BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Nguyễn Thị Thục
DI SẢN VĂN HÓA VÙNG HÀM RỒNG
Ở TỈNH THANH HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Nguyễn Thị Thục
DI SẢN VĂN HÓA VÙNG HÀM RỒNG
Ở TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62 31 06 40
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGUYỄN CHÍ BỀN
Hà Nội - 2014
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, bản Luận án tiến sĩ: DI SẢN VĂN
HÓA VÙNG HÀM RỒNG Ở TỈNH THANH HÓA là do tôi viết.
Các số liệu, trích dẫn, tư liệu trong luận án đảm bảo độ tin cậy,
chính xác, trung thực, có dẫn nguồn cụ thể. Tôi xin chịu trách
nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả
Nguyễn Thị Thục
2
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN 1
MỤC LỤC 2
MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ VÙNG VĂN HÓA VÀ DI SẢN VĂN HÓA 11
1.1. Lý thuyết về vùng văn hóa 11
1.2. Lý thuyết về DSVH 23
Tiểu kết chương 1 42
CHƯƠNG 2: DI SẢN VĂN HÓA Ở VÙNG HÀM RỒNG 44
2.1. Nhận diện vùng Hàm Rồng 44
2.2. Di sản văn hóa vật thể vùng Hàm Rồng 46
2.3. DSVH phi vật thể vùng Hàm Rồng 77
Tiểu kết chương 2 99
CHƯƠNG 3: BÀN LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 101
3.1. Hàm Rồng - một vùng văn hóa 101
3.2. Kiến nghị 123
Tiểu kết chương 3 135
KẾT LUẬN 136
MỘT SỐ CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 141
TÀI LIỆU THAM KHẢO 142
3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN ÁN
BSVHDT: Bản sắc văn hóa dân tộc
BTCVHL: Bảo tàng cổ vật Hoằng Long
CNH - HĐH: Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
DSVH : Di sản văn hóa
GS: Giáo sư
KHKT: Khoa học kỹ thuật
KHXH: Khoa học xã hội
KHXH & NV: Khoa học xã hội và nhân văn
Nxb: Nhà xuất bản
NCKH Nghiên cứu khoa học
TS: Tiến sĩ
TSKH: Tiến sĩ khoa học
TƯ: Trung ương
UBND: Uỷ ban nhân dân
VHDT Văn hóa dân tộc
VHNT Văn hóa Nghệ thuật
VHTT: Văn hóa - Thông tin
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong tâm thức của người đương đại, Hàm Rồng là một địa danh đặc biệt ở xứ
Thanh, được ghi nhớ với những chiến công vang dội trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Ngược dòng lịch sử, ít người biết rằng nơi đây từng là một trong
những cái nôi của loài người, sự hiện diện của các dấu vết khảo cổ học từ trước công
nguyên: di chỉ khảo cổ học Núi Đọ (cách chúng ta khoảng 20 vạn năm); di tích khảo
cổ học Đông Sơn nổi tiếng thời kỳ đồng thau và sắt sớm Những cứ liệu khảo cổ học
ít nhiều cho phép nhận diện bức tranh về một vùng Hàm Rồng rộng lớn mà người
Việt cổ di chuyển xuống chiếm lĩnh đồng bằng sông Mã. Đó là sự di chuyển từ hang
Con Moong (Thạch Thành), Mái Đá Điều (Bá Thước) tiến xuống vùng núi Đọ ngày
nay. Sự di chuyển cho thấy ba vùng tiếp biến văn hóa: Mái đá Điều - hang Con Mong
- núi Đọ, trong đó, núi Đọ là địa điểm người Việt cổ định cư lâu nhất. Tiến xuống ven
biển là di chỉ khảo cổ học Đa Bút, điểm nhấn minh chứng con người không chỉ dừng
lại ở vùng đồng bằng mà đã tiến dần xuống các vùng ven biển rồi tụ cư ven các cửa
sông, cửa biển, các con rạch. Trong quá trình di chuyển, sông Mã đã trở thành con
đường thiên lý quan trọng, khi ở giai đoạn đương thời chưa có thêm những con
đường khác hữu dụng hơn. Sau công nguyên, Hàm Rồng trở thành tâm điểm của
nhiều cuộc tranh giành giữa các thế lực trong nước, chiến tranh liên miên, loạn lạc
kéo dài cho đến thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ. Lịch sử đi qua, lặng đọng lại trong
vùng nhiều giá trị văn hóa tiêu biểu, mang tính liên tục, có thể nhận biết qua hệ thống
DSVH đang hiện tồn. Lớp áo thời gian đã làm cho DSVH có sức mạnh bền vững.
Những phần nhiều, người đương thời chỉ nhớ và đề cao các chiến công, giá trị lịch sử
- văn hóa của giai đoạn cận - hiện đại. Giá trị văn hóa thuộc về những lát cắt đồng đại
ở giai đoạn cổ - trung đại chưa được xem xét đúng tầm.
Hàm Rồng có cảnh quan sinh thái hội tụ đầy đủ các yếu tố núi, đồng bằng,
ven biển, mang tính đại diện cho cảnh quan sinh thái xứ Thanh. Sự hấp dẫn của
cảnh quan sinh thái nơi đây đã được ghi nhận qua nhiều bài viết đăng trên các tạp
5
chí, kỷ yếu hội thảo khoa học, nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào đặt cảnh
quan sinh thái trong mối quan hệ với DSVH trong vùng. Việc đặt ra vấn đề nghiên
cứu tổng thể DSVH vùng Hàm Rồng có một ý nghĩa lý luận, thực tiễn quan trọng,
khẳng định những giá trị văn hóa được tiếp nối liên tục tại một vùng đặc biệt ở xứ
Thanh. Từ cảnh quan sinh thái, giá trị lịch sử, giá trị DSVH có thể có cùng một mẫu
số của nền văn minh Đông Sơn vùng hạ lưu sông Mã đã tích tụ lại ở đây.
Tốc độ đô thị hóa, việc mở rộng không gian thành phố Thanh Hóa cộng với
quá trình hội nhập sâu rộng trên nhiều bình diện phần nào đang phá vỡ cảnh quan
sinh thái tự nhiên, làm mai một, xuống cấp hệ thống DSVH trong vùng. Với những
gì đang diễn ra hiện nay rất dễ làm DSVH bị tổn thương và biến mất theo thời gian.
Một Hàm Rồng “danh giá” đang đứng trước những nỗi lo về hậu quả xấu sẽ diễn ra
trong tương lai khi các cấp quản lý chưa có phương án hợp lý trong quy hoạch, bảo
vệ DSVH của vùng; khi người dân chưa nhận thức đầy đủ vai trò của DSVH trong
đời sống cộng đồng; khi chưa lựa chọn được những nhà đầu tư xứng tầm, có tâm
với DSVH. Vài năm trước đây, UBND tỉnh Thanh Hóa đã phê duyệt quy hoạch vùng
Hàm Rồng và chấp nhận cho một số doanh nghiệp đầu tư, khai thác du lịch, kinh tế
tại vùng Hàm Rồng. Động thái này đã vô tình phá vỡ tính liên kết của vùng, sự phân
cấp chưa cụ thể cũng đã làm cho DSVH không được coi trọng đúng với giá trị vốn có
của nó. Đồng thời, ở đây cũng chưa thấy được mối quan hệ, chia sẻ hài hòa lợi ích
giữa bảo tồn văn hóa và phát triển du lịch. Việc cần làm hiện nay là đánh giá tổng thể
giá trị DSVH, chỉ ra những đặc trưng chung của DSVH vùng Hàm Rồng, để thấy
Hàm Rồng cần được xem xét, quy hoạch và bảo vệ như một vùng văn hóa đặc biệt ở
tỉnh Thanh Hóa.
