TIỂU LUẬN
MÔN: PHÁP CHẾ TRONG QUẢN LÝ XÃ HỘI
ĐỀ TÀI:
CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG BỘ TRONG NGÀNH Y TẾ
0
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
B. NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lý luận công tác kiểm tra của Đảng
1. Khái niệm
2. Ý nghĩa
3. Yêu cầu
4. Công tác kiểm tra của Đảng
Chương II: Công tác kiểm tra trong ngành y tế của Đảng những năm gần đây
1. Công tác kiểm tra của Đảng bộ về ngành y tế của nước ta
2. Công tác kiểm tra ngành y tế của Đảng
2.1.
Công tác kiểm tra và sai phạm trong ngành y tế
2.2.
Cơng tác kiểm tra Cục Phịng, chống HIV/AIDS
2.3.
Cơng tác kiểm tra Chi cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình
2.4.
Kiểm tra chun đề về cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí,
thực hành tiết kiệm trong ngành y tế
3. Công tác kiểm tra ngành y tế của Đảng tại Lạng Sơn
Chương III: Những giải pháp về công tác kiểm tra của Đảng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1
Công tác kiểm tra giám sát gắn liền một cách tất yếu với sự lãnh đạo của Đảng
vì lãnh đạo khơng chỉ là việc xây dựng đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng; là việc tổ chức thực hiện và bố trí cán bộ, mà lãnh đạo cịn là kiểm tra, giám sát;
không những kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, Cương lĩnh chính trị, chủ
trương chính sách, mà kiểm tra, giám sát ngay bản thân Cương lĩnh chính trị, đường
lối, chính sách đó và kiểm tra, giám sát cả các tổ chức tiến hành kiểm tra, giám sát
nhằm bảo đảm đường lối, chính sách được xác định đúng, được quán triệt và tổ chức
thực hiện thắng lợi trong thực tiễn, Đó là vấn đề có tính nguyên tắc, vừa là chức năng
lãnh đạo, vừa là trách nhiệm, phương pháp, quy trình lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi. Khi đã có
chính sách đúng, thì sự thành cơng hoặc thất bại của các chính sách đó là do nơi cách
tổ chức cơng việc, nơi lựa chọn cản bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì
chính sách dứng mấy cũng vơ ích”. “Có thể nói rằng: chín phần mười khuyết điểm
trong cơng việc của chúng ta là vì thiếu kiểm tra ”. Thực tiễn lãnh đạo của Đảng ta từ
khi thành lập đến nay đã khẳng định, kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo
của Đảng, lãnh đạo phải có kiểm tra, giám sát, “lãnh đạo mà khơng kiểm tra thì coi như
khơng có lãnh đạo”. “Cơng tác kiểm tra có vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt
động lãnh đạo của Đảng”. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục nhấn mạnh
phải “Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp uỷ, của uỷ ban kiểm tra các cấp”; Văn
kiện Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Đổi mới phương pháp kiểm tra và bổ sung chức năng
giám sát cho ủy ban kiểm tra các cấp" và yêu cầu phải "nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác kiểm tra, giám sát". Vì thế có thể nói kiểm tra là một bộ phận quan trọng
trong tồn bộ cơng tác xây dựng của Đảng. Nhận thức được tầm quan trọng của việc
kiểm tra của Đảng từ trung ương tới địa phương nên tiểu luận sẽ nghiên cứu về những
công tác kiểm tra của Đảng trong ngành y tế - một trong những ngành nhận được sự
quan tâm của rất nhiều người trong lúc tình hình dịch bệnh diễn biến căng thẳng. Vì thế
nên công tác kiểm tra lúc này là vô cùng cấp thiết để tránh xảy ra những sai phạm
không đáng có.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
2
Tìm hiểu và nghiên cứu về chất lượng cơng tác kiểm tra trong ngành y tế hiện
nay và đưa ra những giải pháp phù hợp với tình hình hiện nay
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các đảng viên trong ngành y tế nói riêng và cơng tác kiểm tra trong Đảng bộ nói
chung
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phương pháp quy nạp và diễn giải
Phương pháp lịch sử
Phương pháp phân tích logic
B. NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lý luận
1. Khái niệm
Pháp chế là vấn đề khơng chỉ có ý nghĩa lý luận mà cịn có ý nghĩa thực tiễn to
lớn. Trong xã hội ta, pháp chế đóng vai trị rất quan trọng trong việc bảo vệ và củng cố
chế độ xã hội, đảm bảo các mục đích của sự điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp chế xã
hội chủ nghĩa là sự đòi hỏi các chủ thể pháp luật (cơ quan nhà nước, các nhân viên nhà
nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân...) phải thực hiện đúng, thực hiện nghiêm
chỉnh pháp luật trong các hoạt động của mình. Như vậy, nội dung của pháp chế rất
phong phú, trong đó nội dung cơ bản nhất là sự tự giác, triệt để tôn trọng pháp luật của
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cơng dân. Khái niệm pháp chế có liên quan
chặt chẽ tới khái niệm pháp luật với tư cách là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận chính thức. Pháp luật là cơ sở của pháp chế. Muốn có
pháp chế thì trước hết phải có hệ thống pháp luật hồn thiện.
Xây dựng Hiến pháp và pháp luật, sử dụng pháp luật để quản lý xã hội luôn luôn
được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta coi trọng. Trong mọi thời kỳ phát triển của đất
3
nước, Đảng và Nhà nước ta không chỉ chú ý đến việc ban hành Hiến pháp và pháp luật
mà còn ln ln địi hỏi sự nghiêm chỉnh thi hành pháp luật, tuân thủ pháp luật, có
biện pháp tăng cường ý thức tôn trọng pháp luật và kỷ cương xã hội. Trong các Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng ln khẳng định: Hồn thiện hệ thống pháp
luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và
quyết định của các cơ quan nhà nước.
