻ em hư, bỏ học sớm, lang thang, nghiện hút ma túy, mại dâm… cũng cho
thấy phần nào sự bất lực của xã hội và sự bế tắc của một số gia đình trong việc chăm sóc, giáo

dục trẻ em
Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
- Ở nước ta hiện nay, gia đình đã có những bước chuyển mang tính bước ngoặt: Một là,từ kinh tế
tự cấp thành kinh tế hàng hóa. Hai là, từ đơn vị kinh tế mà đặc trưng là sản xuất hàng hóa đáp
ứng nhu cầu của thị trường quốc gia thành tổ chức kinh tế của nền kinh tế thị trường hiện đại đáp
ứng nhu cầu của thị trường tồn cầu.
- Hiện nay, kinh tế hộ gia đình đang trở thành một bộ phận quan trọng. Tuy nhiên, trong bối cảnh
hội nhập kinh tế và cạnh tranh sản phẩm hàng hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới,
11


kinh tế hộ gia đình gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại trong việc chuyển sang hướng sản xuất kinh
doanh hàng hóa theo hướng chuyên sâu trong kinh tế thị trường hiện đại. Nguyên nhân là do kinh
tế hộ gia đình phần lớn có quy mơ nhỏ, lao động ít và tự sản xuất là chính.
- Sự phát triển của kinh tế hàng hóa và nguồn thu nhập bằng tiền của gia đình tăng lên làm cho
gia đình trở thành một đơn vị tiêu dùng quan trọng của xã hội. Các gia đình Việt Nam đang tiến
tới “tiêu dùng sản phẩm do người khác làm ra”, tức là sử dụng hàng hóa và dịch vụ xã hội.
Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm lý, duy trì tình cảm
- Trong xã hội hiện đại, độ bền vững của gia đình khơng chỉ phụ thuộc vào sự ràng buộc của các
mối quan hệ về trách nhiệm, nghĩa vụ giữa vợ và chồng; cha mẹ và con cái; sự hy sinh lợi ích cá
nhân cho lợi ích gia đình, mà nó cịn bị chi phối bởi các mối quan hệ hịa hợp tình cảm giữa
chồng và vợ; cha mẹ và con cái, sự đảm bảo hạnh phúc cá nhân, sinh hoạt tự do, chính đáng của
mỗi thành viên gia đình trong cuộc sống chung.
- Hiện nay, trong gia đình Việt Nam, nhu cầu thỏa mãn tâm lý – tình cảm đang tăng lên do gia
đình có xu hướng chuyển đổi từ chủ yếu là đơn vị kinh tế sang đơn vị tình cảm. Việc thực hiện
chức năng là một yếu tố rất quan trọng tác động đến sự tồn tại, bền vững của hơn nhân và hạnh
phúc gia đình, đặc biệt là bảo vệ chăm sóc trẻ em và người cao tuổi, nhưng hiện nay, các gia đình
đang đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biệt, trong tương lai gần, khi mà tỷ lệ các
gia đình chỉ có một con tăng lên thì đời sống tâm lý - tình cảm của nhiều trẻ em và kể cả người
lớn cũng sẽ kém phong phú hơn, do thiếu đi tình cảm về anh, chị em trong cuộc sống gia đình.

- Tác động của cơng nghiệp hóa và tồn cầu hóa dẫn tới tình trạng phân hóa giàu nghèo sâu sắc,
làm cho một số hộ gia đình có cơ may mở rộng sản xuất, tích lũy tài sản, đất đai, tư liệu sản xuất
thì trở nên giàu có, trong khi đại bộ phận các gia đình trở thành lao động làm thuê do khơng có
cơ hội phát triển sản xuất, mất đất đai và các tư liệu sản xuất khác, khơng có khả năng tích lũy tài
sản, mở rộng sản xuất. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, khắc phục khoảng cách
giàu nghèo đang có xu hướng ngày càng gia tăng.
- Cùng với đó, vấn đề đặt ra là cần phải thay đổi tâm lý truyền thống về vai trị của con trai, tạo
dựng quan niệm bình đẳng giữa con trai và con gái trong trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc cha
mẹ già và thờ phụng tổ tiên.
+ Nhà nước cần có những giải pháp, biện pháp nhằm bảo đảm an tồn tình dục, giáo dục giới
tính và sức khỏe sinh sản cho các thành viên sẽ là chủ gia đình tương lai

12


Viện Nghiên cứu khoa học kết hợp Sở GD TPHCM tổ chức các hoạt động giáo dục giới tính cho trẻ
từ 5 tuổi.

