Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty bảo hiểm dầu khí trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 98 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƢƠNG
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:

NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH
CỦA CƠNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ TRONG
LĨNH VỰC BẢO HIỂM HÀNG HẢI

Họ và tên sinh viên

: Vũ Thị Thơ

Líp

: Nga

Kho¸

: 41

Giáo viên hƣớng dẫn:: TS. Trịnh Thị Thu Hương

Hà Nội, tháng 11/ 2006

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

2



LỜI MỞ ĐẦU

Với bờ biển dài trên 3.260 km chạy suốt chiều dài đất nƣớc, có nhiều vịnh, cửa
sơng nối liền với Thái Bình Dƣơng, Việt Nam có một lợi thế mà nhiều quốc
gia khác khơng có. Lợi thế đó là tiềm năng, động lực để phát triển kinh tế
hƣớng ra biển, nhất là phát triển kinh tế hàng hải. Lịch sử đã chứng minh bảo
hiểm hàng hải ra đời, phát triển song hành cùng với ngành kinh tế biển. Bảo
hiểm Việt Nam tuy ra đời muộn nhƣng ngày càng thể hiện vai trị quan trọng
của mình đối với sự phát triển của kinh tế nói chung và ngành kinh tế biển nói
riêng.
1. Tính cấp thiết của khóa luận tốt nghiệp
Việt Nam - là một nƣớc đang phát triển có tốc độ tăng trƣởng kinh tế cao, với
sự tác động tích cực đó (GDP, kim ngạch xuất khẩu khơng ngừng tăng; cơng
nghiệp đóng tàu và vận tải biển trở thành một ngành kinh tế mũ nhọn của đất
nƣớc…), bảo hiểm hàng hải đã ngày một phát triển. Tuy nhiên trên thực tế
bảo hiểm hàng hải vẫn chƣa tận dụng hết những cơ hội có đƣợc, chƣa phát
triển hết sức mạnh của mình. Làm thế nào để ngành kinh doanh bảo hiểm
hàng hải ngày càng phát triển? Điều này đã buộc các doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm hàng hải phải tính tốn đến hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả
kinh doanh có vai trò hết sức quan trọng - quyết định sự tồn tại và phát triển
của các doanh nghiệp.
Công ty Bảo hiểm Dầu khí là một Cơng ty mới đƣợc thành lập nhƣng đã
nhanh chóng trở thành một trong những cơng ty đứng đầu thị trƣờng bảo
hiểm hàng hải Việt Nam. Bên cạnh những mặt đạt đƣợc, hoạt động kinh
doanh bảo hiểm hàng hải của Cơng ty vẫn cịn những tồn tại, vẫn chƣa khai
thác hết thị trƣờng tiềm năng. Hơn nữa, trên đà phát triển chung của nền kinh
tế đất nƣớc, xu thế hội nhập đã và sẽ có những ảnh hƣởng lớn đến thị trƣờng
bảo hiểm Việt Nam: cơ hội sẽ nhiều hơn, tính cạnh tranh đang ngày một gay
Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41


3


gắt và khốc liệt hơn. Để có thể đứng vững và duy trì một vị thế đáng kể trên
thị trƣờng, Cơng ty Bảo hiểm Dầu khí, cần có sự nghiên cứu sâu sắc hơn cả
về mặt lý luận và thực tiễn hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hải của
Công ty, từ đó tìm ra một hệ thống giải pháp góp phần giải quyết những tồn
tại.
Với mục đích nhƣ trên, ngƣời viết đã chọn đề tài: "Một số giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hải tại Cơng ty Bảo hiểm Dầu
khí”.
2. Mục tiêu của khóa luận.
Thơng qua việc trình bày, phân tích, đánh giá thực trạng tình hình bảo hiểm
hàng hải tại Cơng ty Bảo hiểm Dầu khí qua một số năm, ngƣời viết muốn
phân tích hiệu quả kinh doanh trong hoạt động này của Cơng ty. Từ đó,
ngƣời viết sẽ đƣa ra một số định hƣớng và giải pháp nhằm tháo gỡ những
khó khăn, thúc đẩy sự phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải tại Cơng ty Bảo hiểm Dầu khí.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Lấy hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hải trong phạm vi Công ty Bảo
hiểm Dầu khí làm đối tƣợng nghiên cứu, từ đó tìm ra các giải pháp giúp
Công ty phát triển hơn trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc nghiên cứu bằng phƣơng pháp duy vật biện chứng, phƣơng pháp
hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn thông
qua các tài liệu và việc tìm hiểu, học hỏi trực tiếp từ Cơng ty Bảo hiểm Dầu
khí. Vận dụng các quan điểm, đƣờng lối, chính sách phát triển kinh tế của
Đảng và Nhà nƣớc đối với nền kinh tế thị trƣờng để làm sáng tỏ vấn đề nghiên
cứu.


Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

4


5. Những đóng góp của khóa luận
Khóa luận đã cung cấp hệ thống lý luận về hiệu quả kinh doanh nói chung và
về hiệu quả kinh doanh bảo hiểm hàng hải nói riêng.
Đƣa ra những đánh giá cụ thể về thực trạng kinh doanh của nghiệp vụ bảo
hiểm hàng hải tại Cơng ty Bảo hiểm Dầu khí, từ đó chỉ rõ và phân tích ƣu,
nhƣợc điểm của hoạt động này ở Công ty.
Xây dựng đƣợc một hệ thống các giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hải tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí.
6. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận ngồi phần mở đầu và kết luận gồm 3 chƣơng:
 Chƣơng I: Những vấn đề chung về hiệu quả kinh doanh.
 Chƣơng II: Thực trạng hiệu quả kinh doanh bảo hiểm hàng hải của
Cơng ty Bảo hiểm Dầu khí.
 Chƣơng III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công
ty Bảo hiểm Dầu khí.
Em xin gửi lời cám ơn chân thành đến cô giáo TS. Trịnh Thị Thu Hƣơng đã
giúp đỡ em trong q trình viết khóa luận này. Em xin gửi lời cảm ơn đến
Phòng Bảo hiểm Hàng hải thuộc Cơng ty Bảo hiểm Dầu khí đã giúp đỡ em
trong quá trình thu thập tài liệu.