Ở nước ta, chức năng quản lý chủ yếu do các cơ quan hành chính nhà nước thực
hiện, có nghĩa là thực hiện hoạt động chấp hành các quyết định pháp luật của các cơ
quan quyền lực nhà nước và điều hành các quá trình phát triển xã hội trên cơ sở và để
thi hành pháp luật. Nói cách khác, bộ máy hành chính nhà nước và các chủ thể khác
thực hiện hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật. Trong q trình đó địi hỏi các
cơ quan quản lý chấp hành nghiêm chính, thường xuyên, đúng đắn pháp luật nhằm duy
trì trật tự, kỷ cương và củng cố pháp chế. Pháp chế là một trong những nguyên tắc cơ
bản trong quản lý, chủ thể quản lý có thể thực hiện tốt vai trị quản lý tồn bộ quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, nếu nắm vững các công cụ pháp luật. Thiếu nguyên tắc này
hoạt động quản lý sẽ khơng có cơ sở pháp lý bền vững, sẽ rơi vào tình trạng khủng
hoảng, rối loạn và khơng kiểm sốt được. Vì vậy, bảo đảm cho pháp chế được củng cố,
tăng cường và hoàn thiện là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và cũng là u cầu của q trình hồn thiện con
người và các quyền của họ trong quản lý xã hội.
Trong q trình xây dựng và từng bước hồn thiện bộ máy nhà nước, nhà nước
đã tạo ra cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước để chống các
biểu hiện lạm quyền, vi phạm pháp luật. Quản lý nhà nước là hoạt động phức tạp, liên
quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, của nhà nước. Điều đó địi
hỏi mọi hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước phải bị kiểm tra, giám sát bởi các
các cơ quan khác, của tổ chức xã hội và của công dân. Hoạt động kiểm tra, giám sát đối
với hoạt động quản lý nhà nước không đối lập, không cản trở hoạt động quản lý; ngược
lại làm cho hoạt động này trở nên dân chủ và hiệu quả hơn. Bảo đảm pháp chế trong
4
quản lý là phải củng cố việc xây dựng cơ chế, phương tiện, phương pháp nhằm làm cho
pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong thực tế, nhằm xây dựng và củng cố chính
quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đem lại lợi ích cho Nhà nước, xã hội và
mọi công dân. Việc bảo đảm pháp chế sẽ khơng có ý nghĩa nếu kỷ luật nhà nước cũng
như kỷ luật lao động, kỷ luật trực thuộc trong hoạt động cơng vụ, kỷ luật tài chính, kỷ
luật kế tốn, kỷ luật trong hoạt động thơng tin, văn bản... không được các cơ quan, tổ
chức, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước thực hiện nghiêm túc. Đồng thời tình
trạng thiếu kỷ cương, trật tự trong hoạt động của bộ máy hành pháp sẽ tác động tiêu
cực đến tình trạng pháp chế, tới việc thực hiện pháp luật của cơng dân. Vì vậy, bảo
đảm kỷ luật là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để bảo đảm pháp chế trong quản lý.
2. Ý nghĩa
Pháp chế được bảo đảm thơng qua đường lối chính trị của Đảng cầm quyền.
Đường lối chính trị của Đảng khơng chỉ xác định phương hướng, mục tiêu mà còn xác
định phạm vi nội dung các vấn đề cơ bản để nhà nước thể chế hố thành pháp luật.
Pháp chế được bảo đảm thơng qua các biện pháp xã hội và đạo đức. Nguồn gốc
của pháp chế là pháp luật. Pháp luật không chỉ được bảo đảm thực hiện bởi các biện
pháp cưỡng chế nhà nước mà nó cịn chịu sự tác động của các biện pháp giáo dục quần
chúng, bằng phong trào quần chúng, bằng dư luận xã hội, bằng truyền thống văn hoá
và đạo đức của con người trong xã hội. Các yếu tố này liên quan mật thiết với nhau tạo
nên tổng thể các biện pháp để củng cố và duy trì pháp chế.
Pháp chế được bảo đảm thông qua các yếu tố pháp lý. Căn cứ vào nội dung và
tính chất của các biện pháp tổ chức pháp lý chúng ta có các biện pháp bảo đảm pháp
chế cơ bản như hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng, các tổ chức xã hội và công dân,
hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, hoạt động kiểm toán nhà nước;
hoạt động kiểm tra, thanh tra của các cơ quan hành chính nhà nước; hoạt động xét xử
của Tồ án đối với hoạt động quản lý.
3. Yêu cầu
5
Bảo đảm pháp chế trong quản lý có nghĩa là bằng chứng những cơ chế và hoạt
động pháp lý làm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, có hiệu quả trong thực
tế, hoạt động của bộ máy nhà nước phải thực sự vì dân, đem lại những tiện ích và thủ
tục thực sự dễ hiểu, đơn giản và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân theo
một trật tự nhất định, vì thế cần có những u cầu được đặt ra để đảm bảo pháp chế
trong quản lý như: Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và
hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, để nhân dân lao động có đủ điều
kiện thực hiện các quyền tự do chân chính của họ; Xây dựng, kiện tồn tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, đủ năng lực: Hoàn thiện cơ chế bầu
cử nhằm nâng cao chất lượng Đại biểu Quốc hội, tăng số lượng đại biểu chuyên trách
để Quốc hội phải thực sự là cơ quan lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước và thực hiện chức năng giám sát tối cao, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội
đồng nhân dân, phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân, đẩy mạnh cải cách
hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp
theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành chính thống nhất, thơng suốt, hiện đại
thực sự là bộ máy điều hành có năng lực và hiệu quả, xây dựng hệ thống cơ quan tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người;
Xây dựng một đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức có trình độ năng lực, phẩm chất
đạo đức, phẩm chất chính trị đáp ứng yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ
được giao, có cơ chế kịp thời đưa ra khỏi bộ máy nhà nước những cán bộ, công chức
không xứng đáng, kém phẩm chất và năng lực; Hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện
tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị - xã hội và nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức, viên chức và cơ quan
công quyền, phát hiện, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt là các hiện
tượng quan liêu, tham nhũng; Xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai mọi hành vi vi
phạm pháp luật bất kể họ giữ những chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu, có cơ
chế khuyến khích và bảo vệ những người tích cực đấu tranh chống vi phạm pháp luật,
tiêu cực; Nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của cơng dân, coi đó là điều kiện
tiên quyết để đưa pháp luật vào cuộc sống; Hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ
6
chức trong xã hội phải phù hợp với mục đích, nội dung và yêu cầu của văn bản pháp
luật. Nếu trái với yêu cầu này thì những hoạt động kể trên rơi vào tình trạng tuỳ tiện
khơng thống nhất hoặc chủ quan duy ý chí, thậm chí cịn xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền cũng như lợi ích chính đáng của công dân; Hoạt động của các cơ quan nhà
nước nằm trong khuôn khổ và phạm vi thẩm quyền cũng như chức năng mà pháp luật
đã quy định. Vượt quá giới hạn thẩm quyền cũng như tự động thu hẹp thẩm quyền đều
là những hành vi trái pháp luật và sẽ bị xử lý; Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, các cơ quan nhà nước có quyền ban hành các văn bản pháp luật
mang tính quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và giải quyết những
vấn đề thuộc thẩm quyền của những cơ quan ấy. Những văn bản pháp luật này không
được trái với Hiến pháp. Hiệu lực của những văn bản này chỉ bị huỷ bỏ, thay thế hoặc
chấm dứt bởi văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên có thẩm quyền.