Năm 2011, tỉnh Thanh Hóa xây dựng bản điều chỉnh quy hoạch vùng Hàm
Rồng ở các khía cạnh: quy hoạch tổng thể, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di
tích lịch sử - văn hóa Hàm Rồng. Tuy nhiên, bản quy hoạch có sự hạn chế về không
gian, có nghĩa chỉ lựa chọn từ điểm tiếp giáp làng cổ Dương Xá kéo dài đến núi Nít
đã làm cho không gian Hàm Rồng trở nên nhỏ bé. Vấn đề bảo tồn DSVH chủ yếu
dựa trên cơ sở khảo sát, mô tả thực trạng từng di tích, chưa quan tâm nghiên cứu
6
mối quan hệ, sự lan tỏa, tiếp biến các giá trị văn hóa trong và ngoài vùng. Bài học
của nhiều quốc gia trên thế giới và ngay cả một số địa phương ở Việt Nam cho thấy,
khi quy hoạch một vùng đều cần đến sự liên kết chặt chẽ giữa vùng quy hoạch và
các vùng/ tiểu vùng phụ cận. Từ đó đề xuất những giải pháp quy hoạch, bảo tồn,
phát huy giá trị DSVH toàn vùng.
Từ cách đặt vấn đề trên, tôi nhận thấy rằng cần có một công trình nghiên cứu
về Hàm Rồng với phương pháp tiếp cận nghiên cứu tổng thể giá trị DSVH trong một
vùng văn hóa. Đặc biệt cần nghiên cứu Hàm Rồng gắn với bảo tồn văn hóa và ứng
dụng phát huy DSVH trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới. Công trình nghiên cứu
không chỉ mang tính lý luận làm sáng tỏ Hàm Rồng có ý nghĩa về lịch sử, độc đáo về
sinh thái, văn hóa. Tìm ra những giá trị đặc trưng của DSVH, tạo tiền đề khoa học
cho việc xây dựng vùng văn hóa - du lịch Hàm Rồng trong phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Thanh nói riêng và cả nước nói chung. Với tất cả các vấn đề trên, tôi đã lựa chọn
đề tài: Di sản văn hóa vùng Hàm Rồng ở tỉnh Thanh Hóa làm Luận án Tiến sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu tổng thể hệ thống DSVH ở vùng Hàm Rồng. Lựa chọn các
DSVH điển hình để khảo cứu, từ đó chỉ ra những đặc điểm chung của DSVH vùng
Hàm Rồng.
2.2. Trên cơ sở lý thuyết vùng văn hóa và phân vùng văn hóa, kết quả nghiên
cứu DSVH vùng Hàm Rồng, bước đầu chứng minh Hàm Rồng là một vùng văn hóa -
lịch sử ở Thanh Hóa đáp ứng đầy đủ các tiêu chí. Trong đó, giá trị đặc trưng của
DSVH đóng vai trò là một tiêu chí quan trọng.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Hệ thống DSVH ở vùng Hàm Rồng biểu hiện qua các loại hình DSVH vật
thể và DSVH phi vật thể. Trên cơ sở khảo cứu các DSVH điển hình được đề cập
theo từng loại hình cụ thể.
- Luận án cũng đề cập đến một số DSVH ở vùng đệm có cùng mẫu số với
DSVH vùng Hàm Rồng hình thành do quá trình lan tỏa và tích tụ.
7
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian nghiên cứu của luận án là vùng văn hóa Hàm Rồng.
Theo hướng Tây - Đông, tính từ xã Thiệu Khánh với dãy núi Đông Sơn chạy men
theo sông Mã đến xã Hoằng Quang, phường Nam Ngạn. Theo hướng Bắc - Nam từ
bến Ngự đến núi Nhồi, phường An Hoạch.
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Nghiên cứu DSVH vật thể (Di tích lịch sử văn
hóa; danh lam thắng cảnh; di vật, cổ vật, bảo vật); DSVH phi vật thể (Lễ hội, tín
ngưỡng; diễn xướng dân gian; nghề thủ công truyền thống) điển hình còn hiện tồn
đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết để tiếp cận hệ thống lý thuyết
về DSVH, phương pháp phân loại DSVH từ các văn bản luật và dưới luật; lý thuyết
vùng văn hóa và phân vùng văn hóa từ kết quả nghiên cứu thành công của các học
giả trong nước và nước ngoài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu nguồn tư liệu viết về DSVH tỉnh Thanh Hóa,
DSVH ở vùng Hàm Rồng. Tổng hợp số liệu, phân tích, phân loại tư liệu nghiên cứu
theo mục đích và nội dung luận án.
4.3. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: sử học, văn hóa học, nghệ thuật
học, dân tộc học… giúp cho việc tiếp cận, phân tích các loại hình DSVH. Trong đó
chú trọng đến một số mặt của lý thuyết địa - văn hóa đối với hệ thống DSVH vùng
Hàm Rồng trên các phương diện: đặc điểm lịch sử, cảnh quan sinh thái, dân cư…
trong việc góp phần vào quá trình hình thành giá trị của DSVH.
4.4. Phương pháp điền dã, kết hợp với phương pháp tổng hợp, thống kê, phân
loại, đối chiếu, so sánh, phân tích các DSVH điển hình trong vùng. Đây là phương
pháp quan trọng, được triển khai theo các bước cụ thể:
Bước thứ nhất: Điều tra, khảo sát tổng thể hệ thống DSVH vùng Hàm Rồng.
Bước thứ hai: Lựa chọn các DSVH (vật thể, phi vật thể) điển hình để khảo
cứu. Song song với tiến trình đánh giá giá trị DSVH, luận án sẽ quan tâm đến các
8
vấn đề: cộng đồng dân cư; môi trường sinh thái…Bước này là cơ sở để chỉ ra những
giá trị và những đặc điểm chung của hệ thống DSVH vùng Hàm Rồng.
Bước thứ ba: Sau khi có đầy đủ các thông tin từ hai bước trên, cần tiếp tục
khảo sát lại để có đối chứng, so sánh, tránh bỏ sót những DSVH có giá trị.
- Phương pháp thống kê, phân loại, phân tích, so sánh: Một vùng văn hóa
thường có sự tích hợp đầy đủ các giá trị về văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần,
trong sự tích hợp ấy lại có nhiều các tổ hợp văn hóa với những biểu hiện đa dạng,
khác nhau. Cần sử dụng phương pháp này để làm nổi bật lên diện mạo của một
vùng văn hóa - lịch sử đặc trưng ở tỉnh Thanh Hóa.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Thứ nhất, về khoa học
- Luận án sau khi hoàn thành sẽ góp phần hệ thống hóa lý thuyết vùng văn
hóa và phân vùng văn hóa; chỉ ra hệ tiêu chí xác định vùng văn hóa. Khái quát lý
thuyết về DSVH và vấn đề phân loại DSVH.
