Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Hoạt động thanh tra về phòng chống tham nhũng ở hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.6 KB, 23 trang )

1


Mục lục
Mở đầu

2

1.1

Lý do chọn đề tài

2

1.2

Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu

3

1.3

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

3

1.4

Kết cấu tiểu luận.

3



Nội dung

4

Chương 1: Cơ sở lý luận về thanh tra
1.1

4

Khái niệm thanh tra

4

1.2 Cơ quan thanh tra

4

1.3

Mục đích thanh tra

5

1.4

Nguyên tắc thanh tra

6


Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh tra về phòng chống tham nhũng ở Hà Nội
6
2.1 Thẩm quyền, nội dung thanh tra trách nhiệm về phòng chống tham nhũng. 6
2.2 Hoạt động thanh tra về phòng chống tham nhũng ở Hà Nội

8

2.2.1 Kết quả.

8

2.2.2 Hạn chế

12

Chương 3 Giải pháp nâng cao hoạt động thanh tra về phòng chống tham nhũng.
13
Kết luận

20

Danh mục tài liệu tham khảo

21

2


Mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài

Trong hoạt động quản lý nhà nước xã hội, bảo đảm trật tự kỷ cương đất
nước hoạt động thanh là phương thức quan trọng.Thanh tra bảo đảm trật tự, kỷ
cương trong quản lý, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với chức
năng giám sát hoạt động của các đối tượng bị quản lý, bao gồm giám sát việc
chấp hành chính sách, pháp luật, chức trách, nhiệm vụ của cơ quan hành chính
nhà nước và cơng chức nhà nước; việc chấp hành chính sách, pháp luật của các
tổ chức, cá nhân và các đối tượng khác chịu sự quản lý của Nhà nước; thanh tra
kịp thời phát hiện những sai phạm và có biện pháp xử lý. Với chức năng, nhiệm
vụ xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các quyết định hoặc hành vi
hành chính của cán bộ, cơng chức nhà nước trong việc thực hiện chính sách,
pháp luật, cũng như trách nhiệm và quyền hạn được giao; kết luận và xử lý kịp
thời những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà
nước góp phần bảo đảm trật tự kỷ cương trong quản lý, làm trong sạch bộ máy
nhà nước.
Trong điều kiện nước ta thực hiện quá trình đổi mới mà trọng tâm là đổi mới
về kinh tế thì vai trị của công tác thanh tra ngày càng cần thiết và quan trọng để
quản lý nền kinh tế thị trường hoạt động ngày càng có hiệu quả và giải quyết
các vấn đề xã hội trong đó vấn đề tham nhũng ln là vấn đề gây ra các hậu quả
về kinh tế cũng như ảnh hưởng đến hoạt động quản lý xã hội.
Hoạt động thanh tra về phòng chống tham nhũng tại Hà Nội (trung tâm kinh
tế- chính trị của cả nước) ln là hoạt động được xây dựng kế hoạch và thường
xuyên được diễn ra từ Trung ương ở thành phố đến các địa phương cơ sở các
phương án, kế hoạch thanh tra tại Hà Nội luôn được xây dựng và triển khai
chặt chẽ và đã đạt được những kết quả nhất định; bên cạnh đó sau mỗi hoạt
động thanh tra lại phát hiện các hạn chế trong cơng tác này. Vì vậy em chọn đề
tài “Hoạt động thanh tra về phòng chống tham nhũng ở Hà Nội” làm đề tài
nghiên cứu để đưa ra các kết quả và hạn chế từ đó đề xuất một số giải pháp

3



nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra góp phần nâng cao chất lượng
quản lý xã hội của nhà nước.
1.2 Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
Mục đích: nghiên cứu, khảo sát, phân tích, đánh giá, một cách khách quan
trên cơ sở những luận cứ khoa học và những kinh nghiệm thực tiễn nhằm nhận
thức về hoạt động thanh tra về phòng chống tham nhũng ở Hà Nội.
Nhiệm vụ: Từ mục tiêu đặt ra phân tích thực trạng, thống kê các số liệu,.. đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động thanh tra về phịng chống tham
nhũng nói riêng và hoạt động quản lý nhà nước trật tự an tồn và cơng bằng xã
hội, xây dựng dân giàu nước manh.
1.3 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: quá trình của hoạt động thanh của cơ quan nhà nước
về phòng chống tham nhũng ở Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này tôi đã vận dụng và tiến
hành đồng thời các phương pháp: Phương pháp phân tích và tổng hợp,phương
pháp lý luận gắn với thực tiễn, phương pháp lịch sử và logic, phương pháp liệt
kê, nêu ví dụ…
1.4 Kết cấu tiểu luận.
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận về thanh tra
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh tra về phòng chống tham nhũng ở Hà
Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao hoạt động thanh tra về phòng chống tham nhũng
ở Hà Nội.
Kết luận
Tài liệu tham khảo