4. Cơng tác kiểm tra của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Trong các Nghị quyết Đại hội Đảng các nhiệm kỳ luôn khẳng định:
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế
hoá, cụ thể hoá thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình cơng tác lớn
của Nhà nước; bố trí đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện.
Như vậy, kiểm tra, giám sát đối với Nhà nước, xã hội là một chức năng không thể tách
rời quyền lãnh đạo của Đảng. Đảng đã khẳng định: Lãnh đạo mà khơng kiểm tra, giám
sát thì coi như khơng có lãnh đạo. Thơng qua các cơ quan, tổ chức của mình Đảng
kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước, trong đó có kiểm tra, giám sát hoạt động
của hệ thống các chủ thể quản lý, những người có chức vụ, mọi cán bộ, cơng chức
trong bộ máy quản lý. Hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng trong quản lý có những
hình thức, phương pháp, nội dung đặc thù riêng.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với hoạt động quản lý được thực hiện
bằng các hình thức sau: Nghe các Đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo trong các cơ quan
7
nhà nước, các tổ chức tương ứng báo cáo về mọi mặt hoạt động của bộ máy do mình
chỉ đạo, lãnh đạo và trực tiếp kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, đường lối chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước của những Đảng viên đó; Tổ chức lấy ý kiến về tổ
chức Đảng và đảng viên bằng những hình thức thích hợp; Trao đổi, nắm tình hình từ
các tổ chức Đảng trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, các đồn thể chính trị - xã hội;
thơng qua phản ánh của quần chúng, các phương tiện thông tin đại chúng và đơn thư tố
cáo, khiếu nại kỷ luật Đảng để nắm tình hình về tổ chức Đảng và đảng viên; Phối hợp
chặt chẽ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra của Nhà
nước, hoạt động thanh tra nhân dân ...
Kiểm tra, giám sát của Đảng gồm những nội dung chính sau: Những nội dung
liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thuộc lĩnh vực công tác của chủ thể
quản lý trong việc chấp hành đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước; Việc thực hiện tiêu chuẩn đảng viên và nhiệm vụ đảng viên, thực hiện
chức trách nhiệm vụ được giao; giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; việc giữ mối liên
hệ với tổ chức Đảng và thực hiện nghĩa vụ công dân ở nơi cư trú; Thực hiện những
điều cán bộ, công chức, viên chức và đảng viên không được làm; Thực hiện chế độ kê
khai và công khai tài sản của cán bộ, đảng viên theo quy định của Đảng và pháp luật
của Nhà nước ...
Chương II: Công tác kiểm tra trong ngành y tế của Đảng những năm gần đây
1. Công tác kiểm tra của Đảng bộ về ngành y tế của nước ta
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình
Đại hội XIII của Đảng khẳng định “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được chỉ
đạo tập trung, quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, có nhiều đổi mới, có hiệu lực, hiệu quả,
nhất là ở cấp Trung ương; hoạt động của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp được tăng
cường, ngày càng siết chặt kỷ luật, kỷ cương”. Theo báo cáo của Ủy ban Kiểm tra
Trung ương, trong nhiệm kỳ Đại hội XII, cấp ủy các cấp đã kiểm tra 264.201 tổ chức
đảng (tăng 8,42% so với nhiệm kỳ Đại hội XI); 1.124.146 đảng viên (tăng 4,83% đảng
viên), trong đó có: 272.556 cấp ủy viên (tăng 19% cấp ủy viên); thi hành kỷ luật 1.329
8
tổ chức đảng (giảm 0,24%) và 69.600 đảng viên (tăng 0,23%) bằng các hình thức.
Trong đó, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật 10 tổ
chức đảng, 59 đảng viên (có 3 Ủy viên Bộ Chính trị, 1 nguyên Ủy viên Bộ Chính trị,
23 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 22 sĩ quan cấp tướng). Ủy ban Kiểm
tra các cấp kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 15.920 tổ chức đảng (tăng 0,06%), 47.701
đảng viên (giảm 0,13%), trong đó có 23.432 cấp ủy viên các cấp; riêng Ủy ban Kiểm
tra Trung ương kiểm tra 35 tổ chức (tăng 169,2%) và 41 đảng viên (tăng 24,2%). Thi
hành kỷ luật 17.610 đảng viên (tăng 1,65%), trong đó có 7.096 cấp ủy viên (tăng
10,1%); riêng Ủy ban Kiểm tra Trung ương thi hành kỷ luật 169 đảng viên (tăng
525%). Nội dung vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên chủ yếu là vi phạm nguyên
tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo; chỉ
đạo, thiếu kiểm tra, giám sát để xảy ra các vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai,
khoáng sản; thực hiện dự án đầu tư và vi phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống; những
điều đảng viên không được làm, thực hiện trách nhiệm nêu gương… Đáng chú ý là có
những vi phạm vẫn cịn xảy ra ở những lĩnh vực được cả xã hội quan tâm như thực
hiện chính sách nhân đạo; an sinh xã hội, y tế, giáo dục.