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

5



CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH
I. KHÁI QUÁT VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH
1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu
tố của q trình kinh doanh (lao động, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, tiền
vốn…) ở doanh nghiệp để đạt đƣợc kết quả cao nhất trong hoạt động kinh
doanh với chi phí thấp nhất. Nó khơng chỉ là thƣớc đo trình độ tổ chức quản lý
kinh doanh mà cịn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp.
Để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh doanh, cần phân biệt ranh
giới giữa hai khái niệm hiệu quả và kết quả kinh doanh. Có thể hiểu kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp là những gì mà doanh nghiệp đạt đƣợc sau một
quá trình sản xuất kinh doanh nhất định, kết quả cần đạt là mục tiêu cần thiết
của doanh nghiệp. Kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp có thể là những
đại lƣợng cân đo đong đếm đƣợc nhƣ số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, doanh
thu, lợi nhuận, thị phần… và cũng có thể chỉ là những đại lƣợng chỉ phản ánh
mặt chất lƣợng hồn tồn có tính định tính nhƣ uy tín của doanh nghiệp,…
Trong khi đó, ngƣời ta sử dụng hai chỉ tiêu kết quả và chi phí (các nguồn lực
đầu vào) để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cả hai chỉ tiêu là kết quả
(đầu ra) và chi phí (các nguồn lực đầu vào) đều có thể đƣợc xác định bằng
đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị. Tuy nhiên, sử dụng đơn vị hiện vật để xác
định hiệu quả kinh doanh sẽ vấp phải khó khăn là giữa “đầu vào” và “đầu ra”
khơng có cùng một đơn vị đo lƣờng cịn việc sử dụng đơn vị giá trị luôn luôn
đƣa các đại lƣợng khác nhau về cùng một đơn vị đo lƣờng - tiền tệ.

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

6



Nâng cao hiệu quả kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ doanh
nghiệp nào. Hiện nay hội nhập kinh tế quốc tế là xu hƣớng chung của tất cả
các quốc gia trên thế giới, nó tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi để phát triển kinh
tế, đồng thời cũng làm gia tăng áp lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp. Rõ
ràng, để tồn tại và phát triển buộc doanh nghiệp phải tính tốn đến hiệu quả
kinh doanh, tìm mọi cách để tăng tối đa thu nhập, giảm tối đa chi phí và tính
tốn đến một loạt các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả kinh doanh.
2. Phân loại hiệu quả kinh doanh
Phạm trù hiệu quả kinh doanh đƣợc biểu hiện ở những dạng khác nhau, mỗi
dạng thể hiện những đặc trƣng, ý nghĩa cụ thể của hiệu quả. Việc phân loại
hiệu quả kinh doanh theo những tiêu thức khác nhau có tác dụng thiết thực
cho cơng tác quản lý thƣơng mại. Nó là cơ sở để xác định các chỉ tiêu và mức
hiệu quả kinh doanh, đồng thời đề ra những biện pháp nâng cao hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp.
2.1. Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc
dân.
Hiệu quả kinh doanh cá biệt là hiệu quả kinh doanh thu đƣợc từ hoạt động
kinh doanh của từng doanh nghiệp. Biểu hiện chung của hiệu quả cá biệt là
doanh lợi mà mỗi doanh nghiệp đạt đƣợc.
Hiệu quả kinh tế xã hội là sự đóng góp của hoạt động sản xuất kinh doanh
vào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động
xã hội, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Giữa hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội có mối quan hệ
nhân quả và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế quốc dân chỉ có thể
đạt đƣợc trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của doanh nghiệp. Tuy vậy, có thể
có những doanh nghiệp kinh doanh khơng đảm bảo đƣợc hiệu quả, bị lỗ

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41


7


nhƣng nền kinh tế vẫn thu đƣợc hiệu quả. Tuy nhiên tình hình thua lỗ của
một doanh nghiệp nào đó chỉ có thể chấp nhận đƣợc trong ngắn hạn do
những nguyên nhân khách quan mang lại. Các doanh nghiệp phải quan tâm
đến hiệu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân vì đó là tiền tề, là điều
kiện cho doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả. Nhƣng để doanh nghiệp
quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội nói chung của nền kinh tế quốc dân,
nhà nƣớc cần có chính sách đảm bảo kết hợp hài hịa giữa lợi ích xã hội với
lợi ích doanh nghiệp và cá nhân ngƣời lao động.
2.2. Hiệu quả của chi phí tổng hợp và bộ phận
Mỗi doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trong
điều kiện cụ thể về nguồn tài nguyên, trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ tổ
chức và quản lý lao động, quản lý kinh doanh. Họ đƣa ra thị trƣờng sản phẩm
của mình với một chi phí cá biệt nhất định và ngƣời nào cũng muốn tiêu thụ
đƣợc hàng hóa của mình với giá cao nhất. Tuy vậy, khi đƣa hàng hóa của
mình ra bán trên thị trƣờng, họ chỉ có thể bán theo một mức là giá cả thị
trƣờng nếu sản phẩm hoàn toàn giống nhau về chất lƣợng.
Sở dĩ nhƣ vậy là vì thị trƣờng hoạt động theo quy luật giá trị. Quy luật giá
trị đã đặt tất cả các doanh nghiệp với mức chi phí cá biệt khác nhau trên
cùng một mặt bằng trao đổi thông qua mức giá thị trƣờng.
Suy đến cùng, chi phí bỏ ra là chi phí lao động xã hội. Tại mỗi doanh
nghiệp mà chúng ta cần đánh giá hiệu quả thì chi phí lao động xã hội đó lại
đƣợc thể hiện dƣới dạng chi phí cụ thể :


Giá thành sản xuất




Chi phí ngồi sản xuất …

Bản thân mỗi loại chi phí trên lại có thể phân chia chi tiết cụ thể hơn. Đánh
giá hiệu quả kinh doanh không thể không đánh giá hiệu quả tổng hợp của