+ Nhà nước cần có những giải pháp, biện pháp nhằm củng cố chức năng xã hội hóa của gia đình,
xây dựng những chuẩn mực và mơ hình mới về giáo dục gia đình, xây dựng nội dung và phương
pháp mới về giáo dục gia đình, giúp cho các bậc cha mẹ có định hướng trong giáo dục và hình
thành nhân cách trẻ em;
+ Nhà nước cần có những giải pháp, biện pháp nhằm giải quyết thỏa đáng mâu thuẫn giữa nhu
cầu tự do, tiến bộ của người phụ nữ hiện đại với trách nhiệm làm dâu theo quan niệm truyền
thống, mâu thuẫn về lợi ích giữa các thế hệ, giữa cha mẹ và con cái. Nó địi hỏi phải hình thành
những chuẩn mực mới, bảo đảm sự hài hịa lợi ích giữa các thành viên trong gia đình cũng như
lợi ích giữa gia đình và xã hội.

4. CƠ SỞ KHOA HỌC GIA ĐÌNH
Cơ sở kinh tế - xã hội

Là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng trình độ của lực lượng sản xuất là quan hệ
sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa
Cốt lõi của quan hệ sản xuất mới ấy là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất
từng bước hình thành và củng cố thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ sở làm cho hôn nhân được thực hiện dựa trên
cơ sở tình u chứ khơng phải vì lý do kinh tế, địa vị xã hội hay một sự tính tốn nào khác.
Cơ sở chính trị - xã hội
Là việc thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhà nước
xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống pháp luật và chính sách xã hội vừa định hướng vừa thúc đẩy quá trình hình thành gia
đình mới trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Chừng nào và ở đâu, hệ thống chính sách,
pháp luật chưa hồn thiện thì việc xây dựng và đảm bảo hạnh phúc gia đình cịn hạn chế.
Cơ sở văn hóa
Là xây dựng những giá trị văn hố mới trên nền tảng hệ tư tưởng chính trị của giai cấp cơng
nhân; xóa bỏ những yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, lối sống lạc hậu.
Thiếu đi cơ sở văn hóa, hoặc cơ sở văn hóa khơng đi liền với cơ sở kinh tế, chính trị, thì việc xây
dựng gia đình sẽ lệch lạc, khơng đạt hiệu quả cao.
Chế độ hôn nhân tiến bộ
 Hôn nhân tự nguyện
Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân xuất phát từ tình yêu giữa nam và nữ. Ph. Ăngghen nhấn mạnh:
“...nếu nghĩa vụ của vợ và chồng là phải thương yêu nhau thì nghĩa vụ của những kẻ yêu nhau há
chẳng phải là kết hôn với nhau và không được kết hôn với người khác".

13


Hôn nhân tự nguyện là đảm bảo cho nam nữ có quyền tự do trong việc lựa chọn người kết hôn,
không chấp nhận sự áp đặt của cha mẹ. Tất nhiên, hôn nhân tự nguyện không bác bỏ việc cha mẹ
quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ con cái có nhận thức đúng, có trách nhiệm trong việc kết hơn.
Cịn bao hàm cả quyền tự do ly hôn. Ph. Ăngghen viết: “Nếu chỉ riêng hơn nhân dựa trên cơ sở

duy trì, mới là hợp đạo đức mà thơi... và nếu tình u đã hồn tồn phai nhạt hoặc bị một tình
u say đắm mới át đi, thì ly hơn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như cho xã hội”.
Tuy nhiên, khơng khuyến khích việc ly hơn, cần ngăn chặn hiện tượng lợi dụng quyền ly hôn và
những lý do ích kỷ hoặc vì mục đích vụ lợi.
 Hơn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng
Thực hiện hôn nhân một vợ một chồng là điều kiện đảm bảo hạnh phúc gia đình, đồng thời cũng
phù hợp với quy luật tự nhiên, phù hợp với tâm lý, tình cảm, đạo đức con người.
Thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng là thực hiện sự giải phóng đối với phụ nữ, thực
hiện sự bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng.
Quan hệ vợ chồng bình đẳng là cơ sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha mẹ với con cái và
quan hệ giữa anh chị em với nhau.
Do vậy, giải quyết mâu thuẫn trong gia đình là vấn đề cần được quan tâm của mọi người.
 Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý
Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân, là thể hiện sự tơn trọng trong tình tình u, trách
nhiệm giữa nam và nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội và ngược lại.