Các quy định, quy chế, hướng dẫn về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được sửa
đổi, bổ sung, ban hành bảo đảm đồng bộ, thống nhất và chặt chẽ hơn, xác định rõ nội
dung, đối tượng kiểm tra, giám sát làm cơ sở để xem xét, đánh giá, kết luận, xác định
trách nhiệm của tập thể, cá nhân vi phạm và nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Điển hình như Quy định số 29-QĐ/TW ngày
25 - 7 - 2016 của Ban Chấp hành Trung ương về thi hành Điều lệ Đảng; Quy định số
30-QĐ/TW, ngày 26 - 7 - 2016 của Ban Chấp hành Trung ương về thi hành chương
VII và chương VIII của Điều lệ Đảng. Quy định số 102-QĐ/TW, ngày 15 - 11 - 2017
của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; Quy định số 07-QĐi/TW, ngày 28
- 8 - 2018 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật tổ chức đảng vi phạm; Hướng dẫn số 01HD/UBKTTW ngày 21 - 11 - 2016 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về thực hiện một
số điều trong quy định số 30-QĐ/TW thi hành chương VII và chương VIII Điều lệ
Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng; Hướng dẫn số
9
04-HD/UBKTTW ngày 22 - 3 - 2018 của Ủy ban kiểm tra Trung ương về thực hiện
một số điều trong Quy định số 102-QĐ/TW, ngày 15 - 11 - 2017 của Bộ Chính trị về
xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm...
Điểm nổi bật trong nhiệm kỳ 2015 - 2020 là Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Ủy
ban kiểm tra các cấp đã chủ động, quyết tâm, quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra khi có dấu hiệu vi phạm, “tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn dễ phát sinh tiêu
cực, những nơi có vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong xã hội và kịp thời kiểm tra khi có
dấu hiệu vi phạm. Nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài, dư luận quan tâm đã
được xem xét, kết luận và xử lý nghiêm minh”. Chẳng hạn như trong công tác cán bộ;
việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý nhà nước về môi trường (vụ Formosa Hà Tĩnh);
quản lý sử dụng đất đai; quản lý vốn, tài sản cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (Tập
đồn dầu khí quốc gia Việt Nam, Tổng Công ty thép Việt Nam, Tổng Công ty Đầu tư
phát triển đường cao tốc Việt Nam, Ngân hàng BIDV…). Một điểm mới trong thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát trong nhiệm kỳ vừa qua là Ủy ban Kiểm tra Trung
ương đã sửa đổi, bổ sung quy trình giám sát chuyên đề, trong đó quy định tiến hành
thẩm tra, xác minh trong trường hợp cần thiết. Do đó, chất lượng, hiệu quả công tác
giám sát của Ủy ban kiểm tra các cấp được nâng lên rõ rệt, có tác dụng lớn trong nhắc
nhở, cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời đối với tổ chức đảng và đảng viên.
2. Công tác kiểm tra ngành y tế của Đảng
2.1.
Công tác kiểm tra và sai phạm trong ngành y tế
Trong tình hình dịch bệnh vẫn đang kéo dài và diễn biến phức tạp như hiện tại
thì cơng tác kiểm tra càng trở nên gắt gao hơn bao giờ hết. Ngay trong ngày 2/12/2021
đồn cơng tác của Bộ Y tế do PGS.TS Nguyễn Trường Sơn, Thứ trưởng Bộ Y tế làm
trưởng đoàn đã kiểm tra cơng tác phịng, chống dịch COVID-19 ở tỉnh An Giang và
làm việc với Ban chỉ đạo phòng, chống dịch COVID-19 (BCĐ) của tỉnh. Tham gia
đoàn kiểm tra của Bộ Y tế có lãnh đạo Cục Quản lý Khám chữa bệnh, Cục Quản lý
Môi trường Y tế, Cục Khoa học và Đào tạo, Vụ Truyền thông và Thi đua, khen thưởng,
10
Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Viện Pasteur TP Hồ Chí Minh. An Giang áp dụng
mơ hình điều trị tháp 3 tầng với mạng lưới 34 cơ sở có tổng số giường 4.570. Tầng 3
bao gồm 4 bệnh viện tuyến tỉnh đang điều trị cho 317 bệnh nhân nặng và nguy kịch.
Trong những ngày gần đây số ca tử vong có chiều hướng tăng (ngày 01/12/2021 có 17
ca tử vong). Tỉnh đã triển khai các trạm y tế lưu động để chăm sóc điều trị F0 tại nhà,
phát triển phần mềm riêng để quản lý 3.600 trường hợp và thực hiện điều trị bằng
thuốc kháng virus Molnupiravir cho kết quả khả quan, khơng có trường hợp nào được
sử dụng Molnupiravir mà bị tử vong. Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Trường Sơn khẳng
định, An Giang đã thực hiện tốt Nghị quyết 128 của Chính phủ và đem lại sắc thái mới
cho cơng tác phịng, chống dịch, tạo tiền đề quan trọng để thực hiện phát triển kinh tếxã hội trong giai đoạn mới, đặc biệt An Giang đã thực hiện tốt việc bao phủ vaccine.
Trước đó, Đồn đã kiểm tra công tác quản lý điều trị F0 tại nhà và hoạt động của trạm
y tế lưu động ở phường Mỹ Bình, TP. Long Xuyên.