- Luận án chỉ ra những giá trị đặc trưng của DSVH vùng Hàm Rồng.
- Chứng minh Hàm Rồng là một vùng văn hóa - lịch sử, đáp ứng đầy đủ các
tiêu chí, trong đó có sự đóng góp không nhỏ về giá trị của DSVH trong vùng.
- Đưa ra một số kiến nghị trong việc bảo tồn, khai thác, phát huy vai trò của
vùng, giá trị DSVH trong vùng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, về thực tiễn
- Bổ sung và góp phần làm phong phú hơn kho tàng DSVH tỉnh Thanh Hóa,
DSVH Việt Nam từ những giá trị độc đáo của DSVH vùng Hàm Rồng.
- Những kiến nghị trình bày trong luận án, tác giả mong muốn sẽ là những
gợi ý hữu ích cho các cấp quản lý địa phương vận dụng trong công tác quy hoạch,
bảo tồn, khai thác phát huy DSVH và vùng văn hóa Hàm Rồng.
- Luận án có thể trở thành tài liệu tham khảo cho sinh viên các ngành Văn hóa -
Du lịch, Quản lý Văn hóa ở các trường Đại học, Cao đẳng KHXH & NV.
- Luận án có thể xuất bản thành sách tham khảo.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu và những luận bàn
9
- Hàm Rồng từ lâu đã trở thành đề tài hấp dẫn cho các học giả trong nước và
nước ngoài lựa chọn nghiên cứu, nhưng chủ yếu là những công trình đơn lẻ theo một
vấn đề cụ thể. Ý tưởng của luận án đặt ra nghiên cứu tổng thể cảnh quan sinh thái,
DSVH vùng Hàm Rồng là cần thiết.
- Vùng Hàm Rồng với những giá trị DSVH tiêu biểu - sợi dây nối liền bản
sắc văn hóa Việt cổ, mà đỉnh cao là nền văn hóa Đông Sơn với con người đương
đại. Nơi đây được ví như một kho tàng văn hóa dân gian, kho sử liệu của lịch sử -
văn hóa Việt Nam. Việc nghiên cứu DSVH vùng Hàm Rồng ở tỉnh Thanh Hóa
không chỉ mang tính lý luận thuần túy mà còn làm sáng tỏ DSVH vùng Hàm Rồng
có nhiều giá trị đặc trưng riêng biệt.
- Từ thế kỷ XVI - XIX trên thế giới đã xuất hiện nhiều trường phái nghiên
cứu về vùng và phân vùng văn hóa, mang lại những thành công nhất định ở cả
phương diện lý thuyết và thực hành. Những kết quả nghiên cứu trên đã tác động
mạnh mẽ đến các nhà khoa học Việt Nam. Sự tác động mạnh mẽ nhất vào thập niên
80, 90 của thế kỷ XX. Thời điểm này các quan điểm lý thuyết vùng và phân vùng
văn hóa của các học giả nước ngoài đã được nhiều học giả Việt Nam vận dụng vào
việc nghiên cứu vùng văn hóa ở Việt Nam theo nhiều quan điểm khác nhau. Điểm
chung của các công trình nghiên cứu là việc các tác giả đều thống nhất, khi xác định
vùng văn hóa cần xây dựng bộ công cụ/ hệ tiêu chí trong xác định vùng văn hóa.
Quá trình nghiên cứu, tác giả luận án cho rằng, có thể xác định những tiêu chí
chung ở nhiều tác giả. Nhưng lấy giá trị đặc trưng của DSVH như một tiêu chí vận
dụng để xác định vùng văn hóa thì chưa có tác giả nào đề cập một cách đầy đủ.
- Trong những năm gần đây, việc đánh giá giá trị DSVH theo loại hình đi liền
với công tác bảo tồn DSVH luôn trở thành vấn đề nóng trên các diễn đàn. Theo quy
luật phát triển, các vấn đề xã hội thường có xu hướng tỷ lệ thuận với nhau. Tuy
nhiên giữa phát triển kinh tế và bảo tồn DSVH đang gặp phải những khó khăn,
những tranh luận gay gắt. DSVH vùng Hàm Rồng cũng đứng trước thực trạng
xuống cấp và mai một dần. Việc khảo cứu giá trị của DSVH vùng Hàm Rồng là cơ
10
hội để bảo tồn, phát huy giá trị một vùng văn hóa - lịch sử đặc biệt ở tỉnh Thanh
Hóa trong thời kỳ hội nhập.
6. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu (07 trang), kết luận (04 trang), danh mục tài liệu tham
khảo (7 trang), phụ lục (58 trang), luận án bao gồm ba chương:
Chương 1: Lý thuyết về vùng văn hóa và di sản văn hóa (33 trang)
Chương 2: Di sản văn hóa ở vùng Hàm Rồng (57 trang)
Chương 3: Bàn luận và kiến nghị (35 trang)
11
NỘI DUNG
Chương 1
LÝ THUYẾT VỀ VÙNG VĂN HÓA VÀ DI SẢN VĂN HÓA
1.1. Lý thuyết về vùng văn hóa
Vùng văn hóa được coi là dạng thức của không gian văn hóa. Việc nhận thức
vùng văn hóa hay không gian văn hóa chính ở sự tương đồng và khác biệt. Về
phương diện lý thuyết, vùng và phân vùng văn hóa đã được nhiều học giả trong
nước và trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Luận án kế thừa các kết quả nghiên cứu
đi trước, tập hợp thành một hệ thống lý thuyết bao gồm các khái niệm công cụ:
Vùng văn hóa, vùng thể loại văn hóa, tiểu vùng văn hóa, trung tâm văn hóa, tổ hợp
văn hóa, các khuynh hướng nghiên cứu trên thế giới và trong nước để làm cơ sở lý
thuyết cho việc giải quyết các nội dung nghiên cứu trong Luận án.
1.1.1. Một số khái niệm
- Vùng văn hóa
Khái niệm vùng văn hóa được đề cập lần đầu tiên trong công trình nghiên
cứu của nhà địa lý học người Đức Friedrich Ratzel (1844-1904), nhưng không cụ
thể mà nằm trong mối quan hệ với thuyết “vòng văn hóa”. Sau này được phổ biến
rộng rãi nhờ sự phát triển của các nhà nhân học Mỹ. Khái niệm này chủ yếu dùng
trong việc nghiên cứu sự phân bố không gian của các hiện tượng văn hóa và xác
định mối quan hệ qua lại giữa chúng.
Theo tác giả Alfred Kroeber (1876-1960), thì vùng văn hóa có liên hệ mật
thiết với vùng tự nhiên; ông cũng cho rằng, vùng văn hóa là một khu vực địa lý xác
định, có đặc trưng bởi sự tương đồng về phần lớn các đặc điểm văn hóa. Nhìn
chung, vùng văn hóa được định nghĩa như một khu vực địa lý, trong đó cộng đồng
dân cư khác nhau, hoặc các nền văn hóa khác nhau nhưng có đặc trưng văn hóa
giống nhau, có cùng một kiểu phương thức hoạt động hoặc có cùng một định hướng
văn hóa chủ đạo.