I.

SO SÁNH
1. SO SÁNH VỚI NƯỚC NGỒI

- Tư duy gia đình bị ảnh hưởng bởi chính trị:
Phương Tây: gia đình được coi là một tổ chức xã hội riêng biệt, có ranh giới rõ ràng với xã hội
bên ngồi. Người phương Tây có tư duy cá nhân, coi trọng sự độc lập, tự chủ của mỗi cá nhân.
Gia đình là nơi con người sinh ra và lớn lên, nhưng mỗi cá nhân có quyền lựa chọn cuộc sống
của riêng mình.
Phương Đơng: gia đình được coi là một tế bào cơ bản của xã hội. Người phương Đơng có tư duy
tập thể, coi trọng sự đồn kết, gắn bó giữa các thành viên trong gia đình.
- Vai trị và trách nhiệm của gia đình
Phương Đơng: Gia đình phương Đơng thường có vai trị và trách nhiệm xã hội cao đối với các

thành viên. Con cái thường phụ thuộc vào bố mẹ hỗ trợ và họ cũng có trách nhiệm sẽ chăm sóc
cha mẹ khi về già cho tới khi họ chết đi, sau đó cha mẹ sẽ trở thành linh hồn, tổ tiên để con cháu
tôn thờ và sùng bái về sau
Phương Tây: Gia đình Phương Tây thường khuyến khích sự độc lập cá nhân và con cái có thể rời
khỏi gia đình khi đủ 18 tuổi. Vai trị xã hội của gia đình có thể ít hơn và tập trung nhiều hơn vào
cách ni dạy con. Bên cạnh đó cũng có nhận định rằng con cái thường tập trung vào chủ nghĩa
cá nhân, hưởng thụ tuổi trẻ, bận rộn phát triển sự nghiệp, ni con và chăm sóc bản thâm , do đó
14


họ thể hiện ít sự quan tâm, chăm sóc đối với các cha mẹ già , có xu hướng đưa cha mẹ đến các
viện dưỡng lão
- Quan điểm về hôn nhân và tình u
Phương Đơng: Gia đình phương Đơng thường đặt trọng tình u gia đình và sự đồn kết gia
đình hơn là tình u đơi lứa. Hơn nhân thường dựa trên sự lựa chọn của gia đình và truyền thống
gia đình. Ở một số vùng phương Đơng, có một áp lực xã hội mạnh mẽ với việc duy trì truyền
thống gia đình và tơn trọng quy tắc xã hội. Việc có con trước khi kết hơn có thể bị coi là vi phạm
quy tắc xã hội hoặc gây ra sự phê phán từ cộng đồng và gia đình
Phương Tây: Gia đình phương Tây thường tơn trọng tình u đơi lứa và sự lựa chọn cá nhân
trong hôn nhân. Sự lãng mạn và tình yêu cá nhân thường được coi trọng hơn. Việc có con trước
khi kết hơn có thể được coi là một quyết định cá nhân và không bị cấm, ngồi ra cịn được sự hỗ
trợ xã hội và các dịch vụ hỗ trợ cho người có con trước khi kết hơn.
- Quan điểm về vai trị giới tính
Phương Đơng: Một số văn hóa Đơng Á, truyền thống gia đình có thể có quy tắc rõ ràng về vai
trị giới tính, với sự tơn trọng đối với sự phân chia cơng việc gia đình truyền thống. Ví dụ phụ nữ
phải ở nhà nấu cơm và chăm con, đàn ông phải đi làm, kiếm tiền, lo cho gia đình
Phương Tây: Quan điểm này đã phát triển nhiều về bình đẳng giới tính và sự chia sẻ cơng việc
trong gia đình. Sự đa dạng và linh hoạt trong vai trị giới tính thường được thúc đẩy
- Quan điểm về quyền riêng tư của con cái
Phương Tây: Cha mẹ tôn trọng quyền riêng tư của con cái ở mức độ cao nhất, họ không mở thư