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

8


các loại chi phí và cũng rất cần thiết phải đánh giá hiệu quả từng loại chi
phí cá biệt của doanh nghiệp nhằm tăng hiệu quả kinh doanh.
Nhƣ vậy, hiệu quả kinh doanh nói chung đƣợc tạo thành trên cơ sở hiệu quả
của các loại chi phí cấu thành. Vì vậy bản thân các doanh nghiệp phải quan
tâm xác định những biện pháp đồng bộ để thu đƣợc hiệu quả tồn diện trên
các yếu tố đó.
2.3. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh
Trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh, việc xác định hiệu quả nhằm
đạt hai mục đích cơ bản :
Một là, thể hiện và đánh giá trình độ sử dụng các dạng chi phí trong hoạt
động kinh doanh.
Hai là, phân tích luận chứng về kinh tế các phƣơng án khác nhau trong việc
thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó, từ đó lựa chọn lấy một phƣơng án có
lợi nhất.
Hiệu quả quả tuyệt đối là lƣợng hiệu quả đƣợc tính tốn cho từng phƣơng án
cụ thể bằng cách xác định mức lợi ích thu đƣợc với lƣợng chi phí bỏ ra.
Chẳng hạn, tính tốn mức lợi nhuận thu đƣợc từ một đồng chi phí sản xuất
(giá thành), hoặc từ một đồng vốn bỏ ra…
Ngƣời ta xác định hiệu quả tuyệt đối khi phải bỏ chi phí ra để thực hiện một

thƣơng vụ nào đó, để biết đƣợc với những chi phí bỏ ra sẽ thu đƣợc những
lợi ích cụ thể và mục tiêu cụ thể gì, từ đó đi đến quyết định có nên bỏ chi phí
ra hay khơng cho từng thƣơng vụ đó. Vì vậy, trong cơng tác quản lý kinh
doanh, bất kỳ cơng việc gì địi hỏi phải bỏ ra chi phí dù với một lƣợng lớn
hay nhỏ cũng đều phải tính toán đến hiệu quả tuyệt đối.
Hiệu quả so sánh đƣợc xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả
tuyệt đối của các phƣơng án với nhau. Nói cách khác, hiệu quả so sánh

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

9


chính là mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phƣơng án. Mục đích
chủ yếu của việc tính toán này là so sánh mức độ hiệu quả của các phƣơng
án (hoặc cách làm khác nhau cùng thực hiện một nhiệm vụ), từ đó cho phép
lựa chọn một cách làm hiệu quả nhất.
Trên thực tế, để thực hiện một nhiệm vụ nào đó, ngƣời ta khơng chỉ tìm thấy
một cách (một phƣơng án, một con đƣờng, một giải pháp), mà cịn có thể đƣa
ra nhiều cách làm khác nhau. Mỗi cách làm đó địi hỏi lƣợng đầu tƣ vốn,
lƣợng chi phí khác nhau, thời gian thực hiện và thời gian thu hồi vốn đầu tƣ
cũng khác nhau. Vì vậy, muốn đạt đƣợc hiệu quả kinh tế cao, ngƣời làm cơng
tác quản lý và kinh doanh khơng nên tự chói mình vào một cách làm mà vận
dụng mọi sự hiểu biết để đƣa ra nhiều phƣơng án khác nhau, rồi so sánh hiệu
quả kinh tế của các phƣơng án đó nhằm chọn ra một phƣơng án tối ƣu.
Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, song
chúng có tính độc lập tƣơng đối. Hiệu quả tuyệt đối là cơ sở để xác định hiệu
quả so sánh. Cụ thể là, trên cơ sở những chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối của từng
phƣơng án ngƣời ta so sánh mức hiệu quả ấy của các phƣơng án với nhau. Mức
chênh lệch của hiệu quả tuyệt đối chính là hiệu quả so sánh.

Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh có tính độc lập tƣơng đối, thể hiện ở
chỗ, có những chỉ tiêu hiệu quả so sánh đƣợc xác định không phụ thuộc vào
việc xác định hiệu quả tuyệt đối. Lúc này, hiệu quả tuyệt đối không là cơ sở
để xác định hiệu quả so sánh. Chẳng hạn, việc so sánh giữa mức chi phí của
phƣơng án với nhau để chọn ra phƣơng án có chi phí thấp nhất, thực chất chỉ
là so sánh mức chi phí của các phƣơng án chứ khơng phải là so sánh mức
hiệu quả tuyệt đối của các phƣơng án

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

10


3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Trong cơ chế thị trƣờng, không phải cứ xây dựng đƣợc một phƣơng án kinh
doanh tốt là doanh nghiệp có thể đạt đƣợc hiệu quả kinh doanh tối đa, mà việc
đạt hiệu quả kinh doanh cao hay thấp, tốt hay xấu còn phụ thuộc vào nhiều yếu
tố cả bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ đạt đƣợc hiệu
quả kinh doanh khi đảm bảo chi phí tối thiểu và lợi nhuận tối đa, nghĩa là
doanh nghiệp biết quản lý chi phí và sử dụng nguồn lực hiệu quả. Xét cho
cùng, các nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng
là các nhân tố ảnh hƣởng đến lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp, bao gồm
các nhân tố ảnh hƣởng đến doanh thu và chi phí của doanh nghiệp.
3.1. Mơi trường pháp lý và các chính sách của nhà nước
Một trong những nhân tố của mơi trƣờng bên ngồi ảnh hƣởng đến hiệu quả
kinh doanh là mơi trƣờng pháp lý và chính sách của nhà nƣớc.
Luật quốc tế và luật quốc gia có ảnh hƣởng trực tiếp đến tình hình và kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Luật pháp sẽ quy định và cho phép những
lĩnh vực hoạt động và hình thức kinh doanh nào mà doanh nghiệp có thể
thực hiện và những lĩnh vực nào doanh nghiệp không đƣợc phép tiến hành

hoặc đƣợc phép tiến hành nhƣng có hạn chế ở quốc gia đó cũng nhƣ ở khu
vực đó.
Luật pháp mỗi quốc gia cũng liên hệ và ảnh hƣởng đến tình hình kinh doanh
giữa các nƣớc với nhau. Trong điều kiện này buộc các quốc gia phải điều chỉnh
hoạt động của mình cho thích ứng, các doanh nghiệp phải phản ứng linh hoạt
để đáp ứng nhanh với những quy định mới về luật quốc gia mà doanh nghiệp
đang hoạt động. Những tác động, ảnh hƣởng chủ yếu của luật đối với hoạt
động của doanh nghiệp thể hiện ở những điểm cơ bản sau:

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

11




Các quy định về giao dịch: hợp đồng, sự bảo vệ các bằng sáng chế,
phát minh, luật bảo hộ nhãn hiệu thƣơng mại, bí quyết cơng nghệ,
quyền tác giả…



Mơi trƣờng pháp luật chung: luật môi trƣờng, tiêu chuẩn về an toàn lao
động,…



Luật thành lập doanh nghiệp, các ngành, các lĩnh vực kinh doanh




Luật lao động



Luật giá cả



Luật chống độc quyền



Luật thuế.