Có thể thấy, một số định nghĩa của các học giả phương Tây khá chung
chung, khiến cho việc phân vùng văn hóa sẽ thiếu cơ sở khoa học. Các học giả Việt
12
Nam đã rút kinh nghiệm và đã cụ thể hơn rất nhiều khi đưa ra các định nghĩa về
vùng văn hóa:
Theo tác giả Ngô Đức Thịnh:
Vùng văn hóa là một vùng lãnh thổ có những tương đồng về mặt hoàn
cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống, ở đó từ lâu đã có những mối quan hệ
nguồn gốc và lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế -
xã hội, giữa họ đã diễn ra những giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại, nên
trong vùng đã hình thành những đặc trưng chung, thể hiện trong sinh hoạt
văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân, có thể phân biệt với
vùng văn hóa khác [115, tr.64].
Theo tác giả Huỳnh Khái Vinh:
Vùng văn hóa là một không gian văn hóa được tạo thành bởi các đơn vị
địa lý dân cư địa phương nằm kề nhau liên tục; ở đó có một tập hợp (có
khi là hệ thống) các cơ cấu và đặc trưng văn hóa được hình thành trên cơ
sở tương đồng về quan hệ nguồn gốc và lịch sử; và có một “mức tự chủ”
nhất định và được phân biệt rõ ràng giữa các vùng văn hóa với nhau
[142, tr.96].
Tác giả Trần Quốc Vượng định nghĩa: “Một vùng văn hóa là một tổng thể - hệ
thống với một cấu trúc - hệ thống bao gồm các hệ dưới hay tiểu hệ theo lối tiếp cận
hệ thống [141, tr.401].
Tác giả Trần Ngọc Thêm trên cơ sở phân tích, đánh giá đã đưa ra khái niệm:
Vùng văn hóa là một không gian lãnh thổ liên tục với hoàn cảnh tự nhiên
tương đối đồng nhất ở bên trong và khu biệt với các không gian lãnh thổ
liền kề bên ngoài, trong đó tồn tại một cộng đồng người thống nhất tương
đối (gồm một hai nhiều tộc/nhóm người), đã cùng cư trú và tiếp xúc giao
lưu đồng hướng với nhau trong một thời gian đủ dài để tạo nên được một
hệ thống giá trị chung đặc thù cho phép khu biệt nó với các hệ thống giá
trị của những vùng có liên quan” [114, tr.47].
13
Như vậy, định nghĩa của tác giả Ngô Đức Thịnh và Huỳnh Khái Vinh có nhiều
điểm tương đồng, khá chi tiết nên thiếu tính khái quát và rất khó sử dụng. Khái niệm
của tác giả Trần Quốc Vượng mang tính khái quát cao, nhưng rất khó xác định hệ tiêu
chí để xác định vùng văn hóa. Riêng tác giả Trần Ngọc Thêm, khái niệm vùng văn
hóa cụ thể hơn. Trong khái niệm có thể thấy được hệ tiêu chí và dễ vận dụng vào thực
tiễn. Nhưng cũng cần xác định, không có hệ tiêu chí bất biến, hay hệ tiêu chí áp dụng
cho tất cả việc phân vùng văn hóa của các tác giả khác. Việc phân vùng văn hóa phần
nhiều dựa vào các kết quả nghiên cứu chủ quan của người thực hiện.
- Vùng thể loại văn hóa
Là vùng mà ở đó từng thể loại văn hóa biểu hiện tính tương đồng, tính
thống nhất của mình thông qua nội dung, kết cấu, các sắc thái biểu hiện,
phương thức lưu truyền…không nhất thiết tất cả các thể loại văn hóa đều
phân bố theo vùng hay thể hiện rõ nét đặc trưng “vùng” của mình, mà đó
thường là các thể loại văn hóa tiêu biểu, một hiện tượng văn hóa mang
tính tổng thể, gắn liền với sinh hoạt văn hóa cộng đồng của cư dân các
dân tộc sinh sống trong vùng [115, tr.100].
Các vùng thể loại thường mang những biểu hiện tương đối đặc trưng, và tên
gọi của vùng gắn liền với biểu hiện đặc trưng ấy. Ví dụ: vùng truyền thuyết Hùng
Vương; vùng hát xoan Phú Thọ, vùng dân ca quan họ Bắc Ninh. Ở Thanh Hóa,
trong công trình nghiên cứu của TS. Mai Hồng Hải cũng đã chỉ ra một vùng thể loại
truyền thuyết và nghi lễ Lam Sơn. Đa phần vùng văn hóa phải là sự thống nhất và
tổng hợp lại giữa các vùng thể loại, tuy nhiên, không bao giờ ranh giới giữa các
vùng thể loại và vùng văn hóa trùng khít nhau. Vẫn có trường hợp vài ba vùng thể
loại nằm trong không gian một vùng văn hóa. Nhưng lại có trường hợp một vùng
thể loại nằm ở nhiều vùng văn hóa. Tuy nhiên, ở cấp độ mà phạm vi vùng văn hóa
càng nhỏ thì sự trùng hợp giữa các vùng thể loại càng nhiều.
- Tiểu vùng văn hóa
Trong một số công trình nghiên cứu về văn hóa vùng của GS.TS Ngô Đức
Thịnh đã đưa ra hệ thống cấp bậc phân vùng văn hóa rộng hẹp: miền, khu vực, tiểu
khu vực, vùng, tiểu vùng… Có thể thấy, ở mỗi cấp độ phân vùng lớn hơn thường
14
bao chứa các cấp độ nhỏ hơn. Ví dụ, Đông Nam Á là miền văn hóa - lịch sử, trong
đó bao gồm hai khu vực văn hóa là Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo;
Đông Nam Á lục địa lại chia thành hai tiểu khu vực là Đông Đông Dương và Tây
Đông Dương. Phân nhỏ hơn tiểu khu vực Đông Đông Dương là các vùng văn hóa
như đồng bằng trung du Bắc Bộ, Nam Bộ, Tây Nguyên, duyên hải Bắc Trung Bộ…
Còn trong mỗi vùng lại chia nhỏ hơn thành các tiểu vùng như tiểu vùng đất Tổ -
Phú Thọ, tiểu vùng Thăng Long - Hà Nội… thuộc vùng văn hóa đồng bằng và trung
du Bắc Bộ. Từ cách đặt vấn đề trên có thể hiểu: “Tiểu vùng văn hóa là những bộ
phận hợp thành vùng văn hóa, trong đó mỗi tiểu vùng được xác định với những nét
đặc thù bị chi phối bởi không gian địa lý, khí hậu và lịch sử hình thành, phát triển
của vùng” [115, tr.30].
Việc phân loại tiểu vùng văn hóa hoàn toàn không phá vỡ tính thống nhất của
tổng thể một vùng văn hóa. Ngược lại, việc chia các tiểu vùng văn hóa còn giúp
nhận diện rõ nét hơn các giá trị đặc trưng, độc đáo của vùng.