Tuy nhiên vẫn để xảy ra sai phạm thất thoát khi kiểm tra. Ngày 4-11-2021, tại
Hà Nội, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã họp kỳ thứ 8 dưới sự chủ trì của ơng Trần
Cẩm Tú - ủy viên Bộ Chính trị, bí thư Trung ương Đảng, chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra
Trung ương. Xem xét kết quả kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban cán sự
Đảng Bộ Y tế nhiệm kỳ 2016 - 2021, Ủy ban Kiểm tra Trung ương nhận thấy Ban cán
sự Đảng Bộ Y tế đã vi phạm các nguyên tắc hoạt động của Đảng, quy chế làm việc của
Ban cán sự Đảng; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, để Bộ Y tế, Cục
Quản lý dược, nhiều đơn vị, cơ sở khám chữa bệnh và cá nhân vi phạm quy định của
Đảng, pháp luật của Nhà nước trong công tác xây dựng, ban hành thể chế, chính sách;
trong việc cấp phép nhập khẩu thuốc, thực hiện liên doanh liên kết, đấu thầu, mua sắm
thuốc, trang thiết bị y tế và vật tư tiêu hao; để nhiều cán bộ, đảng viên bị kỷ luật, một
số bị xử lý hình sự. Những vi phạm nêu trên đã gây hậu quả nghiêm trọng, thất thốt,
lãng phí tiền, tài sản của Nhà nước, thiệt hại cho Quỹ bảo hiểm y tế, ảnh hưởng lớn đến
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ và chăm sóc sức
khỏe nhân dân, gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức Đảng
và ngành y tế.
11
Xét nội dung, tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm của Ban cán sự Đảng Bộ Y tế,
một số cá nhân và cấp ủy, tổ chức Đảng liên quan; căn cứ quy định của Đảng về xử lý
kỷ luật tổ chức Đảng và đảng viên vi phạm, Ủy ban Kiểm tra Trung ương quyết định
thi hành kỷ luật:
Cảnh cáo Ban thường vụ Đảng ủy Bộ Y tế nhiệm kỳ 2015 - 2020, Đảng ủy Cục
Quản lý dược nhiệm kỳ 2010 - 2015, Ban thường vụ Đảng ủy Bệnh viện Bạch Mai
nhiệm kỳ 2015 - 2020. Khiển trách Đảng ủy Cục Quản lý dược nhiệm kỳ 2015 - 2020.
Khai trừ ra khỏi Đảng các lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Bệnh viện Bạch Mai gồm:
Nguyễn Quang Tuấn - bí thư Đảng ủy, giám đốc, nguyên giám đốc Bệnh viện Tim Hà
Nội; Nguyễn Quốc Anh - nguyên bí thư Đảng ủy, nguyên giám đốc; Nguyễn Ngọc
Hiền - ngun phó bí thư Đảng ủy, nguyên phó giám đốc bệnh viện. Cách chức tất cả
các chức vụ trong Đảng đối với các ông Nguyễn Minh Tuấn - bí thư chi bộ, vụ trưởng
Vụ trang thiết bị và cơng trình y tế; Nguyễn Chiến Thắng - nguyên bí thư chi bộ,
nguyên giám đốc Ban quản lý dự án cơng trình y tế trọng điểm kiêm giám đốc Ban
quản lý dự án chuyên ngành xây dựng cơng trình y tế, Bộ Y tế. Khiển trách các ông:
Nguyễn Trường Sơn - ủy viên Ban cán sự Đảng, thứ trưởng Bộ Y tế; Nguyễn Thế
Thịnh - bí thư chi bộ, cục trưởng Cục Quản lý y, dược cổ truyền; Vũ Tuấn Cường đảng ủy viên Bộ Y tế, bí thư Đảng ủy, cục trưởng Cục Quản lý dược; Nguyễn Trí Dũng
- bí thư chi bộ, giám đốc Trung tâm mua sắm tập trung thuốc quốc gia.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, thi hành
kỷ luật Ban cán sự Đảng Bộ Y tế nhiệm kỳ 2016 - 2021 và các ông, bà: Nguyễn Thị
Kim Tiến - trưởng Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ trung ương, nguyên ủy viên
Trung ương Đảng, nguyên bí thư Ban cán sự Đảng, nguyên bí thư Đảng ủy, nguyên bộ
trưởng Bộ Y tế; Trương Quốc Cường - ủy viên Ban cán sự Đảng, thứ trưởng Bộ Y tế.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương sẽ tiếp tục xem xét, xử lý kỷ luật một số tổ chức Đảng và
đảng viên có liên quan đến vi phạm, khuyết điểm đã nêu; đồng thời, yêu cầu Ban cán
sự Đảng, Ban thường vụ Đảng ủy Bộ Y tế chỉ đạo khắc phục các vi phạm, khuyết
12
điểm, kiểm điểm trách nhiệm và xử lý kỷ luật đối với các tổ chức Đảng, đảng viên
khác có liên quan.
2.2.
Cơng tác kiểm tra Cục Phịng, chống HIV/AIDS
Bên cạnh những đồn kiểm tra về tình hình covid-19 thì các đồn kiểm tra của
đảng uỷ y tế cũng tích cực rà soát và kiểm tra các đảng bộ, chi bộ khác trong ngành.
Như thực hiện Quyết định số 67-QĐ/ĐU ngày 28/4/2021 của Ban Thường vụ Đảng ủy
Bộ về việc thành lập Đoàn Kiểm tra đối với các đảng bộ, chi bộ, ngày 07/7/2021, Đảng
ủy Cục Phịng, chống HIV/AIDS đã có buổi tiếp và làm việc với Đoàn kiểm tra của
Đảng ủy Bộ Y tế. Đồn kiểm tra do đồng chí Nguyễn Minh Lợi – Phó Bí thư Thường
trực Đảng ủy Bộ, Chánh Văn phịng Ban Cán sự Đảng làm Trưởng đồn, đồng chí
Nguyễn Mạnh Cường, Ủy viên Ban thường vụ, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng ủy
Bộ, Chánh Thanh tra Bộ làm Phó Trưởng Đồn cùng các đồng chí trong Đồn kiểm
tra.