Ngồi ra, các chính sách của nhà nƣớc nhƣ: chính sách về tài chính tiền tệ,
chính sách thuế, tỷ giá hối đoái,… cũng ảnh hƣởng đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Chính sách này vừa có tác động vĩ mô đến nền
kinh tế, vừa tạo cơ hội, thách thức đối với hoạt động kinh doanh của từng
doanh nghiệp. Nhƣ chính sách về tỷ giá hối đối, chính sách về thuế xuất
nhập khẩu nếu không ổn định sẽ ảnh hƣởng đến doanh thu, chi phí của từng
doanh nghiệp, từ đó ảnh hƣởng đến hiệu quả kinh doanh.
Ngoài luật pháp và các chính sách quốc gia, luật quốc tế có ảnh hƣởng đến
kết quả kinh doanh đặc biệt đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Luật quốc
tế theo nghĩa rộng bao gồm những luật ảnh hƣởng đến hoạt động kinh doanh
quốc tế. Theo nghĩa hẹp bao gồm các hiệp định chi phối mối quan hệ giữa
các quốc gia liên quan đến dịng di chuyển hàng hóa, tiền tệ, lao động,…
Các hiệp định song phƣơng và đa phƣơng không chỉ tạo điều kiện cho hoạt
động kinh doanh quốc tế tiến hành trôi chảy hơn, mà cịn góp phần giúp giải
quyết các vấn đề mới phát sinh trong kinh doanh, cũng nhƣ tranh chấp giữa

các quốc gia và giữa các nhà kinh doanh.

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

12


3.2. Tổ chức quản lý và kinh doanh
Trong doanh nghiệp, việc tổ chức kinh doanh đƣợc coi là nhân tố có ý nghĩa
vơ cùng quan trọng ảnh hƣởng đến tổ chức quản lý các hoạt động kinh tế vi
mô của doanh nghiệp bao gồm các khâu cơ bản nhƣ: định hƣớng chiến lƣợc
cơ bản phát triển doanh nghiệp, xây dựng kế hoạch, phƣơng án kinh doanh,
đánh giá kiểm tra và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh. Các khâu của q
trình quản lý hoạt động kinh tế vi mơ làm tốt sẽ làm tăng sản lƣợng, nâng
cao chất lƣợng, hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí quản lý. Đó là điều kiện
quan trọng để tăng thêm lợi nhuận.
Để tổ chức, quản lý và kinh doanh có hiệu quả thì bộ máy quản lý phải hợp
lý giúp doanh nghiệp quản lý chi phí hiệu quả, tăng doanh thu, tăng lợi
nhuận. Muốn vậy, trong quá trình xây dựng, tổ chức phải quy định rõ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm từng bộ phận. Cơ cấu tổ chức
phải chỉ ra đƣợc các vị trí khác nhau, những ngƣời nắm giữ các vị trí đó, và
các mối liên quan quyền lực giữa ngƣời này với ngƣời khác. Cụ thể là, mỗi
nhân viên của doanh nghiệp phải biết rõ vị trí của họ trong cơ cấu và xác
định đƣợc mối liên quan về quyền lực giữa họ và ngƣời khác của tổ chức.
Đồng thời doanh nghiệp cần xây dựng bộ máy gọn nhẹ, linh hoạt và mềm
dẻo để thích ứng đƣợc trƣớc những thay đổi của môi trƣờng kinh doanh.
Ngày nay, tồn tại rất nhiều cơ cấu bộ máy tổ chức quản trị, tuy nhiên tùy
theo từng đặc điểm kinh doanh, từng thời kỳ mà mỗi doanh nghiệp chọn
một cơ cấu tổ chức hợp lý.
3.3. Nguồn nhân lực

Lao động là một trong ba yếu tố chủ yếu của sản xuất. Sự tác động của yếu
tố lao động đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đƣợc thể hiện trên
hai mặt đó là số lƣợng lao động và năng suất lao động. Trong mỗi thời kỳ

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

13


nhất định, số lƣợng lao động nhiều hay ít, năng suất lao động cao hay thấp,
trực tiếp ảnh hƣởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong mỗi doanh nghiệp, số lƣợng lao động nhiều hay ít tùy thuộc vào nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh, trình độ trang thiết bị kỹ thuật và trình độ tổ chức
quản lý. Dù là lao động thƣờng xuyên hay là lao động theo hợp đồng, toàn bộ
lực lƣợng lao động của doanh nghiệp bao gồm hai loại sau:


Lao động trực tiếp: là những ngƣời trực tiếp sản xuất kinh doanh, trực
tiếp quản lý kỹ thuật.



Lao động gián tiếp: là những ngƣời làm nhiệm vụ tổ chức, quản lý và
phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh (bộ máy tổ chức hành chính sự
nghiệp…).

Cả hai loại lao động này đều cần thiết cho mọi doanh nghiệp. Song xác
định cấu thành hợp lý giữa lao động trực tiếp và gián tiếp là một biện pháp
có ý nghĩa quan trọng, quyết định năng suất lao động và hiệu suất công tác
của mỗi loại lao động.