4



Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận về thanh tra
1.1 Khái niệm thanh tra
Thanh tra là công cụ quan trọng của quản lý, thanh tra và quản lý đều có một
mục đích là hiệu quả của quản lí nhà nước muốn quản lý tốt không thể không thực
hiện chức năng thanh tra. Theo khoản 1 Điều 3 Luật thanh tra 2010 thì “Thanh tra
là hoạt động xem xét, đánh giá cũng như thực hiện các biện pháp kỷ luật của tổ
chức, cá nhân thuộc tổ chức và quy trình thanh tra sẽ được thực hiện theo trình tự
pháp luật nhất định. Các hoạt động thanh tra thường nhằm mục đích phục vụ hoạt
động quản lý, bảo vệ các lợi ích nhà nước cũng như các tổ chức, cá nhân khác nhau
Hiện nay, hoạt động thanh tra được xây dựng nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Cũng như phục vụ quản lý nhà nước trong các lĩnh
vực sở hữu công nghiệp khác nhau.
Về loại hình thanh tra nhà nước bao gồm: thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành.
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.Về tổ chức thanh tra hành chính là hoạt
động được đảm nhiệm trước hết bởi các cơ quan thanh tra được tổ chức theo cấp
hành chính.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành
pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn-kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc
ngành, lĩnh vực.
1.2 Cơ quan thanh tra
Cơ quan thanh tra nhà nước, bao gồm: Thanh tra Chính phủ; Thanh tra bộ, cơ
quan ngang bộ (Thanh tra bộ);Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau
đây gọi chung là Thanh tra tỉnh); Thanh tra sở; Thanh tra huyện, quận, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Thanh tra huyện).
5


Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.
Do đó nội dung hoạt động thanh tra nhất là hoạt động thanh tra chuyên ngành
có những thay đổi nhất định như: thẩm quyền ra quyết định thanh tra, phân công
nhiệm vụ thanh tra, nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành thanh tra
chuyên ngành.. Điều đáng lưu ý là ở những ngành, không thành lập cơ quan thanh
tra chuyên trách mà hoạt động thanh tra do người được giao thực hiện nhiệm vụ
thanh tra chuyên ngành thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định khác
của pháp luật có liên quan.
Đối với hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước, các quy định của Luật
Thanh tra đã xác định rõ những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thanh tra; tiếp
tục làm rõ hơn quy định về hình thức tiến hành thanh tra là thanh tra hành chính và
thanh tra chuyên ngành; xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý
nhà nước, người ra quyết thanh tra; quy định cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ của
đối tượng thanh tra và nội dung khác liên quan đến hoạt động thanh tra như: hồ sơ
thanh tra, trách nhiệm của cơ quan điều tra. Đặc biệt là việc bổ sung quy định về
xử lý hành vi không thực hiện yêu cầu, kết luận, quyết định về thanh tra, xử lý
hành vi vi phạm pháp luật của người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh
tra, thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra, công tác viên
thanh tra, thành viên khác của Đồn Thanh tra.
1.3 Mục đích thanh tra
Theo quy định Điều 2 Luật Thanh tra năm 2010 hoạt động thanh tra nhằm phát
hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử ý các hành
vi vi phạm giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật;
phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước;
bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Để đạt được những mục đích trên, hoạt động thanh tra cần thực hiện được các
mục tiêu sau:
Phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách,pháp luật để kiến nghị
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục.
6


Phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật.
Phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật.
Phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
1.4 Nguyên tắc thanh tra
Để đảm bảo cho cuộc thanh tra đạt được mục đích, yêu cầu đề ra, Điều 7 Luật
thanh tra năm 2010 đã quy định nguyên tắc của hoạt động thanh tra:
Thứ nhất, Tuân theo pháp luật trong hoạt động thanh tra.
Thứ hai, Nguyên tắc đảm bảo chính xác, khách quan, dân chủ, công khai, kịp
thời trong hoạt động thanh tra.
Thứ ba, Nguyên tắc không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung,thời gian
thanh tra.
Thứ tư, Nguyên tắc khơng cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh
tra.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh tra về phòng chống tham nhũng ở
Hà Nội
2.1 Thẩm quyền, nội dung thanh tra trách nhiệm về phịng chống tham
nhũng.
Thơng tư 07/2021/TT-TTCP ngày 01/10/2021 quy định về thẩm quyền, nội
dung thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về thanh tra, tiếp công dân, khiếu
nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.
Thanh tra việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng tập trung vào
các nội dung:

Thứ nhất, việc xây dựng chương trình, kế hoạch cơng tác phịng, chống tham
nhũng theo quy định.
Thứ hai, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về phòng, chống tham nhũng.

7


Thứ ba, việc thực hiện các biện pháp về công khai, minh bạch về tổ chức và
hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; xây dựng, thực hiện định mức, tiêu chuẩn,
chế độ; thực hiện quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn; chuyển đổi vị
trí cơng tác của người có chức vụ, quyền hạn; thực hiện cải cách hành chính, ứng
dụng khoa học, cơng nghệ trong quản lý, thanh tốn khơng dùng tiền mặt.
Thứ tư, việc xử lý và giải quyết phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham
nhũng.
Thứ năm, việc thực hiện các kết luận thanh tra, kiểm tra, báo cáo kiểm toán, các
quyết định xử lý và việc chấp hành chỉ đạo của cấp trên về cơng tác phịng, chống
tham nhũng.
Việc thực hiện các quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập, gồm các nội dung:
Một là, việc tổ chức kê khai tài sản, thu nhập; công khai bản kê khai tài sản, thu
nhập.
Hai là, việc quản lý, cập nhật bản kê khai tài sản, thu nhập và các thông tin về
kiểm soát tài sản, thu nhập;theo dõi biến động về tài sản, thu nhập của người có
nghĩa vụ kê khai.
Ba là, việc xác minh tài sản, thu nhập và công khai Kết luận xác minh tài sản,
thu nhập.
Bốn là, việc bảo vệ, lưu trữ, khai thác, cung cấp thông tin về kiểm soát tài sản,
thu nhập.
Năm là, việc xử lý người có hành vi vi phạm nghĩa vụ trung thực trong kê khai
tài sản, thu nhập, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm; vi phạm quy
định về thời hạn kê khai tài sản, thu nhập và vi phạm các quy định khác về kiểm

soát tài sản, thu nhập.
Sáu là, việc xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu về kiểm soát tài sản, thu nhập.
Việc xử lý tham nhũng, gồm các nội dung:
Việc xử lý người có hành vi tham nhũng; việc thu hồi tài sản tham nhũng; việc
xử lý hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
8