Tại buổi kiểm tra, đồng chí Nguyễn Minh Lợi nêu lên mục đích, yêu cầu của
việc kiểm tra nhằm đánh giá thực trạng công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các đảng bộ, chi
bộ trong việc quán triệt, triển khai và tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của cấp
trên và thực hiện quy chế làm việc của cấp ủy trong các đảng bộ, chi bộ; Tổ chức kiểm
tra góp phần nâng cao nhận thức, ý thức của cấp ủy các đảng bộ, chi bộ và đảng viên
trong việc chấp hành các quy định của Điều lệ Đảng, các chỉ thị, nghị quyết của cấp
trên, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và chất lượng đảng
viên, tăng cường đoàn kết, dân chủ, kỷ luật, kỷ cương trong đảng, xây dựng các đảng
bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh; Đồng thời, đưa ra các kiến nghị, đề xuất, giải quyết
những khó khăn, vướng mắc trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các đảng bộ, chi bộ.
Báo cáo Đoàn Kiểm tra, thay mặt Đảng ủy Cục, đồng chí Nguyễn Chí Lung cho
biết: Đảng bộ Cục Phòng, chống HIV/AIDS gồm 04 chi bộ trực thuộc: Chi bộ Văn
phòng, Chi bộ Giám sát, Chi bộ Dự phòng và Chi bộ Điều trị với 44 đảng viên, trong
13
đó 09 đảng viên có học vị tiến sĩ trở lên (03 người có học hàm Phó Giáo sư), 25 đảng
viên có trình độ thạc sĩ, 8 đảng viên có trình độ đại học, 01 đảng viên có trình độ trung
cấp. Trong Đảng bộ, có 01 đảng viên là ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ Bộ Y tế. Năm
2020, Đại hội Đảng bộ Cục Phịng, chống HIV/AIDS khóa IV đã được tổ chức thành
công tốt đẹp và bầu được 07 đồng chí vào Ban chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 20202025. Các Chi bộ trực thuộc cũng đã tổ chức thành công các đại hội Chi bộ. Đảng ủy
đã ban hành đầy đủ các văn bản về tổ chức và triển khai thực hiện công tác Đảng theo
hướng dẫn của Đảng bộ cấp trên. Các Chi ủy thuộc Đảng bộ Cục cũng thông qua và
ban hành các văn bản theo nhiệm vụ của từng Chi bộ. Đảng bộ Cục ln chú trọng việc
bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ đảng viên. Đảng bộ cũng
luôn quan tâm nâng cao, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ Đảng viên
trong toàn Đảng. Liên tục bồi dưỡng, bổ sung lực lượng đảng viên mới. Năm 20202021, đã giới thiệu và kết nạp cho 05 đảng viên mới, chuẩn bị kết nạp thêm 02 Đảng
viên mới, phân công đảng viên xem xét, thẩm tra lý lịch kết nạp Đảng cho 01 quần
chúng ưu tú. Các đồng chí đảng viên ln ln giữ gìn phẩm chất chính trị của mình,
quan hệ chan hịa với quần chúng, tích cực học tập nâng cao trình độ chun mơn,
nghiệp vụ, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Qua cơng tác kiểm tra, đồng chí Nguyễn Minh Lợi, Trưởng đồn kiểm tra kết
luận: Tập thể Đảng ủy Đảng bộ Cục Phòng, chống HIV/AIDS dù rất bận rộn với công
việc chuyên môn nhưng rất quan tâm đến cơng tác Đảng. Đồng chí đánh giá cao kết
quả đạt được của Cục Phòng, chống HIV/AIDS, một tập thể rất đồn kết, ln phấn
đấu hồn thành tốt nhiệm vụ chính trị theo chức năng nhiệm vụ của Cục. Đảng ủy Cục
đã chấp hành và thực hiện tốt khoản 2 Điều 24 Điều lệ Đảng; thực hiện tốt việc lãnh
đạo, chỉ đạo đảng viên thực hiện những mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ, giải pháp nhằm
thực hiện tốt phương châm “Đoàn kết, đổi mới – Trách nhiệm, kỷ cương – Thực chất,
hiệu quả”; lãnh đạo đảng viên thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm của đơn vị; thực hiện
nghiêm các nghị quyết của Đảng, của Quốc hội về công tác tổ chức Đại hội Đảng các
cấp, tăng cường kỷ cương, kỷ luật, xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
14
quả; tích cực tham mưu Lãnh đạo Bộ Y tế ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm
pháp luật và các hướng dẫn chuyên môn. Trong thời gian qua, Đảng bộ Cục Phòng,
chống HIV/AIDS đã thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Khối các cơ quan Trung
ương lần thứ XIII, gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ
Chính trị, về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh. Tập thể Đảng ủy Cục Phòng, chống HIV/AIDS đã chú trọng quan tâm đến cơng
tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên; quan tâm đến công tác kiểm tra,
giám sát, phát triển đảng viên. Đối với từng thành viên trong Đảng ủy, luôn gương
mẫu, nêu cao ý thức tự giác rèn luyện đạo đức, lối sống; tham gia học tập, quán triệt
đầy đủ các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm khơng
ngừng nâng cao nhận thức chính trị, chun mơn nghiệp vụ và năng lực hoạt động thực
tiễn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ngoài những kết quả đạt được, Đảng ủy Đảng bộ cần chú ý nâng cao chất lượng
sinh hoạt Đảng, đổi mới nội dung, cách thức sinh hoạt cho phong phú, thiết thực hơn.
Ban hành bổ sung thêm quy chế phối hợp giữa Đảng ủy Cục và các Lãnh đạo Cục
Phòng, chống HIV/AIDs. Chỉnh sửa một số điểm trong các báo cáo cho phù hợp, đảm
bảo thống nhất, tập trung, dân chủ.
2.3.