từ riêng tư hay kiểm tra tin nhắn điện thoại riêng tư của con cái
Phương Đông: Các bậc cha mẹ phương đơng có thể có sự kiểm soát đối với quyền riêng tư của
con cái, họ có thể mở thư của con cái trước một cách tự nhiên và sau đó trả lại cho chúng sau.

2. SO SÁNH VỚI CHÍNH MÌNH Ở Q KHỨ
CẤU TRÚC GIA ĐÌNH QUA CÁC THỜI KÌ
Đi cùng với sự phát triển của xã hội, gia đình Việt Nam từ xưa đến nay cũng bắt đầu có nhiều
biến đổi. Sự biến đổi này đến từ nhiều yếu tố bên trong lẫn bên ngồi. Rõ ràng nhất chính là cấu
trúc gia đình và tư duy gia đình

 Thời xưa :
Cấu trúc gia đình mở rộng:
Gia đình thường có cấu trúc mở rộng, trong đó nhiều thế hệ sống chung trong cùng một ngơi nhà
hoặc gần nhau.
Có thể thấy quy mơ giai đoạn này thường là những gia đình tam đại đồng đường ( 3 thế hệ, ông
bà cha mẹ và con cái), tứ đại đồng đường ( gia đình 4 thế hệ : ông cố đến chắt ). Được xem là
một cách duy trì truyền thống và giữ vững đại gia đình. Xuất phát từ quan niệm riêng biệt trong
nền văn hoá phương Đông, nhiều thế hệ.Xuất hiện nhiều mâu thuẫn gay gắt giữa cái mối quan
hệ, như mẹ chồng nàng dâu, chị em chồng,...
15


Mơ hình gia đình này ln đề cao việc gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống, nghi lễ, tập tục,
đạo đức, gia phong, mọi thành viên trong gia đình sống có tơn ti trật tự chặt chẽ.

Vai trị trong gia đình: Vai trị của nam và nữ thường được xác định theo các vai trò truyền
thống. Nam thường đảm nhận vai trị chủ trương tài chính và bảo vệ gia đình, trong khi nữ
thường chịu trách nhiệm chăm sóc con cái và làm việc trong gia đình.

 Ngày nay

Cấu trúc gia đình hẹp hơn:
Quy mơ gia đình được thu hẹp lại, thường là gia đình hạt nhân chỉ bao gồm thế hệ : cha mẹ và
con cái. Con cái khi đến độ tuổi 18,20 cũng sẽ tự lập và ở riêng. Số lượng con cái cũng được
giảm tối thiểu, thường là 1-2 đứa con trong một gia đình. Bên cạnh tư tưởng thay đổi còn là
những nguyên nhân khách quan khác như kế hoạch hố gia đình,... Điều này cũng dẫn tới mâu
thuẫn gia đình ít xảy ra hơn.
Vai trị trong gia đình: Vai trị giới trong gia đình đã thay đổi đáng kể. Nam và nữ có cơ hội bình
đẳng hơn trong việc làm và chăm sóc con cái. Nữ có thể tham gia vào lực lượng lao động ngồi
trời và nam có thể tham gia vào cơng việc chăm sóc con cái và cơng việc nhà.
 Tích cực: Mỗi một thành viên trong gia đình, chứ khơng chỉ riêng lớp trẻ, đều muốn được
có khoảng khơng gian riêng, thoải mái để làm những gì mình thích, không phải bận tâm
đến sự nhận xét của người khác. Do có cơng ăn việc làm ổn định, con cái đến tuổi kết hôn
cũng không phải phụ thuộc kinh tế nhiều vào cha mẹ, từ đó sẽ nảy sinh ra nhu cầu ở riêng
cho thuận tiện về sinh hoạt. Mặt khác, việc duy trì gia đình truyền thống sẽ kìm hãm sự tự
do, làm cho cái tơi, cá tính riêng, năng lực của con người khơng có cơ hội phát triển, dẫn
đến sự thiếu hụt về lực lượng nhân tài cho đất nước trong thời buổi cơng nghiệp hóa hiện
đại hóa. Vậy, rõ ràng là quy mơ gia đình Việt Nam ngày càng thu nhỏ để đáp ứng những
nhu cầu và điều kiện của thời đại mới đặt ra. Bên cạnh đó, nó cũng thay đổi chính xã hội
hay những giá trị của xã hội, làm cho sự bình đẳng nam nữ được đề cao hơn, cuộc sống
riêng tư của con người được tôn trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời sống
của gia đình truyền thống.