Cấu thành lực lƣợng lao động đƣợc coi là hợp lý khi số lƣợng lao động trực
tiếp đảm bảo toàn diện và hiệu quả cho mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp và số lƣợng lao động gián tiếp đủ đảm bảo đảm bảo quản lý
phục vụ tốt quá trình sản xuất kinh doanh.
Khi có đủ lực lƣợng lao động với trình độ và cơ cấu hợp lý sẽ tạo ra khả
năng thuận lợi để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Muốn vậy đội ngũ cán bộ
cơng nhân viên phải có thể lực tốt, có kiến thức vững về chun mơn, giỏi
ngoại ngữ, có nghệ thuật trong giao tiếp, có khả năng tiếp thu với khoa học
tiên tiến hiện đại.
Tuy nhiên, trình độ lao động cao và cơ cấu hợp lý mới chỉ là điều kiện cần,
là khả năng thuận lợi nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Khả năng đó trở

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

14


thành hiện thực hay khơng cịn tùy thuộc vào tình hình sử dụng lao động
đƣợc biểu hiện ở chỉ tiêu năng suất lao động.
Các nhân tố ảnh hƣởng đến năng suất lao động cũng là một trong những
nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả kinh doanh vì năng suất lao động là một
chỉ tiêu bộ phận phản ánh hiệu quả kinh doanh.Có thể nêu ra một số nhân tố
ảnh hƣởng đến năng suất lao động là:


Trình độ nghiệp vụ của lao động;



Trình độ cơ khí hóa sản xuất và tình trạng thiết bị kỹ thuật của doanh

nghiệp;



Chất lƣợng của nguyên liệu sản xuất hay sản phẩm kinh doanh;



Trình độ tổ chức quản lý kinh doanh và sử dụng lao động…

Nhƣ vậy, lực lƣợng lao động là nhân tố trực tiếp ảnh hƣởng đến hiệu quả
kinh doanh, tạo ra “giá trị thặng dƣ” cho doanh nghiệp.
Mác - Lênin chỉ ra rằng, hiệu quả kinh tế bắt nguồn từ sự tiết kiệm lao động
sống (tăng năng suất) và lao động quá khứ (giảm chi phí sản xuất kinh
doanh). Vì vậy, việc sắp xếp hợp lý tổ chức kinh doanh là một biện pháp để
giảm chi phí lao đống sống và lao động quá khứ, cũng có nghĩa là nâng cao
hiệu quả kinh doanh.
3.4. Vốn kinh doanh
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải có một khối
lƣợng nhất định về vốn. Nói cách khác, vốn là yếu tố có tính chất quyết
định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vốn lớn không những giúp
doanh nghiệp mở rộng sản xuất, đa dạng hóa mặt hàng, mở rộng thị trƣờng
kinh doanh mà còn là nền tảng vững chắc giúp doanh nghiệp phát triển lâu
dài, ổn định, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

15



Vốn kinh doanh thực chất là nguồn của cải xã hội tích lũy lại, là một điều
kiện, một nguồn khả năng để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên,
vốn kinh doanh chỉ biết phát huy tác dụng khi biết quản lý, sử dụng vốn
một cách đúng hƣớng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. Nhƣ vậy, vốn kinh
doanh kết hợp với khả năng sử dụng vốn là nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả
sử dụng vốn, khái quát hơn là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
3.5. Chất lượng của nguyên vật liệu và hàng hóa, dịch vụ
Với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nguyên vật liệu có ý nghĩa quyết
định, là một trong ba yếu tố cơ bản của sản xuất. Cơ cấu nguyên vật liệu
hợp lý cả về số lƣợng, chất lƣợng, giá cả chủng loại sẽ góp phần tạo ra sản
phẩm có chất lƣợng cao giá cả hợp lý.
Chất lƣợng sản phẩm tốt cùng với việc nâng cao chất lƣợng dịch vụ góp
phần tăng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, giảm hợp lý chi phí sẽ
làm tăng lợi nhuận, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
3.6. Thị trường và môi trường cạnh tranh
Kinh tế thị trƣờng là nền kinh tế đƣợc điều tiết chủ yếu bởi thị trƣờng và
quy luật cạnh tranh là cơ chế vận động của thị trƣờng, nói khác đi thị
trƣờng là nơi gặp gỡ của đối thủ cạnh tranh.
Trong thƣơng mại quốc tế, các doanh nghiệp cần nâng cao không ngừng
năng lực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trƣờng nhằm đạt hiệu quả tối ƣu. Năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở chất lƣợng sản phẩm dịch vụ và
giá hàng hóa. Xét đến cùng, để nâng cao năng lực cạnh tranh các doanh
nghiệp cần giảm giá thành và nâng cao chất lƣợng sản phẩm, dịch vụ hay
quản lý chi phí và nguồn lực hiệu quả. Nhƣ vậy, chính sức ép cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp trên thị trƣờng đã làm cho giá cả các “yếu tố đầu
vào” và “yếu tố đầu ra” biến động theo những xu hƣớng khác nhau. Điều
này đòi hỏi doanh nghiệp cần phải linh hoạt điều chỉnh các hoạt động của
Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

16



mình nhằm giảm thách thức, tăng thời cơ giành thắng lợi trong cạnh tranh.
Muốn vậy doanh nghiệp cần nhanh chóng chiếm lĩnh thị trƣờng, đƣa ra thị
trƣờng những sản phẩm dịch vụ mới, chất lƣợng cao và giá thành hợp lý.
Tóm lại : Các nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp cũng chính là những nhân tố tác động đến doanh thu và chi phí. Vì
vậy, ngồi các biện pháp vĩ mơ từ phía nhà nƣớc, các biện pháp nâng cao
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bao gồm các biện pháp tăng doanh
thu và giảm chi phí một cách hợp lý.
II. HIỆU QUẢ KINH DOANH NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HẢI
1. Bảo hiểm hàng hải
1.1. Khái niệm
Bảo hiểm hàng hải là bảo hiểm những rủi ro trên biển hoặc những rủi ro
trên bộ, trên sơng liên quan đến hành trình đƣờng biển, gây tổn thất cho các
đối tƣợng bảo hiểm chuyên chở trên biển.
Bảo hiểm hàng hải có lịch sử rất lâu đời. Một trong những đơn bảo hiểm
đầu tiên mà ngƣời ta tìm thấy là đơn bảo hiểm cấp vào năm 1347 tại Genoa
(Italia) cho tàu Santaclara đi đến quần đảo Magioca thuộc Tây Ban Nha.
Ngƣời ta cho rằng bảo hiểm hàng hải ra đời bắt đầu từ những ngƣời cho vay
nặng lãi sống ở miền Bắc Italia. Những ngƣời này thƣờng cho chủ tàu vay
nợ với điều kiện là nếu tàu đi trót lọt thì chủ tàu phải trả một khoản lãi rất
nặng. Ngƣợc lại, nếu tàu bị đắm thì, mất hết thì đƣợc xố nợ. Lối cho vay
nặng này đƣợc gọi là vay “đƣợc ăn cả ngã về không” hay cho vay kiêm bảo
hiểm.
Bảo hiểm sau đó phát triển sang Anh. Nƣớc Anh là nƣớc có nền ngoại
thƣơng phát triển nên bảo hiểm cũng phát triển sớm và đầy đủ hơn. Ngay từ