Công tác kiểm tra Chi cục Dân số - Kế hoạch hố gia đình
Ngồi ra, ngày 11/05/2021, Uỷ ban kiểm tra Đảng ủy Sở Y tế đã có buổi làm
việc với Chi bộ Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình về việc thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát đối với Cấp ủy, Chi bộ Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình.
Tham dự gồm có 03 đồng chí thuộc Tổ kiểm tra theo Quyết định số 14-QĐ/UBKT
ngày 29/4/2021 của Ủy ban kiểm tra Đảng ủy Sở Y tế, đó là: đồng chí Lê Chánh
Thành, Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra Đảng ủy - Tổ trưởng;
Đồng chí Nguyễn Văn Hải, Ủy viên Uỷ ban kiểm tra - Thành viên; Đồng chí Phan
Minh Tồn, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra Đảng ủy - Thư ký.
15
Chi bộ Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình gồm có 11 đảng viên, trong đó:
Đảng viên chính thức: 11 đồng chí; Đảng viên dự bị: Khơng. Về cơ cấu tổ chức có 01
Bí thư chi bộ, 01 Phó Bí thư Chi bộ, 01 Ủy viên Chi ủy. Qua kiểm tra, giám sát nhận
thấy Cấp ủy, Chi bộ Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình đã lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện tốt một số nội dung sau: công tác phổ biến, quán triệt các văn bản quy định của
Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng; xây dựng và ban hành kế
hoạch kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên, thi hành kỷ luật đảng tại đơn vị; thực
hiện chế độ kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên theo Quy định của Đảng; Quán
triệt, thực hiện các quy định, nghị quyết về công tác kiểm tra giám sát tại chi bộ; kiểm
tra, giám sát các chuyên đề; thực hiện kết luận, thông báo kết quả sau kiểm tra, giám
sát của cấp ủy, đảng viên tại chi bộ; thực hiện nguyên tắc, quy trình kỷ luật tổ chức
đảng, đảng viên; tiếp nhận xử lý và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong đảng; thực hiện
giải pháp về nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng
theo các quy định, hướng dẫn của Đảng.
Bên cạnh những nội dung đã đạt được thì Cấp ủy, Chi bộ Chi cục Dân số - Kế
hoạch hóa gia đình cịn một số khuyết điểm, hạn chế, đó là triển khai nhiệm vụ kiểm
tra, giám sát cịn chậm so với chương trình, kế hoạch. Chưa có biên bản họp cấp ủy;
nội dung sinh hoạt chi bộ còn thiếu 1 số nội dung theo quy định; Kết quả công tác kiểm
tra, giám sát chưa được thể hiện trong sinh hoạt chi bộ định kỳ.
2.4.
Kiểm tra chuyên đề về cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí,
thực hành tiết kiệm trong ngành y tế
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của cơng tác phịng chồng tham
nhũng chống lãng phí đối với các cấp ủy cơ sở, Ban Thường vụ Đảng ủy Sở Y tế đã
xác lập thực hiện nội dung kiểm tra chuyên đề về công tác phịng, chống tham nhũng,
lãng phí, thực hành tiết kiệm tại một số cơ sở Đảng. Đợt kiểm tra nhằm đánh giá ưu
điểm, hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chương trình,
kế hoạch về thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Từ đó, phát huy
các mặt làm được, kịp thời chấn chỉnh, khắc phục các hạn chế còn tồn tại góp phần
16
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Trong đợt kiểm tra
này, Ban Thường vụ Đảng ủy đã ban hành các quyết định số 12-QĐ/ĐU, 13-QĐ/ĐU,
14-QĐ/ĐU, 15-QĐ/ĐU về thành lập Đoàn kiểm tra đối với các cấp ủy chi - đảng bộ và
vai trị đồng chí Bí thư tại Chi bộ Trung tâm Kiểm chuẩn xét nghiệm, Chi bộ Viện tim,
Đảng bộ bệnh viện Bệnh nhiệt đới và Đảng bộ bệnh viện Nhi đồng Thành phố. Đồn
kiểm tra do đồng chí Nguyễn Phước Lập - Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Ủy
Ban Kiểm tra Đảng ủy làm Trưởng đồn, đồng chí Phạm Kiều Hưng - Ủy viên Ban
Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo làm Phó trưởng đồn.
Qua q trình làm việc với các đơn vị, nhìn chung, với mơ hình tự chủ về kinh
phí hoạt động, thời gian qua các cấp ủy bệnh viện và trung tâm đã có nhiều nỗ lực lãnh
đạo, chỉ đạo và tổ chức việc thực hành tiết kiệm, phịng chống tham nhũng, lãng phí tại
đơn vị; có nhiều mơ hình, giải pháp để tiết kiệm kinh phí, nâng cao thu nhập cho cán
bộ, nhân viên. Cùng với nhiệm vụ chun mơn, các khó khăn và áp lực do dịch bệnh
Covid-19 tạo ra là rất lớn nhưng cấp ủy, Ban Giám đốc của bệnh viện, trung tâm và cá
nhân đồng chí Bí thư cấp ủy đã quan tâm chỉ đạo xây dựng nhiều chương trình, kế
hoạch để hồn thành tốt nhiệm vụ chính trị của chi - đảng bộ. Bên cạnh những mặt làm
được, Đoàn kiểm tra cũng đã chỉ ra những hạn chế, tồn tại cần khắc phục, trong đó có
một số thiếu sót về xây dựng các quy chế, quy trình thực hiện tại đơn vị, những vấn đề
chưa chuẩn xác trong cách hiểu và thực hiện kê khai tài sản cá nhân. Đoàn kiểm tra
cũng kịp thời hướng dẫn, định hướng trong thời gian tới để chi - đảng bộ khắc phục,
thực hiện đảm bảo theo các quy định.
Đồng chí Nguyễn Phước Lập - Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Ủy Ban
Kiểm tra Đảng ủy cũng đặc biệt lưu ý vai trò đứng đầu của đồng chí bí thư cũng như
tập thể cấp ủy trong việc nghiêm túc tổ chức quán triệt Luật “Phòng, chống tham
nhũng” năm 2018 và Nghị định 59/2019/NĐ-CP của Chính phủ về quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật phòng, chống tham nhũng. Các đơn vị cũng cần
có nhiều giải pháp thiết thực hơn trong thực hành tiết kiệm, nhất là tập trung vào xây
dựng các quy chế phối hợp, cơ chế giám sát giữa các phịng, ban và thực hiện quy trình
17
nội kiểm một cách thường xuyên, có hiệu quả; chú trọng hơn nữa trong công tác kê
khai tài sản của cán bộ, đảng viên, phân công nhiệm vụ và quy định trách nhiệm cho
cán bộ thực hiện việc kiểm tra thông tin, lưu trữ và khai thác bản kê khai phục vụ cho
công tác đảm bảo theo quy định.
Kết quả của đợt kiểm tra sau khi được tập thể Ban Thường vụ Đảng ủy Sở thông
qua sẽ là là cơ sở để các cấp ủy được kiểm tra cũng như toàn thể các đơn vị trong Đảng
bộ rút kinh nghiệm, đồng thời nỗ lực đề ra các giải pháp thực hiện tốt hơn trong cơng
tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm tại đơn vị, góp phần vào
việc hồn thành nhiệm vụ chính trị, xây dựng Đảng bộ Sở Y tế ngày càng trong sạch,
vững mạnh.
3. Công tác kiểm tra ngành y tế của Đảng tại Lạng Sơn
Ngày 23/8/2021, đồng chí Đồn Thị Loan, Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm
Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, thành viên Ban Chỉ đạo phòng chống dịch covid-19 của Tỉnh
đã kiểm tra cơng tác phịng chống dịch tại chốt kiểm dịch y tế phòng chống dịch covid19 tại xã Xuân Dương, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Trước tình hình dịch covid-19
đang diễn biến rất phức tạp trên các địa bàn lân cận giáp ranh với huyện Lộc Bình, tỉnh
Lạng Sơn. Ủy ban nhân dân huyện Lộc Bình đã quyết định thành lập tổ chốt kiểm soát
dịch bệnh covid-19 tại đường liên thôn, thôn Suối Mành, xã Xuân Dương, huyện Lộc
Bình giáp ranh với xã Sa Lý, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang; nhằm kiểm tra, kiểm
soát đối với tất cả người và phương tiện giao thông đường bộ ra, vào xã; kịp thời phát
hiện, ngăn chặn nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn huyện. Tại các
điểm đến, đồng chí Đồn Thị Loan đã nghe báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ được
giao, đồng chí đã thăm hỏi, động viên và ghi nhận, đánh giá cao kết quả thực hiện
nhiệm vụ của tổ công tác, biểu dương tinh thần nỗ lực khơng ngại khó khăn của cán bộ,
chiến sỹ, lực lượng y tế làm nhiệm vụ tại chốt kiểm dịch; đồng chí đề nghị cấp ủy,
chính quyền xã cần tiếp tục phối hợp với lực lượng làm nhiệm vụ tại chốt đảm bảo
kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ 24/24 giờ (kể cả thứ bảy, chủ nhật) với tất cả người và
phương tiện giao thông ra vào xã; người đến, về từ vùng đang có dịch phải cung cấp
18
đầy đủ thông tin cần thiết để phục vụ cho công tác cách ly, sàng lọc và thực hiện các
biện pháp phịng, chống dịch đúng quy định.
Ngày 06/12/2021, đồng chí Đoàn Thị Loan, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy,
Chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy đã đến kiểm tra công tác phịng, chống dịch bệnh Covid-19
tại Chốt phịng chống dịch thơn Bản Khoai, xã Yên Khoái và Trung tâm Y tế huyện
Lộc Bình. Tính đến ngày 05/12/2021, tồn huyện Lộc Bình có 17 trường hợp mắc
Covid-19, trong đó có 15 trường hợp phát hiện tại xã Yên Khoái, các bệnh nhân hiện
nay đang điều trị tại Trung tâm Y tế huyện. Ngay khi phát hiện có trường hợp mắc
Covid-19, UBND huyện đã lãnh đạo, chỉ đạo xã Yên Khoái khẩn trương khoanh vùng,
cách ly các đối tượng thuộc F1, F2 theo quy định; đồng thời chỉ đạo các xã, thị trấn
truy vết đối với những trường hợp F1 có liên quan đến các ca F0 tại xã Yên Khoái, qua
truy vết có 286 trường hợp F1 ở 8 xã, thị trấn trên địa bàn huyện. Tại buổi làm việc,
đồng chí Đồn Thị Loan đã ghi nhận và đánh giá cao kết quả cơng tác phịng, chống
dịch Covid-19 của các lực lượng tại chốt kiểm dịch thôn Bản Khoai và Trung tâm Y tế
huyện đã đạt được, đồng thời ân cần hỏi thăm, sức khỏe, điều kiện làm việc, sinh hoạt
của cán bộ, lực lượng chiến sỹ đang thực hiện nhiệm vụ tại Chốt phòng chống dịch và
cán bộ, nhân viên Trung tâm Y tế huyện. Đồng chí đã động viên tinh thần và mong
muốn cán bộ, chiến sỹ và nhân viên y tế các lực lượng tuyến đầu phòng chống dịch tiếp
tục nêu cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục những khó khăn, thực hiện tốt cơng tác
phịng chống dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn.
Chương III: Những giải pháp về công tác kiểm tra của Đảng
Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng có vị trí, vai trị và tầm quan
trọng đặc biệt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Do vậy, Đảng ta xác định
kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo quan trọng của Đảng; thực hiện với
tinh thần “trị bệnh cứu người”, trách nhiệm, tính đảng cao, làm rõ bản chất sự việc để
kết luận. Bám sát nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng, công tác kiểm
tra, giám sát từng bước được nâng cao về chất lượng; góp phần bảo đảm đường lối lãnh
19