16


 Tiêu cực: Các thành viên ít quan tâm lo lắng đến nhau và giao tiếp với nhau hơn, làm cho
mối quan hệ gia đình trở nên rời rạc, lỏng lẻo... Đó là mặt hạn chế của gia đình hiện đại
so với gia đình truyền thống xưa. Chính sự coi trọng kinh tế, đặt kinh tế lên hàng đầu ấy
đã làm cho những giá trị tốt đẹp xưa của gia đình bị phai nhạt dần, thậm chí cịn dễ dẫn
tới các hệ lụy xấu. Có thể lấy ví dụ về việc chăm sóc và giáo dục trẻ em trong gia đình nơi được coi là mơi trường xã hội hóa đầu tiên của mỗi con người. Một đứa trẻ được sinh

ra và lớn lên trong gia đình truyền thống định hình nhân cách bằng sự quan tâm giáo dục
dạy bảo thường xuyên của ông bà cha mẹ ngay từ khi rất nhỏ. Cịn trong gia đình hiện
đại, việc giáo dục trẻ em gần như được phó mặc hồn tồn cho nhà trường mà thiếu đi sự
chăm sóc, dạy dỗ của cha mẹ. Chính điều đó đã gây ra hiện trạng có nhiều trẻ em lang
thang, phạm tội hay rơi vào các tệ nạn xã hội. Hay như người cao tuổi trong gia đình,
trước đây họ được sống cùng với con cháu, vì vậy mà nhu cầu về tâm lý, tình cảm được
đáp ứng đầy đủ. Cịn khi quy mơ gia đình bị biến đổi, người cao tuổi phải đối mặt với sự
cơ đơn thiếu thốn về tình cảm, trong khi tuổi già cần nhất là được vui vầy bên con cháu,
được chăm sóc khi ốm đau bệnh tật. Họ ln có nguy cơ bị đẩy ra viện dưỡng lão, trung
tâm hay các dịch vụ chăm sóc sức khỏe chứ khơng nhận được nhiều sự quan tâm của
người thân trong gia đình.
TƯ DUY GIA ĐÌNH

 Thời xưa: Gia Đình Việt Nam Truyền Thống Chịu Ảnh Hưởng Của Nho Giáo
Ảnh hưởng từ tư tưởng Nho giáo ( thời Lý), Nho giáo không chỉ ảnh hưởng tới xã hội, mà còn
ảnh hưởng tới sâu trong tâm trí cũng như tư tưởng của các đại gia đình trong thời kỳ phong kiến
cho đến hiện nay. Trong công cuộc cai trị đất nước, các triều đều đặc biệt chú trọng đến vấn đề
gia đình, đều coi gia đình là cơ sở quan trọng bậc nhất để tạo lập kỷ cương và ổn định xã hội. Tề
gia và trị quốc là hai công việc gắn liền nhau: gốc của thiên hạ tại nước, gốc của nước là tại gia
đình. Các nhà nước từ Lê đến Nguyễn đều đề cao quan niệm hiếu làm một nguyên tắc trị nước.