- Trung tâm văn hóa
Trong công trình Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam có đề cập
đến thuật ngữ “trung tâm văn hóa”. Thuật ngữ được viện dẫn và luận giải từ quan
điểm của nhà nhân chủng học Mỹ C.L.Wisler viết trong cuốn sách Người Mỹ da đỏ
xuất bản năm 1917 và tái bản lần thứ hai năm 1922, thì: “Trung tâm văn hóa chính là
nơi sinh sống của “các bộ lạc đặc trưng” và chính vùng văn hóa hình thành như là
vùng ảnh hưởng của trung tâm văn hóa” [115, tr.40]. Các tác giả cũng nhấn mạnh:
Nếu nhìn văn hóa từ khía cạnh hình thái, thì văn hóa trung tâm bao giờ
cũng biến đổi mạnh hơn văn hóa xa trung tâm, tạo nên một hiện tượng
trong văn hóa học gọi là “hóa thạch ngoại vi” để chỉ những hiện tượng
bảo lưu các dạng cổ của văn hóa ngoại vi so với những biến đổi nhanh
của vùng trung tâm [115, tr.40].
Ở công trình Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam có đề cập đến khái niệm trung
tâm và vai trò của trung tâm, và tác giả luận án đồng thuận với quan điểm này. Trước
tiên cần xác định rõ, trung tâm không phải là một cấp độ của phân vùng. Tùy theo cấp
15
độ là miền, khu vực, vùng… mà trung tâm rộng hẹp khác nhau. Ví dụ, ở tiểu vùng văn
hóa Thăng Long - Hà Nội thì 36 phố phường được coi là trung tâm. Điều này có
nghĩa, một vùng nào đó trong các vùng đóng vai trò trung tâm (có nghĩa chức năng
của nó là trung tâm của vùng chứ không phải là cấp độ để phân vùng). Như vậy,
trung tâm có thể là một vùng, một làng, một đô thị… điều đó phụ thuộc vào vị trí của
nó trong phạm vi toàn vùng mà nó đóng vai trò. Cũng cần xác định là, trung tâm
không phải là vị trí ở giữa. Để trở thành trung tâm của một vùng văn hóa, thường đó
là vị trí mang đậm sắc thái văn hóa đặc trưng. Theo quy luật phát triển kinh tế - xã hội
cũng như văn hóa không bao giờ dàn đều, mà thường từ các trung tâm rồi lan tỏa và
phổ biến rộng ra các nơi xung quanh. Trung tâm thường là nơi phát sinh, nâng cao,
tiếp nhận các giá trị và tinh hoa văn hóa rồi từ đó lan tỏa đi khắp nơi theo quy luật lan
truyền văn hóa. Như vậy, trung tâm thường là nơi có điều kiện kinh tế - chính trị - xã
hội phát triển, là đầu mối giao lưu và nơi tập trung những người tài trí.
- Tổ hợp văn hóa
Một lần nữa trong các công trình Con người và văn hóa và Mối quan hệ giữa
thiên nhiên và con người ở châu Mỹ bản xứ tác giả C.L.Wisler có đề cập đến khái
niệm “tổ hợp văn hóa” và khái niệm này một lần nữa được GS.TS Ngô Đức Thịnh
điểm trong công trình nghiên cứu của mình: “Là tập hợp những yếu tố văn hóa đặc
trưng, gắn với trung tâm của vùng văn hóa” [115, tr.41]. Do vậy, nghiên cứu động
thái của vùng văn hóa đi liền với việc xem xét quá trình lan truyền các yếu tố văn
hóa từ trung tâm. Chính vùng văn hóa không phải cái gì khác mà là tổng hợp các
yếu tố văn hóa của tổ hợp ấy trong một phạm vi lãnh thổ xác định.
1.1.2. Các khuynh hướng nghiên cứu về vùng văn hóa của các học giả
trên thế giới và trong nước
Một trong những quy luật phát triển văn hóa chính là quy luật tương tác với
môi trường tự nhiên. Các nhà văn hóa học ngay từ thế kỷ XIX đã nhìn ra những nét
đặc trưng mang tính địa văn hóa, nghĩa là mỗi vùng miền gắn với điều kiện tự
nhiên, cộng đồng chủ thể sáng tạo riêng biệt, từ đó cũng tạo ra những giá trị đặc
trưng riêng. Đầu thế kỷ XIX, lý thuyết vùng văn hóa, không gian văn hóa được
16
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đến đầu thế kỷ XX, nhiều nhà nghiên
cứu văn hóa còn tập trung vào việc lý giải, chứng minh và cảnh báo về nguy cơ tàn
lụi, tan biến của các nền văn hóa, các tộc người trước những biến đổi mạnh mẽ của
môi trường nhân văn, hay nói một cách khác, trước những biến động lớn lao làm
các tộc người này bị bứt ra khỏi môi trường tự nhiên ban đầu mà họ đã sinh sống,
gắn bó hàng ngàn đời. Đó cũng chính là lý do mà từ thập niên 80 của thế kỷ XX, tổ
chức UNESCO đã đưa ra chương trình bảo vệ văn hóa truyền thống của các dân tộc,
bảo vệ văn hóa vùng, miền, quốc gia để gìn giữ sự đa dạng, phong phú của văn hóa
nhân loại. Và cũng chính từ đây việc nghiên cứu văn hóa tộc người, văn hóa quốc
gia, văn hóa vùng phát triển đa dạng hơn.
1.1.2.1. Các khuynh hướng nghiên cứu lý thuyết về vùng văn hóa, không gian
văn hóa trên thế giới.
Trên thế giới, từ cuối thế kỷ XIX việc nghiên cứu vùng văn hóa trở nên đặc
biệt phát triển, có ba trường phái đỉnh cao, các trường phái này đã được tác giả Ngô
Đức Thịnh tổng thuật khá đầy đủ trong luận án tiến sĩ sử học của mình, bảo vệ năm
1980 tại Moskva và công bố trong tài liệu [115].
- Thuyết “khuyếch tán văn hóa” ở Tây Âu vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ
XX. Thuyết này ra đời để giải thích hiện tượng tương đồng văn hóa không hoàn
toàn đồng nhất. Trong thuyết này xuất hiện ba trường phái với các xu hướng nghiên
cứu khác nhau: Trường phái văn hóa - lịch sử ở Đức và Áo quan tâm đến các khái
niệm “khu vực văn hóa”, “vòng văn hóa”. Trường phái “Age and area” (trường phái
không gian và thời gian), quan tâm đến ý nghĩa của sự truyền bá văn hóa. Trường
phái truyền bá văn hóa ở Anh lại đánh giá cao vai trò truyền bá văn hóa lịch sử nhân
loại. Các đại diện là F.Ratzel, I.Frobenius, F.Grabner, W.Schimidt.