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41


17


thế kỷ 17 Anh đã có mẫu đơn bảo hiểm tàu và hàng (Lloy‟s SG form) vẫn
đƣợc áp dụng cho đến ngày nay.
1.2. Phân loại bảo hiểm hàng hải
Bảo hiểm hàng hải gồm ba loại:


Bảo hiểm thân tàu (Hull Insurance): bảo hiểm thân tàu là bảo hiểm
những thiệt hại vật chất xảy ra đối với vỏ tàu, máy móc và các thiết bị
trên tàu đồng thời bảo hiểm cƣớc phí, các chi phí hoạt động của tàu và
một phần trách nhiệm mà chủ tàu phải chịu trong trƣờng hợp tàu đâm
va nhau.



Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu (P&I Insurance): là bảo hiểm
những thiệt hại phát sinh từ trách nhiệm của chủ tàu trong quá trình sở
hữu, kinh doanh, khai thác tàu biển.



Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đƣờng biển: là bảo hiểm những
mất mát hoặc hƣ hỏng của hàng hóa hay trách nhiệm liên quan đến
hàng hóa bảo hiểm. Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đƣờng biển
bao gồm bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, hàng hóa vận chuyển
trong nội địa.

1.3. Vai trị của bảo hiểm hàng hải

Giao thơng đƣờng biển có vai trị rất quan trọng trong q trình quốc tế hóa
về thƣơng mại. Khơng ai có thể phủ nhận đƣợc lợi ích kinh tế của nó. Hàng
năm, ngành giao thơng đƣờng thủy trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra một
khoản lợi nhuận khổng lồ, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập quốc
dân. Kinh doanh tàu biển là một loại hình kinh doanh địi hỏi vốn đầu tƣ
khổng lồ vì giá trị của mỗi con tàu là rất lớn, vì vậy mà khi gặp rủi ro thì
tổn thất là khơng nhỏ và khó khôi phục đƣợc. Là một ngành chiếm tỷ trọng

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

18


lớn trong hoạt động buôn bán ngoại thƣơng nhƣng vận tải biển cũng là
ngành chịu nhiều rủi ro xuất phát từ ba yếu tố:


Tự nhiên: Do hoạt động dài ngày trên biển lại có khối lƣợng lớn nên
tàu biển dễ bị tác động của các yếu tố tự nhiên bất lợi nhƣ sóng thần,
bão tố, núi lửa phun, băng trơi, đá ngầm...và các vụ tổn thất về tàu do
các yếu tố tự nhiên chiếm tỷ lệ lớn.



Kỹ thuật: Dù ngày nay khoa học kỹ thuật đã phát triển vƣợt bậc, các
con tàu trọng tải lớn có trang bị thiết bị hiện đại, sử dụng hệ thống định
vị hàng hải vệ tinh tồn cầu thì những tai nạn đáng tiếc khơng vì thế
mà mất đi và giá trị thiệt hại mỗi vụ rất lớn.




Xã hội, con ngƣời: Các rủi ro chiến tranh, đình cơng, cƣớp biển cũng
gây ra những tổn thất không nhỏ đối với các con tàu.

Bảo hiểm hàng hải ra đời đã mang lại những lợi ích to lớn cho các chủ tàu
và chủ hàng. Bảo hiểm hàng hải là một phƣơng tiện cung cấp cho họ một sự
đảm bảo hữu hiệu về khả năng khắc phục những rủi ro có thể xảy ra đối với
tài sản của họ, cũng nhƣ có thể đảm bảo cho các nhà vận chuyển có thể
thực hiện trách nhiệm dân sự của họ đối với ngƣời thứ ba và đối với hàng
hóa đƣợc giao phó. Nói cách khác, bảo hiểm hàng hải sẽ giúp các tổ chức
mua bảo hiểm bảo toàn đƣợc vốn liếng tài sản, duy trì khả năng kinh doanh
trong trƣờng hợp không may gặp rủi ro.
2. Hiệu quả kinh doanh bảo hiểm hàng hải
2.1. Khái niệm
Hiệu quả kinh doanh của bảo hiểm hàng hải là thƣớc đo sự phát triển của
bản thân lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm hàng hải và phản ánh trình độ sử
dụng chi phí trong việc tao ra những kết quả kinh doanh nhất định, nhằm
đạt đƣợc mục tiêu đề ra.

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

19


Với tƣ cách là thƣớc đo sự phát triển của bảo hiểm hàng hải, hiệu quả kinh
doanh thể hiện ở các chỉ tiêu đặc trƣng kinh tế, xã hội khác nhau. Nhƣng
vấn đề đáng lƣu ý ở đây là không phải tất cả các chỉ tiêu kinh tế, xã hội đều
là chỉ tiêu hiệu quả. Các chỉ tiêu phản ánh chi phí (chẳng hạn: tiền lƣơng so
với tổng chi phí) và cơ cấu kết quả kinh doanh (chẳng hạn: lợi nhuận so với
doanh thu) đều không phải là chỉ tiêu hiệu quả. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh

doanh chỉ có thể đƣợc xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả với chi phí.
Nếu lấy mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh so với một chỉ tiêu phản
ánh chi phí, ta đƣợc một chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh. Khi đánh giá tốc độ
phát triển kinh doanh của bảo hiểm hàng hải có thể dùng nhiều chỉ tiêu
phản ánh nhƣ: tốc độ tăng doanh thu, tốc độ tăng lợi nhuận… nhƣng đó chỉ
là chỉ tiêu “bề nổi”. Các chỉ tiêu “bề sâu” phải là các chỉ tiêu hiệu quả kinh
tế. Bởi vì, tốc độ tăng doanh thu hay lợi nhuận chỉ nói lên động thái của kết
quả kinh doanh, chứ chƣa đề cập đến chi phí trong kinh doanh. Nếu chi phí
tăng nhanh và sử dụng lãng phí về lâu dài, tốc độ tăng đó sẽ khơng có ý
nghĩa và hồn tồn khơng có hiệu quả.
Việc phản ánh tình hình sử dụng các loại chi phí trong việc tạo ra kết quả
kinh doanh là nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả
kinh doanh bảo hiểm hàng hải nói riêng. Nội dung này đƣợc phản ánh bởi
nhiều chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu hiệu quả biểu thị một mặt, một yếu tố hay một
loại chi phí nào đó trong q trình sử dụng. Các chỉ tiêu này lại mang tính
tƣơng đối, tức là nó phản ánh mức đạt đƣợc của một năm để từ đó so với
năm trƣớc đó hoặc những năm trƣớc nữa xem nó tăng giảm và biến động
nhƣ thế nào. Xu hƣớng biến động nhanh hay chậm cho thấy sự tốt lên hay
xấu đi trong quá trình sử dụng chi phí hoặc các nguồn lực.
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và lĩnh vực bảo
hiểm hàng hải nói riêng ln gắn liền với mục tiêu kinh tế - xã hội. Trƣớc

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

20


hết là mục tiêu của doanh nghiệp, sau đó là của ngành bảo hiểm và toàn bộ
nền kinh tế - xã hội. Bởi vì bảo hiểm khơng chỉ mang tính kinh tế, mà cịn
mang tính xã hội. Cho nên, khi đánh giá hiệu quả kinh doanh của kinh

doanh bảo hiểm hàng hải khơng chỉ xét trên góc độ kinh tế mà cịn phải xét
trên góc độ phục vụ xã hội. Ngun tắc “lấy số đơng bù số ít” trong kinh
doanh bảo hiểm càng làm cho tính chất xã hội của nó rõ nét hơn. Từ đó làm
cho cơng tác xã hội hóa của bảo hiểm ngày càng sâu rộng. Bởi vậy hiệu quả
xã hội của kinh doanh bảo hiểm hàng hải cũng phải đƣợc phản ánh ở trình
độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả phục vụ xã hội.
2.2. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải
2.2.1. Chỉ tiêu chung.
Xét trên phƣơng diện thống kê, để biểu hiện và đo lƣờng hiệu quả kinh
doanh của bảo hiểm hàng hải, không thể dùng một chỉ tiêu, mà phải có một
hệ thống chỉ tiêu. Bởi vì, nội dung của phạm trù hiệu quả kinh doanh rất
phức tạp. Tính chất phức tạp thể hiện ở ngay bản chất mối quan hệ giữa kết
quả với chi phí. Chi phí với tƣ cách là những yếu tố đầu vào của hoạt động
kinh doanh rất đa dạng và bao gồm nhiều loại. Ở góc độ kinh tế vĩ mơ, nếu
hiểu theo nghĩa rộng, chi phí bao gồm tồn bộ nguồn nhân tài, vật lực huy
động vào hoạt động kinh doanh. Còn đại lƣợng kết quả lại đƣợc thể hiện ở
nhiều chỉ tiêu khác nhau. Việc tính tốn và xác định mỗi chỉ tiêu, việc lựa
chọn chỉ tiêu nào để phản ánh hiệu quả là những vấn đề phức tạp. Vì thế để
đánh giá hiệu quả kinh doanh của bảo hiểm hàng hải phải sử dụng một hệ
thống chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu phản ánh một mặt, một q trình kinh tế nào đó.
Nếu ký hiệu chỉ tiêu chi phí là C và chỉ tiêu kết quả kinh doanh là K thì chỉ
tiêu hiệu quả H đƣợc tính từ hai chỉ tiêu trên sẽ là.
H=

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

K
C

hoặc H =


21

C
K


Nhƣ vậy, về nguyên tắc cứ mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh so với
một chỉ tiêu phản ánh chi phí nào đó sẽ tạo thành một chỉ tiêu phản ánh
hiệu quả kinh doanh tính theo chiều thuận K/C hoặc chiều ngƣợc lại C/K.


Nếu đứng trên góc độ kinh tế : Hiệu quả kinh doanh của bảo hiểm
hàng hải đƣợc đo bằng tỷ số giữa doanh thu hoặc lợi nhuận với tổng
chi phí chi ra trong kỳ:
HD =

D
L
(1) HL =
(2)
C
C

Trong đó:
HD , HL : Hiệu quả kinh doanh của bảo hiểm hàng hải tính theo
doanh thu và lợi nhuận;
D:

Doanh thu trong kỳ;


L:

Lợi nhuận thu đƣợc trong kỳ;

C:

Tổng chi phí chi ra trong kỳ.

Chỉ tiêu (1) nói lên cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ, tạo ra bao nhiều đồng
doanh thu, còn chỉ tiêu (2) phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra
bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hải.
Các chỉ tiêu trên càng lớn càng tốt, vì với chi phí nhất định, cho doanh nghiệp
sẽ có mức doanh thu và lợi nhuận ngày càng tăng.


Nếu xét trên góc độ xã hội : hiệu quả kinh doanh của bảo hiểm hàng
hải đƣợc thể hiện ở hai chỉ tiêu sau:
HK =

KTG
KBT
(3) HX =
(4)
CBH
CBH

Trong đó:
HX : Hiệu quả xã hội của bảo hiểm hàng hải;


Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

22


CBH : Tổng chi phí cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hải ;
KTG : Số khách hàng tham gia bảo hiểm trong kỳ;
KBT : Số khách hàng đƣợc bồi thƣờng trong kỳ.
Chỉ tiêu (3) phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ đã thu hút đƣợc
bao nhiêu khách hàng tham gia bảo hiểm. Còn chỉ tiêu (4) nói lên cùng với
đồng chi phí đó đã góp phần giải quyết và khắc phục hậu quả cho bao nhiêu
khách hàng gặp rủi ro trong kỳ nghiên cứu. Tất cả chỉ tiêu trên phản ánh
tổng hợp nhất mọi mặt hoạt động kinh doanh của bảo hiểm hàng hải.
2.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn
- Số vòng quay của vốn : tốc độ luân chuyển vốn là một chỉ tiêu chất
lƣợng tổng hợp phản ánh trình độ quản lý kinh doanh của doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hải. Nó đƣợc tính bằng cơng thức:
H=

DT
V

H : Số vịng quay của vốn;
V : Vốn bình quân;
DT : Doanh thu.