Chữ hiếu (Quan hệ cha mẹ - con cái)

- Phụng dưỡng cha mẹ: Công việc của đạo hiếu trước hết thể hiện ở việc con cháu phải nuôi
dưỡng cha mẹ, ông bà. Đây là yêu cầu tối thiểu của mỗi thành viên trong gia đình. Lúc người già
đau yếu phải có thuốc men đầy đủ, gặp khi tang lễ phải thực hiện thật chu đáo, trọn vẹn. Đối với
quan lại, khi cần thiết phải bỏ chức vị trở về q nhà chăm sóc ơng bà, cha mẹ
Hiếu vốn là tinh thần, là nội dung của đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam hình thành từ rất
xa xưa trong phong tục và tín ngưỡng như “thờ cúng tổ tiên”, “trọng lão”, nhưng về sau lại được

giáo lý Nho giáo khẳng định thêm sâu sắc, chi tiết và thể chế hóa thành luân lý xã hội. Kẻ bất
hiếu được xem là xấu xa nhất, có tội danh trong pháp luật.
- Con cái phải nghe theo lời cha mẹ: “áo mặc không qua khỏi đầu”
- Cha mẹ quyết định hôn nhân: Khi nói đến tình u và hơn nhân của người Việt thuở trước,
người ta hay nhắc đến câu “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, đấy cũng là một biểu hiện của việc
người con kính trọng cha mẹ mình. Ta thấy ngày xưa chuyện hệ trọng nhất đời người là hơn sự,
nhưng con cái chỉ đóng vai trị thụ động, chứ khơng có quyền quyết định lựa chọn theo ý mình.
Với những cuộc hơn nhân khơng xây dựng trên tình yêu mà do sắp xếp của cha mẹ, có nhiều
người bất mãn, đau khổ.
17


“Em có chồng về xứ Bạc Liêu
Để anh ở lại như tiêu nát nghiền”
hay
“Người ta sang sông, em cũng sang sông,
Người ta sang sông thành được vợ chồng,
Em sang không rồi lại xách nón về khơng,
Trước là thẹn thùng với bầu bạn, sau luống cơng ơng chèo đị.”
Nhưng cũng có người tìm được hạnh phúc và ổn định trong hơn nhân mang tính “may rủi” này:
Chẳng hạn như Lương Văn Can, năm 21 tuổi thì đỗ cử nhân; sau, vì bố mất, nên ông không đi thi
Hội nữa. Sau khi đỗ cử nhân gia đình đã đi hỏi, cưới vợ cho Lương Văn Can, chỉ biết tên là Lê
Thị Lễ con gái tú tài Lê Anh Sơn ở làng Bình Vọng, chứ hai người chưa quen biết gì nhau. Tuy
vậy, về chung sống với nhau, hai người đã thật sự hạnh phúc, và đã cùng nhau vượt qua rất nhiều
gian nan, khổ nạn do thời cuộc đưa đến.
- Phong tục thờ cúng: Hiếu với cha mẹ thì cũng phải hiếu với ơng bà tổ tiên, cội nguồn của
mình.. Đã là người Việt thì từ xa xưa cho tới hiện nay đều có tục thờ cúng tổ tiên. Tục lệ này rải
đều trong cả năm như thường xuyên nhắc nhở mọi người. Trong gia đình thì bàn thờ tổ tiên được
đặt ở gian giữa; trong dịng họ thì có nhà thờ riêng biệt; hoặc nếu họ nhỏ ít người thì nhà thờ khá
to, còn đặt thủ từ chăm nom. Việc thờ cúng tổ tiên, giữ gìn mồ mả nghiêm chỉnh, tang tế cẩn

thận và lập nhà thờ đều là biểu hiện của đạo hiếu
Tuy nhiên, Đạo hiếu Nho giáo ở Việt Nam có một số điểm khơng giống như ở Trung Quốc. Hiếu
ở Trung Quốc được tuyệt đối hóa như lý trí tiên thiên → hiện tượng ngu hiếu. Ở Việt Nam khơng
phải khơng có màu sắc như vậy, nhưng ít hơn, nhạt hơn.


Quan hệ vợ chồng (không hà khắc bằng Trung Quốc)

- Địa vị người phụ nữ: Quan hệ vợ chồng trong gia đình Nho giáo truyền thống, nhất là các gia
đình quan lại thượng lưu theo truyền thống dọc. Cái gọi là “tam tòng” đã đặt người phụ nữ vào
địa vị thấp nhất trong gia đình. Tam tịng: “Ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết
theo con. Nho giáo dạy người phụ nữ về nhà chồng phải kính nhường giữ mình cho khéo đừng
trái ý chồng. Tứ đức bao gồm: Phụ dung là dáng người đàn bà, dáng phải chính đính hịa nhã,
nhưng cũng phải chải chuốt cho gọn gàng sạch sẽ. Phụ công: việc nữ công, gia chánh phải
khéo léo. Tuy nhiên các nghề với phụ nữ ngày xưa chủ yếu là may, vá, thêu, dệt, bếp núc,
bn bán, với người phụ nữ giỏi thì có thêm cầm kỳ thi họa. Phụ ngôn là lời ăn tiếng nói của
người đàn bà, ăn nói phải khoan thai, dịu dàng; đừng câu cẩu mà cũng đừng the thé, quý hồ mềm
mỏng cho ai cũng dễ nghe. Phụ hạnh là nết na người đàn bà, nết na thì đến trên kính dưới
nhường, ở trong nhà chiều chồng thương con, và lấy nết hiền hậu mà ở với anh em họ hàng nhà
chồng. Ra ngồi thì nhu mì chín chắn, không hợm hĩnh mà cũng không cay nghiệt với ai. Chuẩn
mực Tứ đức “công, dung, ngôn, hạnh”, mà người phụ nữ cần phải vươn tới, như là món đồ trang
sức trong mỗi gia đình Nho giáo phụ quyền, để rồi tứ đức đó lại truyền cho con gái, tiếp nối vòng
đời tam tòng tứ đức khác.
- Địa vị người nam: quyền người chồng bao giờ cũng nặng hơn quyền vợ.
18


Tiền của, của hai vợ chồng làm ra, hoặc của người chồng hay là do người vợ làm ra, cũng gọi là
của chồng cả. Người vợ được cho là phải phụ thuộc vào chồng nhiều: “Trai tay không chẳng
phải nhờ vợ/ Gái trăm mẫu ruộng vẫn phải nhờ chồng” .

Người đàn ông được tự do, nghĩa là muốn chơi bời gì thì chơi, muốn đi lại đâu thì đi lại, người
vợ khơng có quyền ngăn cấm được, mà vợ hơi có điều gì trái gia pháp thì chồng có thể chửi
được. Chồng có thể lấy năm, bảy vợ, mà vợ chỉ được phép lấy một chồng.
- Nuôi dạy con: Vợ chồng ngày xưa thường muốn có con sớm, sinh nhiều con : “ Trời sinh voi,
trời sinh cỏ” “Đông con hơn nhiều của” và quan niệm gia đình cần phải sinh con trai để nối dõi
tông đường. Nếu lỡ cặp vợ chồng nào khơng có con, chẳng những có lỗi với ơng bà cha mẹ, mà
cịn đeo đẳng một nỗi buồn tủi, vì khơng được phúc đức của ơng bà để lại, quan niệm phúc đức
một thời đã rất quan trọng nơi người Việt, “cha mẹ ăn ở hiền lành để đức cho con”; “đời cha ăn
mặn đời con khát nước,”



Gia đình là giá trị quan trọng:

Con người vừa mới sinh ra đã phải là con người có hiếu và thuận hịa, rồi lấy vợ, lấy chồng
nhanh chóng chuyển sang là cha mẹ tốt, cả cuộc đời đều hiến thân cho gia đình, lấy cơng việc
xây dựng gia đình (đơng con, giàu có, danh tiếng, thương yêu nhau) làm hạnh phúc cho chính
bản thân mình. Hạnh phúc và danh dự cá nhân được gắn chặt với hạnh phúc và danh dự gia đình.
Đó là một phần lý do mà tỷ lệ tan vỡ các gia đình khơng nhiều.

 Ngày nay:

19


Gia đình Việt Nam hiện đại đã có sự thay đổi lớn về tư duy gia đình so với ở thời kì phong kiến.
Ở Việt Nam, từ những thập kỷ cuối của thế kỷ XX đến nay, sự phát triển kinh tế - xã hội và sự
thay đổi mạnh mẽ của gia đình và xã hội đã đem lại nhiều thay đổi về chất của vấn đề giới và
phụ nữ, người phụ nữ được giải phóng khỏi những “xiềng xích vơ hình” của xã hội cũ. Một minh
chứng rõ ràng đó là chế độ hơn nhân một vợ một chồng thay vì đàn ơng năm thê bảy thiếp. Vậy