- Lý thuyết “vùng văn hóa” trong nhân chủng học Mỹ ra đời như một bước
đột phá ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Một mặt, lý thuyết này chống lại quan
điểm tiến hóa của L.Morgan và E.Taylor; mặt khác, nó cũng phê phán những quan
điểm “vòng văn hóa”, “khuyến tán văn hóa” cực đoan của các nhà nghiên cứu Tây
Âu. Trên cơ sở nghiên cứu khá tường tận về người da đỏ châu Mỹ, các nhà nhân
17
chủng học Mỹ đã đưa ra lý thuyết “vùng văn hóa”, “loại hình văn hóa” và "trung
tâm văn hóa" mà đại diện tiêu biểu là C.L.Wisler. Ông cho rằng, nghiên cứu các
vùng văn hóa nhất thiết phải bắt đầu từ việc phân tích một tổ hợp các yếu tố văn
hóa, rằng không thể nhìn nhận riêng rẽ từng yếu tố một, chúng hợp thành một thể
thống nhất không thể chia cắt, và đó chính là kết quả của quá trình lâu dài nhóm dân
cư ấy thích ứng với những điều kiện của môi trường sinh thái. Đây là một bước tiến
mới mang tính lý luận và phương pháp nghiên cứu về vùng văn hóa.
- Các nhà nghiên cứu dân tộc học Xô Viết đã kế thừa trên bình diện rộng lớn
hơn, đã bàn tới vấn đề nghiên cứu liên văn hóa. Từ những năm 30 của thế kỷ XX,
trong một số công trình của S.P.Tônxtop và A.M.Dôlôrarep đã đề cập đến vấn đề
không gian địa lý của các hiện tượng văn hóa. Đây là tiền đề cho sự xuất hiện lý
thuyết về “Loại hình kinh tế - văn hóa” và “Khu vực văn hóa - lịch sử” (còn gọi là
khu vực lịch sử - dân tộc học hay vùng văn hóa - lịch sử).
Với việc đưa ra khái niệm loại hình kinh tế - văn hóa (loại hình kinh tế - xã
hội) của các nhà dân tộc học Xô Viết để giải thích hiện tượng tương đồng và khác
biệt văn hóa kể trên, loại hình kinh tế - văn hóa được hiểu: “Đó là một tổng thể các
đặc điểm kinh tế và văn hóa hình thành trong quá trình lịch sử của các dân tộc khác
nhau, cùng ở một trình độ phát triển kinh tế - xã hội và sinh sống trong môi trường
địa lý tự nhiên như nhau” (N.N.Trêbôcxarốp - I.A.Trêbôcxarốpva, 1971) [115, tr.49].
Như vậy, mỗi loại hình kinh tế - văn hóa luôn gắn chặt với sự phát triển của
lực lượng sản xuất của một cộng đồng người cụ thể, cũng như mối quan hệ khăng
khít của cộng đồng người đó với môi trường tự nhiên xung quanh vào những thời
kỳ nhất định. Sự khác biệt giữa các loại hình kinh tế - văn hóa thường thấy trước hết
ở các ngành nghề nông nghiệp, thủ công, chăn nuôi, đánh cá, các loại công cụ sản
xuất, ăn uống, nhà cửa, quần áo và các yếu tố văn hóa vật chất khác.
Việc phân chia các dân tộc theo loại hình kinh tế - văn hóa không chỉ giải thích
những tương đồng và khác biệt về văn hóa giữa các vùng, các tộc người khác nhau
mà còn cho thấy một quá trình thống nhất, phát triển liên tục của xã hội loài người.
Sự phát triển đó không phải là sự tiến hóa đơn tuyến, mà khá đa dạng tùy thuộc vào
những điều kiện môi trường và truyền thống tộc người khác nhau.
18
Để bao quát việc nhận thức các hiện tượng tương đồng và khác biệt văn hóa
giữa các vùng và các dân tộc, các nhà dân tộc học Xô Viết không chỉ sử dụng khái
niệm loại hình kinh tế - văn hóa mà còn dùng cả khái niệm “vùng văn hóa - lịch sử”
(vùng lịch sử - văn hóa):
Vùng văn hóa - lịch sử (vùng lịch sử - dân tộc học hay gọi tắt là vùng văn
hóa) là một vùng mà ở đó sinh sống những tộc người. Trong quá trình lịch
sử lâu dài, giữa họ có những giao lưu, ảnh hưởng khăng khít với nhau, từ
đó hình thành nên những yếu tố văn hóa chung thể hiện trong văn hóa vật
chất cũng như văn hóa tinh thần (N.N.Trêbôcxarốp - I.A.Trêbôcxarốpva,
1971) [115, tr.57]
Nếu trong lý thuyết loại hình kinh tế - văn hóa, tính tương đồng về điều kiện
môi trường tự nhiên và trình độ phát triển xã hội là điều kiện tiên quyết để hình
thành nên những đặc trưng chung về kinh tế và văn hóa, thì vùng văn hóa - lịch sử
thường có những tương đồng: về môi trường địa lý; những mối quan hệ nguồn gốc
và lịch sử giữa các tộc người; đặc trưng văn hóa của vùng là những yếu tố văn hóa
gắn bó hữu cơ với nhau thể hiện rõ trong văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Đối
với các dân tộc còn ở trình độ tiền công nghiệp thì văn hóa dân gian (folklore) thể
hiện rõ nét và cơ bản những sắc thái văn hóa đặc trưng cho vùng văn hóa - lịch sử.
Phạm vi không gian văn hóa lớn hơn vùng là miền hay khu vực. Cấp bậc hẹp
hơn vùng là tiểu vùng. Dưới vùng và tiểu vùng còn có thể phân ra nhỏ hơn nữa tùy
thuộc vào thực tế mỗi vùng văn hóa - lịch sử. Trong thực tế, khi phân cấp các vùng
văn hóa - lịch sử, phạm vi các vùng càng nhỏ, thì khả năng trùng hợp càng lớn hơn.
Sự khác biệt giữa loại hình kinh tế - văn hóa và vùng văn hóa - lịch sử cũng
được phân biệt rõ ràng: Nếu vùng văn hóa - lịch sử là một không gian địa lý liên
tục, liền khoảnh thì loại hình kinh tế - văn hóa có thể bao gồm trong đó nhiều vùng
đất thuộc những vùng địa lý và đại lục khác nhau.
Tuy còn những ảnh hưởng nhất định thuyết “khuyếch tán văn hóa” ở Tây Âu,
lý thuyết vùng văn hóa của các nhà nhân học Mỹ, các nhà dân tộc học Xô Viết đã
nhận ra và mở rộng hơn việc nhìn nhận các hiện tượng văn hóa trong mối quan hệ
19
với cơ sở kinh tế - xã hội và trong quá trình phát triển lịch sử của mỗi dân tộc, mỗi
vùng, từ đó đi vào lý giải các hiện tượng văn hóa, các vùng văn hóa - lịch sử một
cách thuyết phục. Lý thuyết này đã giúp cho tác giả luận án có hướng đi rõ nét hơn
trong việc xác định Hàm Rồng là một vùng văn hóa.
1.1.2.2. Các khuynh hướng nghiên cứu lý thuyết vùng và phân vùng văn hóa
của các học giả trong nước
Nhìn ở phương diện rộng, việc nghiên cứu vùng văn hóa ở Việt Nam đã xuất
hiện khá sớm, từ đời Trần, Lê với những tư liệu địa chí ghi chép đặc điểm địa lý,
khí hậu, chính trị, văn hóa của cả nước, từng vùng, miền, tỉnh. Một số cuốn địa chí
có ý nghĩa, mang tính toàn quốc như An Nam chí lược [90] của Lê Tắc, Đại Nam
nhất thống chí [76] của Quốc sử quán triều Nguyễn…Tuy văn hóa không được đề
cập như một nội dung chính của các cuốn sách, nhưng ít nhiều trong các trang tư
liệu đều được sưu tầm, biên soạn theo đặc trưng văn hóa của từng địa phương.