- Khả năng sinh lời của vốn: chỉ tiêu này biểu thị mỗi đơn vị vốn bỏ vào
kinh doanh mang lại bao nhiêu lợi nhuận. Nó đƣợc tính bàng cơng thức:
H=


LN
V

H : Khả năng sinh lời của vốn;
V : Vốn bình quân;
LN : Lợi nhuận.

2.2.3. Hiệu quả sử dụng lao động
Số lƣợng lao động và chất lƣợng lao động là yếu tố cơ bản của quá trình
kinh doanh bảo hiểm hàng hải. Hiệu quả sử dụng lao động đƣợc biểu hiện ở
doanh thu bình quân một lao động và mức sinh lời của lao động.

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

23


- Chỉ tiêu doanh thu bình quân một lao động : chỉ tiêu này phản ánh một
lao động có thể làm lợi cho doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hải
bao nhiêu đồng doanh thu trong một kỳ. Nó đƣợc tính bằng cơng thức :
W=

DT
N

W : Doanh thu bình qn một lao động;
DT : Doanh thu;
N : Số lao động bình quân.

- Chỉ tiêu mức sinh lời của một lao động : Chỉ tiêu này phản ánh mức độ

đóng góp của mỗi ngƣời lao động đối với việc kinh doanh bảo hiểm
hàng hải vào lợi nhuận hay kết quả kinh doanh. Chỉ tiêu này đƣợc tính
bằng cơng thức :
B=

LN
N

B : Mức sinh lời của một lao động;
N : Số lao động bình qn;
LN : Lợi nhuận.

Khi phân tích đánh giá chung hiệu quả hoạt kinh doanh của bảo hiểm hàng
hải thơng qua các chỉ tiêu ta có thể dựa trên sự so sánh các chỉ tiêu tƣơng
đối giữa các thời kỳ khác nhau để thấy đƣợc tốc độ cũng nhƣ hƣớng phát
triển hay trì trệ của các hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hải ra sao,
đồng thời tìm hiểu nguyên nhân của những hiện tƣợng đó, nghiên cứu các
biện pháp hạn chế, khắc phục nhằm tăng khả năng tiềm lực trong doanh
nghiệp, rút kinh nghiệm trong thời gian tới, tăng lợi nhuận và nâng cao hiệu
quả hoạt động cho doanh nghiệp bảo hiểm nói chung về lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm hàng hải nói riêng trong tƣơng lai.
Hoạt động chủ yếu của Doanh nghiệp bảo hiểm là tổ chức kinh doanh các
nghiệp vụ bảo hiểm nhằm đạt đƣợc các mục tiêu đề ra. Mỗi nghiệp vụ bảo

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

24


hiểm thƣờng đƣợc doanh nghiệp triển khai theo một quy trình thống nhất

gồm ba khâu cơ bản:
- Khai thác bảo hiểm (bán các dịch vụ, các sản phẩm bảo hiểm);
- Đề phịng và hạn chế tổn thất (kiểm sốt tổn thất);
- Giám định bồi thƣờng hoặc chi trả tiền bảo hiểm hàng hải (giải quyết
khiếu nại).
Ba khâu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, mỗi khâu đóng một vai trị
quan trọng trong tồn bộ quy trình triển khai bảo hiểm và chúng đều có ảnh
hƣởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm.
Vì vậy, muốn đánh giá đƣợc hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm
hàng hải cần phải phân tích hiệu quả kinh doanh của mỗi khâu thơng qua
các chỉ tiêu hiệu quả.

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

25


CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH DOANH BẢO HIỂM HÀNG
HẢI CỦA CƠNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ
(GIAI ĐOẠN 2000 – 2005)
I.

KHÁI QT CHUNG VỀ CƠNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ

1.

Q trình ra đời và phát triển của Cơng ty Bảo hiểm Dầu khí
Cơng ty Bảo hiểm Dầu khí đƣợc thành lập ngày 23/01/1996 theo quyết
định số 12/BT của Văn phòng Chính phủ. Cơng ty Bảo hiểm Dầu khí là

doanh nghiệp thành viên của Tổng Cơng ty Dầu khí Việt Nam, là doanh
nghiệp nhà nƣớc hạch tốn độc lập, có tƣ cách pháp nhân, có con dấu riêng,
đƣợc mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nƣớc.
Khi mới thành lập, Công ty Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam có trụ sở chính tại
số 10 đƣờng Điện Biên Phủ - Hà Nội. Cuối năm 1999, Bảo hiểm Dầu khí
chuyển trụ sở chính tới 154 Nguyễn Thái Học- Quận Ba Đình- Hà Nội và
có thêm chi nhánh tại Đà Nẵng. Đến năm 2005, công ty có 11 chi nhánh và
các đại lý chun nghiệp.
Cơng ty Bảo hiểm Dầu khí ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của
ngành dầu khí, một ngành kinh tế trọng điểm của đất nƣớc với lƣợng vốn
đầu tƣ rất lớn và mang tính quốc tế cao. Trong quá trình xây dựng một tập
đồn Dầu khí quốc gia, ngồi việc quản lý các dự án dầu khí trong nƣớc,
Tổng Cơng ty Dầu khí Việt Nam (Petro Việt Nam) đang từng bƣớc mở rộng
hoạt động, vƣơn mạnh ra thị trƣờng quốc tế. Để đảm bảo định hƣớng phát
triển của ngành dầu khí, Petro Việt Nam đã quyết định thành lập Cơng ty
Bảo hiểm Dầu khí (tên giao dịch quốc tế là PV Insurance) với nhiệm vụ xây
dựng chƣơng trình quản lý rủi ro, đảm bảo an toàn tài sản, cũng nhƣ các hạt

Vũ Thị Thơ - Lớp Nga K41

26


×