nên quyền quyết định trong gia đình sẽ thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Họ ngày càng
được đối xử bình đẳng hơn và có nhiều điều kiện để phát triển, nâng cao vị thế xã hội của mình;
vai trị của họ trong cuộc sống, trong sản xuất,... ngày càng trở nên quan trọng hơn, gánh nặng
gia đình cũng dần được chia sẻ từ hai phía. Nếu gia đình được coi là tế bào của xã hội thì người
phụ nữ được coi là hạt nhân của tế bào này. Việt Nam là một trong những quốc gia hoàn thành
sớm nhất Mục tiêu thiên niên kỷ về bình đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ và hiện đang
nỗ lực thực hiện Chương trình nghị sự về Phát triển bền vững 2030, trong đó có các mục tiêu về
thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái.
Nguồn gốc của sự áp bức bóc lột và bất bình đẳng trong xã hội và gia đình dần dần bị xóa bỏ, tạo
cơ sở kinh tế cho việc xây dựng quan hệ bình đẳng trong gia đình và giải phóng phụ nữ trong xã
hội. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là xóa bỏ nguồn gốc gây nên tình trạng thống trị
của người đàn ơng trong gia đình, sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, sự nổ dịch
đối với phụ nữ. Bởi vì sự thống trị của người đàn ơng trong gia đình là kết quả sự thống trị của
họ về kinh tế, sự thống trị đó tự nó sẽ tiêu tan khi sự thống trị về kinh tế của đàn ơng khơng cịn.
Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đồng thời cũng là cơ sở để biến lao động tư nhân trong
gia đình thành lao động xã hội trực tiếp, người phụ nữ dù tham gia lao động xã hội hay tham gia
lao động gia đình thì lao động của họ đóng góp cho sự vận động và phát triển, tiến bộ của xã hội.


Quan hệ vợ chồng: “LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH” quy định chế độ hơn nhân và
gia đình thời hiện đại với nguyên tắc cơ bản, đầu tiên là: Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ,
một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

Thực hiện chế độ hơn nhân một vợ một chồng là thực hiện sự giải phóng đối với phụ nữ, thực
hiện sự bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng. Trong đó vợ và chồng đều có quyền lợi
và nghĩa vụ ngang nhau về mọi vấn đề của cuộc sống gia đình. Vợ và chồng được tự do lựa chọn
những vấn đề riêng, chính đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập và một số nhu cầu
khác v.v... Đồng thời cũng có sự thống nhất trong việc giải quyết những vấn đề chung của gia
đình như ăn, ni dạy con cái... nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc. Trong thời đại mới, bên
cạnh vai trị làm vợ, làm mẹ trong gia đình, người phụ nữ còn tiếp tục khẳng định và phát huy vai

trò của mình đối với sự phát triển của xã hội, tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội. Họ đã
không ngừng nghiên cứu, trau dồi tri thức và khơng ít người đã đạt đến những địa vị rất cao
trong mọi lĩnh vực. Trong lĩnh vực kinh tế, tính đến năm 2020, Việt Nam là một trong 20 thị
trường doanh nhân nữ phát triển thuận lợi, mạng lưới doanh nghiệp nữ hoạt động hiệu quả nhất
ASEAN. Theo số liệu của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cứ 04 doanh nghiệp tư nhân thì có 01
doanh nghiệp có nữ giới tham gia quản lý doanh nghiệp, họ đã đóng góp 40% của cải cho nền
kinh tế. Đến nay, những tấm gương về các doanh nhân nữ thành công trên thương trường và tạo
lập được những thương hiệu, sản phẩm nổi tiếng của Việt Nam không chỉ ra khu vực mà trên
tồn thế giới có thể kể đến những cái tên như: Mai Kiều Liên - Vinamilk, Nữ doanh nhân Thái
Hương - TH True milk, Nguyễn Thị Phương Thảo – CEO Vietjet Air…Đặc biệt, về lĩnh vực
chính trị có 01 đồng chí nữ hiện đang giữ vị trí Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam – Đồng chí Võ Thị Ánh Xuân và nhiều đồng chí giữ những chức vụ trong đội ngũ cán
bộ nữ trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Ngày nay, người ta gần như khơng cịn
20



×