Năm 1938, GS Đào Duy Anh - trong công trình nghiên cứu có tính bao quát,
hệ thống đầu tiên về văn hóa, đó là Việt Nam văn hóa sử cương [2]. Tuy không đề
cập đến khái niệm vùng văn hóa, nhưng tác giả đã chú ý đến sự đa dạng văn hóa, và
những đặc trưng mang tính đặc thù vùng, miền, yếu tố tạo nên sự khác biệt trong sự
thống nhất của nền văn hóa Việt Nam.
Việc bảo vệ thành công luận án tiến sĩ sử học với nhan đề “Đông Dương là
khu vực lịch sử - văn hóa” vào năm 1980 tại Moskva của tác giả Ngô Đức Thịnh.
Sau đó 6 năm - năm 1986, Viện Văn hóa Hà Nội tổ chức hội thảo “Hội thảo khoa
học về phân vùng văn hóa”. Hai sự kiện đã mở ra một giai đoạn mới trong việc
nghiên cứu vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam. Tiếp nối thành tựu, thập niên
90 thế kỷ XX được xem là được mùa trong nghiên cứu vùng văn hóa. Giai đoạn
này, các khuynh hướng nghiên cứu thể hiện rõ nét. Từng bước đã hình thành hệ
thống lý thuyết cụ thể hơn, mang tính thực nghiệm cao. Những công trình của các
học giả đi trước đã đóng góp rất lớn cho khoa học chuyên ngành, mặc dù các nhà
nghiên cứu có những quan điểm khác nhau về tiêu chí phân vùng, nhận diện vùng
văn hóa theo cấu trúc, hệ thống, tổ hợp hay theo sắc thái văn hóa , cụ thể:
20
- GS Đinh Gia Khánh và Cù Huy Cận [51] có quan điểm phân vùng văn hóa
dựa trên các giá trị văn hóa dân gian tiêu biểu, từ yếu tố cộng đồng làng xã đến dân
tộc, khu vực.
- GS.TS Ngô Đức Thịnh [115] coi vùng văn hóa là dạng thức của không gian
văn hóa. Không gian văn hóa như là một không gian địa lý xác định, mà ở đó một
hiện tượng hay một tổ hợp hiện tượng văn hóa nảy sinh, tồn tại, biến đổi và chúng
liên kết với nhau như một hệ thống.
- GS.TSKH Trần Ngọc Thêm [114] và GS Trần Quốc Vượng [145] khi
nghiên cứu và xác định không gian văn hóa đều thống nhất hai vấn đề chính theo
hướng nghiên cứu địa - văn hóa: Một là, xác định không gian văn hóa dựa trên cơ
sở hệ thống các giá trị văn hóa được tích hợp cả về không gian và thời gian làm nổi
bật lên các giá trị văn hóa cốt lõi của một điểm, một khu vực theo cương vực địa lý,
dân cư, lãnh thổ tự nhiên. Hai là, xác định không gian văn hóa dựa trên những giá
trị cốt lõi văn hóa của “vùng” được phổ biến lan tỏa, trong một không gian nhất
định có chung những mẫu số về giá trị văn hóa, tạo ra một trường văn hóa mang
tính tương đối đồng dạng.
Điểm thống nhất ở các quan điểm trên, để trở thành một vùng văn hóa cần có
những giá trị đặc trưng (nổi trội) phản ánh của một trường văn hóa và biểu hiện như
một không gian văn hóa với những giá trị đồng dạng. Đã có nhiều công trình nghiên
cứu về vùng văn hóa, không gian văn hóa Việt Nam như: Văn hóa vùng châu thổ
sông Hồng; vùng văn hóa Nghệ Tĩnh, vùng văn hóa Bình - Trị - Thiên, vùng văn hóa
đồng bằng sông Cửu Long, vùng văn hóa Tây Bắc, vùng văn hóa Việt Bắc, vùng văn
hóa Tây Nguyên đã cho thấy tính đặc thù của mỗi vùng văn hóa khi xác định.
Đồng thời, khi xác định vùng văn hóa cũng cần thiết xem xét thêm yếu tố hành
chính. Bởi vì ở mọi thời đại, khi phân chia địa giới hành chính từ xã, phường, huyện,
tỉnh… đều rất chú trọng về yếu tố địa - văn hóa, địa - chính trị của các vùng đất ấy.
1.1.3. Hệ tiêu chí xác định vùng văn hóa
Phân vùng văn hóa luôn đi liền với nhận thức về văn hóa vùng, đó là cách
người nghiên cứu “áp đặt” tư duy chủ quan vào thực tế văn hóa mang tính khách
quan. Xét về phương diện phân loại trong khoa học, việc phân vùng văn hóa chính
21
là cách phân loại đối tượng văn hóa thành những vùng khác nhau để tiến hành
nghiên cứu giá trị các vùng văn hóa đó. Vấn đề ở chỗ, trong phân chia vùng văn hóa
làm sao phản ánh được tương đối sát, đúng với diện mạo các vùng văn hóa. Do vậy,
người nghiên cứu cần đưa ra được hệ tiêu chí phù hợp để phân biệt giữa văn hóa
của vùng này với văn hóa của vùng khác. Trong lịch sử, các trường phái nghiên cứu
cũng đã lựa chọn các tiêu chí nổi trội để nhận diện vùng văn hóa. Ví như trường
phái “khuyếch tán văn hóa” ở Tây Âu chọn tiêu chí mẫu hệ hay phụ hệ để chỉ ra
“vùng văn hóa mẫu hệ”, “vùng văn hóa phụ hệ” và thấy được sự khác biệt giữa hai
vùng. Sau này, các nhà dân tộc học Xô Viết khi xây dựng lý thuyết “vùng văn hóa”
đã bỏ đi cách lựa chọn một tiêu chí tiêu biểu, mà cho rằng việc xác định vùng văn
hóa cần có một tập hợp các yếu tố đặc trưng của vùng để khu biệt vùng văn hóa này
với vùng văn hóa khác.
Như vậy, nhận thức về vùng văn hóa liên quan trực tiếp tới việc chỉ ra những
đặc trưng của vùng làm cơ sở định ra hệ tiêu chí phân vùng, xác định các cấp bậc
phân vùng và ranh giới của vùng. Đặc trưng văn hóa vùng đồng thời là hệ tiêu chí
quan trọng nhất để phân vùng văn hóa. Phân vùng thuộc tư duy phân loại loại hình,
mỗi loại hình như vậy tồn tại trong một vùng nhất định. Trong phân loại loại hình
hay phân vùng, người ta phải chọn một tập hợp các yếu tố đặc trưng hay còn gọi là
tiêu chí để phân loại hay phân vùng. Về phương diện loại hình học và phân loại loại
hình, trong một tập hợp các yếu tố càng nhiều, càng đặc trưng thì việc phân loại
càng chính xác. Các tiêu chí phân loại không phải bất kỳ hay ngẫu nhiên, chúng có
mối liên hệ hữu cơ với nhau, tạo nên thể thống nhất phản ánh bản chất của hiện
tượng. Tuy nhiên, trong tập hợp các tiêu chí phân loại ấy không phải mọi tiêu chí
phân loại đều có giá trị ngang nhau mà thường có một tiêu chí mang tính loại hình
đặc trưng hơn các tiêu chí khác.