Việc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo về cơng tác phịng, chống tham nhũng.
2.2 Hoạt động thanh tra về phòng chống tham nhũng ở Hà Nội
2.2.1 Kết quả.
Trong những năm gần đây cơng tác thanh tra về phịng chống tham nhũng ở Hà
Nội được chú trọng đặc biệt và đã đạt được kết quả sau:
Báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN) năm 2019, Tổng Thanh
tra Chính phủ Lê Minh Khái cho biết, năm 2019, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
đã có nhiều chỉ đạo cụ thể, quyết liệt, đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ
máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; đơn giản hoá điều kiện kinh doanh; siết
chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính; xây dựng Chính phủ điện tử, chính quyền thơng
minh; tăng cường sử dụng văn bản điện tử, chữ ký số trong hoạt động của cơ quan
nhà nước; tổ chức giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, cơ chế một
cửa liên thông...
Về kết quả thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, việc kê khai tài
sản, thu nhập tiếp tục được thực hiện nghiêm túc, đạt tỷ lệ 99,9% số người phải kê
khai. Việc thực hiện quy định về tặng quà, nộp lại quà tặng, có sáu cá nhân đã nộp
lại quà tặng theo quy định với tổng giá trị là 182 triệu đồng; phát hiện, xử lý ba vụ
việc nhận quà không đúng quy định với tổng giá trị là 3,99 tỷ đồng.
Năm 2019, có 30 người đứng đầu đã bị xử lý kỷ luật do thiếu trách nhiệm để
xảy ra tham nhũng, có ba người đứng đầu bị xử lý hình sự do thiếu trách nhiệm để
xảy ra tham nhũng
Về cơng tác thanh tra, kiểm tốn, giải quyết khiếu nại, tố cáo góp phần phịng

ngừa, phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng, trong năm qua, toàn ngành thanh tra
đã triển khai 7.585 cuộc thanh tra hành chính và 252.499 cuộc thanh tra, kiểm tra
chuyên ngành. Thanh tra Chính phủ đã tiến hành đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện
4.123 kết luận và quyết định xử lý về thanh tra, xử lý, thu hồi 8.163 tỷ đồng (đạt
51%), 340 ha đất (đạt 38%); xử lý hành chính 1.445 tổ chức, 3.800 cá nhân; đôn
đốc việc khởi tố 146 vụ, 28 đối tượng.
Cơ quan hành chính nhà nước các cấp đã tiếp 478.237 lượt công dân đến khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh (tăng 4,3% so với năm 2018), với 304.209 vụ việc
9


(tăng 9,1%), có 4.611 lượt đồn đơng người (giảm 0,6%). Đã giải quyết 28.428 vụ
việc, đạt tỷ lệ 86,2%. Kiểm tốn Nhà nước đã kiến nghị xử lý tài chính 122.029 tỷ
đồng (tăng thu 28.084 tỷ đồng, giảm chi 28.373 tỷ đồng, xử lý khác 64.572 tỷ
đồng). Đồng thời, chuyển hồ sơ bảy có thẩm quyền để phục vụ điều tra, kiểm tra,
giám sát và thực hiện tố tụng.
Về kết quả phát hiện và xử lý tham nhũng, năm 2019, qua công tác tự kiểm tra
nội bộ phát hiện 26 vụ, 30 đối tượng; qua hoạt động thanh tra đã phát hiện 69 vụ,
45 đối tượng tham nhũng và liên quan đến tham nhũng. Qua công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Chính phủ phát hiện 17 vụ, 37 đối tượng có hành vi
liên quan đến tham nhũng. Qua hoạt động kiểm toán phát hiện, chuyển cơ quan
điều tra bảy vụ việc có dấu hiệu tội phạm liên quan đến người có chức vụ, quyền
hạn.a
Cơ quan điều tra trong Công an Nhân dân đã thụ lý điều tra 423 vụ án, 1.073 bị
can phạm tội về tham nhũng; trong đó khởi tố mới 220 vụ, 515 bị can, giảm 0,9%
số vụ, tăng 20,6% số bị can so với cùng kỳ năm trước. Viện Kiểm sát các cấp đã
truy tố 300 vụ/672 bị can. Cơ quan điều tra viện kiểm sát nhân dân tối cao khởi tố
mới 12 vụ/16 bị can về tội danh tham nhũng xảy ra trong hoạt động tư pháp. Tòa
án nhân dân các cấp đã xét xử sơ thẩm 279 vụ, 614 bị cáo. Có 10 bị cáo bị tuyên
phạt mức án tử hình, tù chung thân.

Theo Phó Chánh Thanh tra thành phố Hà Nội Nguyễn Thúy Hằng, năm 2020,
các cơ quan hành chính của thành phố đã thực hiện 343 cuộc thanh tra, đã kết luận
212 cuộc; qua thanh tra đã phát hiện vi phạm 28,014 tỷ đồng; kiến nghị kiểm điểm
trách nhiệm đối với 25 tập thể và 92 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra 5 cuộc.
Riêng cơ quan Thanh tra thành phố Hà Nội đã triển khai thực hiện 49 cuộc
thanh tra (theo kế hoạch 13 cuộc, đột xuất 36 cuộc). Đáng chú ý, qua thanh tra, lực
lượng chức năng phát hiện vi phạm và kiến nghị thu hồi 771 triệu đồng, chuyển cơ
quan điều tra 1 cuộc.
Năm 2020, các cơ quan hành chính của thành phố đã tiếp thường xuyên 31.493
lượt công dân đến khiếu nại tố cáo, kiến nghị, phản ánh, trong đó có 118 lượt đồn

10


đông người (48 vụ việc). Lãnh đạo các cơ quan hành chính đã tiếp định kỳ, đột
xuất 14.597 lượt cơng dân.
Các cơ quan hành chính của thành phố đã tiếp nhận và xử lý 41.318 đơn các
loại, gồm 9.553 đơn khiếu nại, 6.718 đơn tố cáo và 25.047 đơn kiến nghị, phản
ánh. Nội dung đơn chủ yếu liên quan đến lĩnh vực quản lý sử dụng đất đai, giải
phóng mặt bằng, quản lý trật tự xây dựng, quản lý và sử dụng nhà chung cư…
Về thực hiện Quy chế phối hợp liên ngành giữa các cơ quan của thành phố Hà
Nội, các cơ quan, đơn vị đã kịp thời trao đổi thông tin về việc xử lý vi phạm, tội
phạm giữa các sở, ngành, đặc biệt là trao đổi về việc xử lý các hành vi có dấu hiệu
tham nhũng, các vụ việc kinh tế nghiêm trọng, phức tạp trên địa bàn. Qua công tác
thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, lực lượng chức năng đã phát hiện, kiến
nghị chuyển cơ quan điều tra 5 vụ.
Năm 2021, Thanh tra thành phố Hà Nội phấn đấu hoàn thành 100% các cuộc
thanh tra theo kế hoạch, các cuộc thanh tra diện rộng, thanh tra đột xuất được giao;
thực hiện việc xử lý sau thanh tra đạt từ 85% trở lên.
Thanh tra thành phố cũng phấn đấu giải quyết trên 90% đối với các quyết định

giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật, các quyết định xử lý tố cáo; cơ bản giải
quyết dứt điểm các vụ khiếu nại tố cáo tồn đọng, phức tạp theo Nghị quyết của Hội
đồng Nhân dân thành phố Hà Nội và các Kế hoạch của Thanh tra Chính phủ...
Đặc biệt, trong cơng tác phịng, chống tham nhũng, Thanh tra thành phố đã thực
hiện công khai, minh bạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên
các lĩnh vực gắn với việc thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương và
thành phố; tập trung thanh tra, kiểm tra trách nhiệm việc chấp hành pháp luật về
phòng, chống tham nhũng.
Đề cập đến các nhiệm vụ và giải pháp để triển khai thực hiện hiệu quả các mục
tiêu trên, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội Chu Ngọc Anh đề nghị
Thanh tra thành phố tiếp tục nâng cao chất lượng cơng tác thanh tra.
“Mục đích của hoạt động thanh tra không chỉ dừng lại ở việc phát hiện, xử lý
hành vi vi phạm pháp luật mà cần quan tâm đến việc phát hiện sơ hở trong cơ chế
quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
11


biện pháp khắc phục, phòng ngừa; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng
quy định của pháp luật; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý
nhà nước; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân," Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội Chu Ngọc Anh nhấn
mạnh.
Cũng theo chỉ đạo của lãnh đạo thành phố Hà Nội, khi triển khai thanh tra phải
quan tâm rà soát tránh trùng lặp; đảm bảo hoạt động thanh tra đúng quy trình,
khơng kéo dài; kết luận thanh tra, các kiến nghị, các quyết định xử lý sau thanh tra
phải kịp thời, khách quan, đúng pháp luật nhưng cũng cần phù hợp với thực tiễn và
giúp ổn định tình hình.
Đồng thời, tập trung nâng cao chất lượng công tác tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo; phát huy vai trò tham mưu của cơ quan thanh tra trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý các vụ việc phức tạp, đông người, tiềm ẩn nguy cơ

phát sinh thành “điểm nóng” gây mất an ninh trật tự trên địa bàn Thủ đô.
Lực lượng thanh tra rà soát các vụ khiếu nại, tố cáo tồn đọng, kéo dài để tập
trung giải quyết dứt điểm theo Chỉ thị 15 của Thành ủy, Nghị quyết 15 của Ban
Thường vụ Thành ủy Hà Nội.
Đối với công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại và tố cáo, Chủ tịch Ủy ban
Nhân dân thành phố Hà Nội đã yêu cầu phải coi trọng cả 2 yếu tố: phòng ngừa
khiếu nại, tố cáo phát sinh và khi đã phát sinh rồi thì phải giải quyết chính xác, kịp
thời, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho cơng dân
Để phịng ngừa khiếu nại, tố cáo, Thanh tra thành phố Hà Nội cần quan tâm hơn
nữa đến việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, không chỉ là pháp luật về khiếu nại,
tố cáo mà còn cả các lĩnh vực thường xuyên phát sinh khiếu nại, tố cáo đơng
người, phức tạp như giải phóng mặt bằng, quản lý đất đai…
Tiếp tục xác định công tác phịng, chống tham nhũng là nhiệm vụ chính trị
trọng tâm, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã yêu cầu Thanh tra
thành phố thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó giải pháp phịng ngừa là
chính, đồng thời, chủ động phát hiện, xử lý kịp thời vi phạm.

12


Thanh tra thành phố tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung và hồn thiện các chế độ
chính sách, tiêu chuẩn, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất; tăng cường thanh tra,
kiểm tra, giám sát, tuyên truyền phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Để thực hiện hiệu quả cơng tác phịng, chống tham nhũng năm 2021, Hà Nội đã
ban hành Kế hoạch 245/KH-UBND đề ra 8 nhiệm vụ và giải pháp yêu cầu các cấp
ủy, chính quyền các cấp, các ngành tập trung thực hiện.
Các giải pháp nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm, nhận thức của người đứng
đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị và đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức; phát huy vai
trị, trách nhiệm của xã hội trong cơng tác phịng chống tham nhũng; triển khai
đồng bộ, có hiệu quả các biện pháp phòng chống tham nhũng gắn với tăng cường

hoạt động quản lý nhà nước về phòng chống tham nhũng; phát hiện, ngăn chặn và
kịp thời xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng
theo quy định pháp luật; từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, góp phần giữ
vững ổn định chính trị-xã hội, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, thúc đẩy phát
triển kinh tế-xã hội trên địa bàn Thủ đơ.
Nhìn lại cả quá trình xây dựng và phát triển, ngành Thanh tra đã có những
chuyển biến quan trọng cả về tổ chức và hoạt động; đã xây dựng và từng bước
hoàn thiện thể chế về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
phòng, chống tham nhũng.
Hoạt động thanh tra cũng đã kịp thời chấn chỉnh các sai lệch trong quá trình tổ
chức thực hiện các quyết định quản lý, các cơ chế, chính sách, pháp luật; phát hiện,
xử lý và kiến nghị xử lý kịp thời nhiều cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp
luật; kết luận và kiến nghị xử lý nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, giải oan
và minh oan cho nhiều người, góp phần quan trọng vào việc tăng cường kỷ cương,
kỷ luật trong quản lý Nhà nước, ổn định tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, thúc
đẩy quá trình đổi mới, phát triển của đất nước.
2.2.2 Hạn chế
Tuy nhiên, thời gian qua, hoạt động thanh tra có nhiều khó khăn, thách thức,
vẫn cịn tình trạng trồng chéo, trùng lắp, vừa bỏ trống những nơi, những chỗ cần
được tiến hành thanh tra dẫn đến sai phạm không được phát hiện, xử lý kịp thời; tổ
13


chức và lực lượng thanh tra khá đông, dàn trải nhưng không mạnh; chất lượng,
hiệu quả, hiệu lực thanh tra không cao; thời gian tiến hành và ban hành kết luận
thanh tra thường kéo dài so với quy định; nhiều báo cáo, kết luận, quyết định thanh
tra chưa bảo đảm tính chính xác, khách quan, nhiều kiến nghị khơng mang tính khả
thi. Để góp phần khắc phục những khó khăn, thách thức đó cần phải sớm tìm kiếm
các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra.
Các quy định về phân cơng, kiểm sốt việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn giữa

các chủ thể trong hoạt động thanh tra cịn chưa chặt chẽ. Quy định về cơng khai,
minh bạch trong hoạt động thanh tra còn hạn chế. Quy định về quy tắc ứng xử và
kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động thanh tra chưa đầy đủ, chi tiết, nhiều
quy định cịn chung chung, chưa có quy định về hành vi vi phạm quy tắc ứng xử,
hành vi vi phạm kiểm sốt xung đột lợi ích…
Một số quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra, quyền hạn của cơ quan
thanh tra, mặt khác còn có cả những ngun nhân mang tính chủ quan, xuất phát từ
năng lực phát hiện sai phạm còn hạn chế, sự suy thối đạo đức trong hoạt động
cơng vụ của một bộ phận cán bộ thanh tra.
Thực tiễn cho thấy, một trong những hành vi tiêu cực điển hình trong hoạt động
thanh tra và kể cả các hoạt động kiểm tra, kiểm tốn, điều tra chính là việc “ăn
chia” số tiền bị chiếm đoạt bởi kẻ tham nhũng và những người mang danh chống
tham nhũng, Khi phát hiện ra sai phạm của đối tượng, thay vì phải kiên quyết đưa
ra ánh sáng để xử lý nghiêm minh thì những kẻ thối hóa, biến chất lại tìm cách
mặc cả, buộc đối tượng phải đưa những khoản tiền lớn để được điều chỉnh mức độ
sai phạm, thậm chí là được ém nhẹm và trở thành vô can.
Chương 3 Giải pháp nâng cao hoạt động thanh tra về phòng chống tham
nhũng.
Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý nói chung, của quản lý Nhà nước nói
riêng. Vì thế tính mục đích trong hoạt động thanh tra về phòng chống tham nhũng
trước hết và quan trọng nhất đó là phịng ngừa, phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị xử
lý kịp thời, nghiêm minh các sai phạm, khiếm khuyết với chi phí tổng qt ít nhất
có thể tránh thất thốt và trong sạch bộ máy nhà nước . Vì vậy cần có các giải pháp

14


để nâng cao phát huy hiệu lực, hiệu quả về cơng tác thanh tra về tham nhũng nói
riêng và ngành thanh tra nói chung như sau:
Thứ nhất, hồn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về thanh tra.

Khơng thể phủ nhận thực tế, trải qua hơn 70 năm hình thành và phát triển, ngành
Thanh tra và hệ thống pháp luật về thanh tra đã có bước phát triển phù hợp với yêu
cầu của quản lý Nhà nước trong mỗi giai đoạn bảo vệ, xây dựng và phát triển đất
nước. Tuy nhiên, để phù hợp với Hiến pháp 2013, đáp ứng yêu cầu tiếp tục đẩy
mạnh cải cách hành chính, đổi mới, cải cách tổ chức, bộ máy Nhà nước phù hợp
với yêu cầu của sự phát triển đất nước trong điều kiện mới thì cơ chế, chính sách,
pháp luật thanh tra về phòng chống tham nhũng rất cần được sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra và cụ thể là
nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra.
Như đã luận giải, pháp luật về thanh tra về phòng chống tham nhũng hiện hành quy
định tổ chức và hoạt động thanh tra mang tính một chiều, nghiêng nặng là thiết chế
trong quản lý Nhà nước; tổ chức và hoạt động thanh tra phụ thuộc gần như toàn bộ
vào người đứng đầu cơ quan quản lý hành chính Nhà nước cùng cấp; nhấn mạnh
vai trò phục vụ hoạt động chỉ đạo, điều hành trong quản lý hành chính Nhà nước,
bảo vệ quyền khiếu nại, tố cáo của người dân; chưa chú trọng đến vai trị kiểm sốt
quyền lực Nhà nước và bảo vệ quyền con người theo tinh thần Hiến pháp 2013.
Chính vì vậy mà tính chủ động, linh hoạt, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức
thanh tra chưa được phát huy mạnh mẽ; tính độc lập, chủ động trong việc xây dựng
kế hoạch thanh tra hàng năm, trong việc lựa chọn đối tượng, nội dung, phạm vi
thanh tra bị hạn chế; tính liên kết nghiệp vụ trong chỉ đạo, điều hành hoạt động
thanh tra theo ngành, theo lĩnh vực quản lý Nhà nước không cao; mối liên kết hệ
thống để tăng cường sức mạnh, phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh tra không
được phát huy; các nguồn lực (con người, phương tiện, kinh phí v.v.) bảo đảm cho
hoạt động thanh tra hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan quản lý Nhà nước cùng cấp;
việc xử lý các sai phạm qua thanh tra phát hiện gần như phụ thuộc hoàn toàn vào
người đứng đầu cơ quan quản lý hành chính Nhà nước cùng cấp; cơ chế, chính
sách, pháp luật xác định địa vị chính trị và vị trí pháp lý của người đứng đầu cơ
quan thanh tra Nhà nước chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan và của người đứng đầu cơ quan thanh tra Nhà nước các cấp; nhiều quy
15



định trong pháp luật thanh tra cịn mang tính xung đột lợi ích làm giảm hiệu lực,
hiệu quả thanh tra nhưng chưa được sửa đổi, khắc phục.
Thực trạng này có nguyên nhân từ sự nhận thức về vị trí, vai trò của tổ chức và
hoạt động thanh tra. Đa số những người đứng đầu cơ quan Nhà nước thực hiện
quyền hành pháp ln nhấn mạnh vai trị của thanh tra như một cơng cụ, phương
tiện của quản lý hành chính Nhà nước. Chưa thấy hết vai trò của thanh tra còn là
một trong những thiết chế quan trọng đánh giá việc thực thi, kiểm soát việc thực
hiện quyền lực Nhà nước và bảo vệ quyền con người. Đồng thời thông qua thực
hiện chức năng này, thanh tra còn hướng tới đánh giá cả những cơ chế, chính sách,
pháp luật, quyết định quản lý hiện hành có cần sửa đổi, bổ sung, hồn thiện hay
khơng để kiến nghị cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền xem xét, xử lý
nhằm không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước.
Trên đây là những nội dung cơ bản, thiết yếu cần sớm được nghiên cứu, đề xuất
việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về thanh tra nhằm tăng cường hiệu lực,
hiệu quả hoạt động thanh tra.
Thứ hai, đổi mới sự chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra về phòng chống tham
nhũng.
Xã hội càng phát triển, nền kinh tế càng hội nhập thì các quan hệ xã hội càng đa
dạng, phức tạp. Cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, sự biến
đổi của môi trường tự nhiên, môi trường sinh tồn, con người muốn tồn tại phải biết
thích nghi trong mơi trường ấy.
Quản lý nói chung và quản lý Nhà nước nói riêng cũng cần có sự đổi mới trong
bối cảnh khách thể quản lý đã, đang và sẽ thay đổi do chính mơi trường tự nhiên và
xã hội địi hỏi. Xu hướng chung của đổi mới quản lý là hướng tới quản lý, quản trị
rủi ro, nghĩa là khu vực nào, lĩnh vực quản lý nào, địa bàn nào có vấn đề, tiềm ẩn
rủi ro cao thì chủ thể quản lý phải hướng đến với sự quan tâm cao hơn. Hoạt động
thanh tra thường hướng đến chỗ có vấn đề.
Vì vậy, việc đổi mới sự chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra về phòng chống

tham nhũng cần bắt đầu từ khâu định hướng hoạt động thanh tra. Nếu như trước
đây định hướng hoạt động thanh tra chủ yếu nhằm mục tiêu phục vụ quản lý thì
nay theo tinh thần Hiến pháp 2013, hoạt động thanh tra không chỉ phục vụ chủ thể
16


quản lý mà phải hướng tới kiểm soát việc thực thi quyền lực Nhà nước - quyền
hành pháp và bảo vệ công bằng quyền con người.
Muốn vươn tới mục tiêu này thì việc rà sốt những chỗ có vấn đề, rồi lựa chọn đối
tượng thanh tra, nội dung và phạm vi thanh tra là điều trọng yếu thứ hai sau định
hướng hoạt động thanh tra. Kiểm soát việc thực thi quyền lực Nhà nước và bảo vệ
quyền con người sẽ ln đụng chạm đến người có chức, có quyền, có cả thế và lực
trong xã hội. Thanh tra thường hướng đến những chỗ có vấn đề nên phải lường
trước mọi sự cám dỗ, thách thức để vượt qua và xử lý hiệu quả sự phản kháng, đối
phó cơng khai hoặc không công khai của đối tượng thanh tra, của cơ quan, tổ chức,
đơn vị, cá nhân có liên quan. Vì thế người đứng đầu cơ quan thanh tra, người ra
quyết định thanh tra phải đủ bản lĩnh, kinh nghiệm và năng lực để vượt qua những
thách thức này.
Nội dung tiếp theo phải chú ý là việc xử lý tình huống trong hoạt động thanh tra.
Tình huống trong hoạt động thanh tra về phòng chống tham nhũng phải xử lý
thường là những tình tiết, hành vi, sự kiện khơng dự liệu trước được và/hoặc vượt
quá thẩm quyền của người tiến hành thanh tra, thậm chí của người ra quyết định
thanh tra, người đứng đầu cơ quan thanh tra. Tình huống trong hoạt động thanh tra
ở đây bao gồm cả tình huống trong quá trình tiến hành thanh tra, tình huống trong
chỉ đạo kết thúc thanh tra và xử lý sau thanh tra.
Xử lý tình huống trong thanh tra về phịng chống tham nhũng khơng chỉ đề cao
tính trách nhiệm là đủ mà cịn địi hỏi cả sự dũng cảm vì lợi ích quốc gia, dân tộc,
kỹ năng chuyên môn, kỹ năng chỉ đạo, điều hành của người có thẩm quyền. Thực
tế chỉ ra rằng để vượt qua những thách thức trong xử lý tình huống, trong chỉ đạo,
điều hành hoạt động thanh tra, người đứng đầu cơ quan thanh tra đã phải trả giá

bằng cả sinh mệnh chính trị của mình, của gia đình mình.
Nội dung tiếp theo về đổi mới sự chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra, đó là đổi
mới công tác giám sát, kiểm tra hoạt động thanh tra và công tác phản biện, thẩm
định kết quả thanh tra. Cần tăng cường vai trò giám sát, kiểm tra của đơn vị chủ trì
cuộc thanh tra, của người ra quyết định thanh tra, của đối tượng thanh tra, của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến nội dung thanh tra đối với người tiến hành
thanh tra. Cùng với đó là sự giám sát chéo nhau giữa các thành viên trong Đồn
thanh tra thơng qua hoạt động thẩm định, phản biện nội dung thanh tra của chính
17


các thành viên Đoàn thanh tra. Tổ chức, đơn vị có chức năng giám sát, thẩm định
tập trung vào khâu phản biện, thẩm định kết quả thanh tra và xử lý sau thanh tra.
Cần phải nhận thức việc thẩm định, phản biện kết quả thanh tra và theo dõi, đôn
đốc, xử lý sau thanh tra cũng là những phương thức khác nhau của công tác giám
sát hoạt động thanh tra.
Thứ ba, bồi dưỡng, tăng cường năng lực cho những người tiến hành thanh tra
Đặc điểm, tính chất của hoạt động thanh tra đòi hỏi người tiến hành thanh tra về
phòng chống tham nhũng vừa phải có phẩm chất, đạo đức trong sáng, vừa phải có
năng lực hồn thành nhiệm vụ. Điều này đòi hỏi người tiến hành thanh tra, đặc biệt
là trưởng đồn thanh tra phải am hiểu chính sách, pháp luật, hiểu biết về quản lý
hành chính Nhà nước, thành thạo kỹ năng xem xét, đánh giá và có kiến thức về
chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ liên quan tới nội dung thanh tra nhất là hiện nay
vấn đề tiêu cực của hoạt động kiểm tra, kiểm toán, điều tra chính là việc “ăn chia”
số tiền bị chiếm đoạt bởi kẻ tham nhũng và những người mang danh chống tham
nhũng.
Trưởng đồn thanh tra cịn phải nhuần nhuyễn kỹ năng lãnh đạo, quản lý, có năng
lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ, kinh nghiệm xử lý tình huống và đủ bản lĩnh vượt
qua những thách thức (sức ép từ nhiều phía tác động vào hoạt động của Đồn
thanh tra) trong hoạt động thanh tra. Đối tượng thanh tra ở đây là cơ quan, tổ chức,

đơn vị, cá nhân đang có vấn đề. Thường là những chỗ có vấn đề mới cần thanh tra,
việc chuyển hướng từ quản lý, thanh tra theo phương thức truyền thống sang quản
lý hay thanh tra rủi ro thì sức ép là có thật. Vì vậy, khả năng phải ứng biến với sự
đối phó, phản kháng từ đối tượng thanh tra và những người có liên quan luôn là
nguy cơ hiện hữu.
Người tiến hành thanh tra khơng phải ai cũng ln có sẵn những kiến thức, hiểu
biết nêu trên, khơng phải cái gì cũng biết, cái gì cũng tinh thơng. Có người giỏi về
kỹ năng, nghiệp vụ thanh tra nhưng chưa tinh thông về chuyên môn, kỹ thuật,
nghiệp vụ liên quan đến nội dung thanh tra và ngược lại.
Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng thanh tra nói riêng và hiệu lực, hiệu quả hoạt
động thanh tra nói chung, thì việc bồi dưỡng, tăng cường năng lực tổng thể bằng
nhiều hình thức, phương thức đa dạng, phong phú cho những người tiến hành
thanh tra là yêu cầu ln phải đặt ra. Từ đào tạo chính quy đến bồi dưỡng, tập huấn
18


theo kế hoạch của cơ quan, tổ chức, đơn vị đến việc tự nghiên cứu, học tập, cập
nhật, bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ, trau dồi kỹ năng, nghiệp vụ của mỗi cá
nhân; học thông qua trường lớp, học thông qua công việc.
Thực tiễn hoạt động thanh tra cho thấy: Mỗi cuộc thanh tra là một bài tập lớn, hồn
thành bài tập này có ý nghĩa thiết thực hơn nhiều so với các chứng chỉ bồi dưỡng
được cấp. Kỹ năng thanh tra là tổng thể các yếu tố giúp cho việc hồn thành nhiệm
vụ thanh tra. Vì vậy, kỹ năng thanh tra đa phần được tích lũy thơng qua trải nghiệm
thực tế tiến hành thanh tra. Chính mơi trường thanh tra gợi mở cho người tiến hành
thanh tra biết mình cần những kiến thức gì và cập nhật, bổ sung những kiến thức
ấy như thế nào, bằng cách nào cho hiệu quả nhất.
Thứ tư, thái độ hợp tác của đối tượng thanh tra, của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân có liên quan
Nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động thanh tra về phòng chống tham
nhũng , ngồi việc quy định mục đích, ngun tắc, những điều không được làm

trong hoạt động thanh tra, pháp luật nói chung và pháp luật thanh tra nói riêng có
những quy định khá cụ thể, logic, đồng bộ về quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hoạt động thanh tra.
Thường là quyền của chủ thể tiến hành thanh tra sẽ là nghĩa vụ của đối tượng thanh
tra, của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan và ngược lại, quyền của đối
tượng thanh tra, của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan sẽ là nghĩa vụ
của chủ thể tiến hành thanh tra. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố khơng mang tính tích
cực chi phối, trong đó có yếu tố nhận thức và ý thức pháp luật mà không phải lúc
nào mối quan hệ giữa người tiến hành thanh tra với đối tượng thanh tra, với cơ
quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan cũng xi chèo, mát lái, thậm chí trong
khơng ít trường hợp, các bên cịn cố ý gây khó dễ cho nhau trong q trình thanh
tra. Chủ thể tiến hành thanh tra thì nhũng nhiễu, vịi vĩnh, hạch sách, dọa dẫm. Đối
tượng thanh tra chậm trễ trong việc cung cấp thơng tin, hồ sơ, tài liệu, bố trí người
làm việc khơng đúng thẩm quyền, báo cáo, giải trình vịng vo, gây khó khăn, cản
trở hoạt động thanh tra, kiểm tra, xác minh... Những tình huống như vậy cũng làm
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra. Vì vậy, có
được thái độ hợp tác, xây dựng giữa người tiến hành thanh tra với đối tượng thanh

19


tra, với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan là một trong những yếu tố
quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thanh tra.
Để có được thái độ hợp tác tích cực, xây dựng giữa các bên trong hoạt động thanh
tra, trước hết, đòi hỏi người tiến hành thanh tra phải có quan điểm, thái độ đúng
mực, kiên nhẫn lắng nghe, phương pháp làm việc khoa học, khơng vịi vĩnh, khơng
nhũng nhiễu, khơng vụ lợi, không tạo áp lực vô lý lên đối tượng thanh tra, cơ quan,
tổ chức, cá nhân có liên quan.
Việc tiến hành thanh tra phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc, trình tự, thủ tục
được pháp luật quy định; việc sử dụng các quyền hạn phải thỏa mãn các điều kiện

mà pháp luật ràng buộc và phải chú ý tính đến hậu quả khơng mong muốn phát
sinh từ việc sử dụng quyền hạn có tính cưỡng chế mạnh trong q trình thanh tra
của trưởng đồn thanh tra, của người ra quyết định thanh tra. Ngoài ra các phương
pháp tâm lý, tư tưởng, thuyết phục, dân chủ, lắng nghe, tôn trọng quyền giải trình
của đối tượng thanh tra trong quá trình tiến hành thanh tra cũng giúp cải thiện rất
nhiều thái độ ứng xử giữa các bên trong hoạt động thanh tra.
Thứ năm, các yếu tố khác bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả thanh tra
Hoạt động thanh tra là một loại hoạt động công vụ và thường được tiến hành ngồi
cơng sở của cơ quan chủ trì tiến hành thanh tra. Để bảo đảm tuân thủ nguyên tắc
chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời, ngoài việc thu
thập, nghiên cứu, đối chiếu, so sánh hồ sơ, tài liệu, thông tin, vật chứng, hoạt động
thanh tra còn phải tiến hành kiểm tra, xác minh tại chỗ việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra. Thanh tra là phải đến tận
nơi, phải mắt thấy, tai nghe để đưa ra những đánh giá, nhận xét bảo đảm tính chính
xác, khách quan. Nếu vẫn chưa đủ sự tin cậy thì người ra quyết định thanh tra cịn
có thể/cần phải thơng qua trưng cầu giám định để bảo đảm kết luận thanh tra đáp
ứng đầy đủ các yêu cầu được pháp luật quy định.
Ngoài các yếu tố được luận giải ở trên, chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra
còn bị chi phối bởi các yếu tố khác như kinh phí, phương tiện, thời gian, các trang
thiết bị, văn phòng phẩm, nhu yếu phẩm cần thiết khác phục vụ cho sinh hoạt và
làm việc của các thành viên đoàn thanh tra trong giai đoạn trực tiếp tiến hành thanh
tra, kiểm tra, xác minh vụ việc.

20



×