Những biểu hiện của vùng văn hóa mang tính đa vẻ, thể hiện trên toàn bộ các
mặt của đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Trong đó, đặc trưng hơn cả
là lối sống, nếp sống như: nếp làm, nếp ăn mặc, đi lại, giao tiếp, vui chơi, giải trí,
phong tục, lễ nghi, tín ngưỡng, lễ hội, qua các hoạt động văn hóa, nghệ thuật
Nhìn theo phương pháp tiếp cận hệ thống thì trong nhiều nhân tố tác động để
hình thành nên vùng văn hóa hay vùng thể loại, thường có nhân tố chủ đạo gọi đó là
22
nhân tố tạo hệ thống. Phần lớn các trường hợp là quan hệ giao lưu, ảnh hưởng văn
hóa giữa các dân tộc, các bộ phận dân cư nội vùng và ngoại vùng, giữa các dân tộc,
khu vực đã có từ rất sớm, ngay trong xã hội nguyên thủy cũng có vai trò to lớn đối
với sự hình thành, phát triển của văn hóa nhân loại. Tuy nhiên, cũng không cực
đoan tới mức quy tất cả sự tiến bộ văn hóa vào sự phát tán văn hóa từ một trung
tâm, phủ nhận tính sáng tạo địa phương và dân tộc như trường phái “phát tán văn
hóa” đã từng chủ trương, cũng như tránh phái cực đoan khác là quá nhấn mạnh vai
trò bản địa, phủ nhận giao lưu, ảnh hưởng văn hóa.
Trong phân loại cũng như phân vùng nói chung, bao giờ cũng có các cấp bậc
từ rộng đến hẹp, từ chung tới riêng, làm sao các cấp bậc ấy bao chứa, phản ánh
được các sắc thái phong phú đa dạng của vùng văn hóa. Trong một số công trình
văn hóa đã đưa ra các cấp bậc phân vùng văn hóa rộng hẹp như: miền, khu vực, tiểu
khu vực, vùng, tiểu vùng.
Tương ứng với mỗi cấp bậc phân loại như vậy lại tập hợp các tiêu chí phân
vùng ở phạm vi chung và riêng khác nhau. Ví như, đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
khác với Tây Nguyên bằng một tập hợp các đặc trưng văn hóa khá rõ nét. Tuy
nhiên, trong bản thân nội vùng Tây Nguyên hay đồng bằng châu thổ Bắc Bộ cũng
không phải là thuần nhất mà có sắc thái tiểu vùng riêng.
Trên cơ sở khái niệm vùng văn hóa và những luận thuyết nêu trên, có thể
nhận thấy, để xác định một vùng văn hóa cần có một hệ tiêu chí, cụ thể: (1) Có
không gian địa lý liên tục, liền khoảnh, (2) Có tính tương đồng về môi trường, cảnh
quan sinh thái, (3) Cộng đồng dân cư có tính thống nhất cao, có quá trình tụ cư sớm,
phát triển liên tục trong lịch sử, (4) Có sự tập hợp đầy đủ các yếu tố về lịch sử - văn
hóa và chúng có những giá trị đặc trưng, gắn bó hữu cơ với nhau, thể hiện rõ hơn cả
là trong văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Hệ tiêu chí được xem là công cụ quan trọng trong xác định vùng văn hóa. Hệ
tiêu chí được xác định cụ thể sẽ giúp cho việc nhận diện vùng văn hóa chính xác,
góp phần chỉ ra các giá trị văn hóa đặc trưng của vùng. Tuy nhiên, hệ tiêu chí không
phải là bất biến, từ thực tiễn nghiên cứu luôn phát hiện nhiều thành tố mới, và các
thành tố này đảm bảo tính đặc trưng sẽ được bổ sung vào hệ tiêu chí giúp cho việc
23
xác định vùng văn hóa có giá trị hơn. Như vậy, mỗi vùng văn hóa không hẳn chỉ
dựa vào các tiêu chí đã được nghiên cứu trước đó. Các nhà nghiên cứu có thể đưa ra
hệ tiêu chí theo quan điểm riêng của cá nhân mà không lệ thuộc vào bất kỳ một
quan điểm nào trước đó, song phải dựa trên hướng, nội dung nghiên cứu. Như vậy,
đặc trưng văn hóa vùng không phải lúc nào cũng biểu hiện như nhau ở tất cả các
vùng văn hóa mà thường trong một tập hợp các đặc trưng của mỗi vùng cụ thể có
một hoặc một vài đặc trưng trội tạo nên cái hồn, tính cách riêng của vùng đó.
Cũng cần bàn thêm về ranh giới các vùng văn hóa. Việc xác định ranh giới cụ
thể của các vùng văn hóa rất khó khăn, bởi phân vùng là sản phẩm của óc tư duy
trừu tượng của người nghiên cứu nhằm nhận thức thực tế, khách quan, đa dạng,
muôn vẻ của văn hóa. Trong phân vùng, người nghiên cứu xác định ranh giới chủ
quan trên thực tế khách quan mà giữa chúng không có một ranh giới dứt khóat, rõ
ràng nào cả. Ranh giới phân định giữa hai vùng văn hóa kề cận nhau thường thông
qua các sắc độ và những biến dạng mang tính chuyển tiếp của sắc độ quang phổ.
Vấn đề là người nghiên cứu cần đặt ra ranh giới chủ quan của mình lên vị trí nào là
hợp lý. Phần nhiều ranh giới vùng văn hóa thường là các vùng chuyển tiếp rộng hẹp
khác nhau, hơn rất nhiều so với một đường kẻ trên bản đồ.
Về nguyên tắc chung, vùng văn hóa không hoàn toàn là vùng địa lý, càng
không phải là vùng hành chính, bởi thế, ranh giới của nó không trùng với vùng hành
chính. Tuy nhiên, khi xem xét vùng văn hóa, nhất là các thành tố tác động tới vùng
văn hóa không thể không kể đến tác nhân quyền lực hành chính. Một mặt nó góp
phần cào bằng khác biệt văn hóa trong phạm vi nó phát huy ảnh hưởng. Mặt khác,
không phải nó không góp phần tạo nên sự khác biệt văn hóa giữa vùng hành chính
này với vùng hành chính khác.
1.2. Lý thuyết về DSVH
1.2.1. Khái niệm về DSVH
Trước khi bàn khái niệm DSVH, cần nhìn lại thuật ngữ văn hóa. Trong lời
giới thiệu cuốn sách Nghiên cứu văn hóa: lý thuyết và thực hành do Viện Văn hóa
Nghệ thuật Việt Nam dịch từ công trình của Chirs Barker viết: