Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận LSNNPl Sự phát triển của tổ chức bộ máy nhà nước qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 :

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.14 KB, 14 trang )

CẤU TRÚC BÀI TIỂU LUẬN
I. Mở đầu.
II. Tìm hiểu khái quát về bộ máy nhà nước.
1. Khái niệm.
2. Các thành phần của bộ máy nhà nước.
3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
4. Vai trò của bộ máy nhà nước.
III. Sự phát triển của tổ chức bộ máy nhà nước qua các bản
Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 :
1. Tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1946
2. Tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1959
3. Tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1980
4. Tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1992
IV. Những điểm mới về tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến
pháp 2013.
V.Kết luận
I.MỞ ĐẦU
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh. Từ năm 1930, dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, đầy gian khổ hy
sinh, làm Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời.
Tiếp đó, suốt mấy chục năm, nhân dân các dân tộc nước ta đã liên tục chiến đấu
lập nên những chiến công oanh liệt, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân
và đế quốc, giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân
tộc, dân chủ nhân dân. Ngày 2 tháng 7 năm 1976 Quốc hội nước Việt Nam thống
nhất đã quyết định đổi tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cả nước
bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ra sức xây dựng đất nước, kiên
cường bảo vệ Tổ quốc đồng thời làm nghĩa vụ quốc tế.
Do đó, nghiên cứu tổ chức bộ máy nhà nước qua các bản hiến pháp để thấy sự vận


động của bộ máy nhà nước qua lịch sử sẽ có vai trò, ý nghĩa to lớn trong phục vụ
xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước và cải cách bộ máy hành chính nhà nước.
II. TÌM HIỂU KHÁI QUÁT VỀ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC.
1. Khái niệm:
Bộ máy nhà nước là một hệ thống bao gồm nhiều cơ quan (loại cơ quan) nhà nước
được thành lập và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định nhưng có tính chất,
vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau được quy định trong văn bản
pháp luật nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành một thể thống nhất vì
được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung nhất định.
2. Thành phần của bộ máy nhà nước.
a. Theo tính chất, vị trí, chất năng :
- Hệ thống các cơ quan đại diện (hay còn gọi là các cơ quan quyền lực nhà nước),
bao gồm : Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp
(tỉnh, huyện, xã và cấp tương đương). Do nhân dân trực tiếp bầu ra. Vì vậy,
Quốc hội và hội đồng nhân dân được nhân dân trực tiếp giao cho quyền lực nhà
nước để thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực đó. Mặt khác, trong hoạt động
của mình, các cơ qian nhà nước khác cùng cấp đều đặt dưới sự giám sát của
Quốc hội và hội đồng nhân dân.
- Hệ thống các cơ quan chấp hành (hay còn gọi là các cơ quan quản lí nhà nước),
bao gồm : Chính phủ, các bộ, các ủy ban nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã và
cấp tương đương) và các sở, phòng, ban thuộc ủy ban nhân dân. Hệ thống này
được hình thành bằng con đường bầu cử nhưng không phải do nhân dân trực
tiếp bầu ra mà do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp bầu ra và bãi miễn. Mặt
khác, quản lí hành chính nhà nước là hoạt động chủ yếu được coi là chức năng
của Chính Phủ, các bộ, ủy ban nhân dân cũng như các sở, phòng, ban thuộc ủy
ban nhân dân.
- Hệ thống các cơ quan xét xử, bao gồm : Tòa án nhân dân tối cao, tòa án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tòa án nhân dân huyện, quận và
tương đương, tòa án quân sự ( Tòa án quân sự trung ương, tòa án quân sự quân
khu và tương đương ; tòa án quân sự khu vực). Ngoài ra, Quốc hội còn quyết

định thành lập thêm các tòa án khác (như tòa kinh tế, tòa hành chính, tòa lao
động ). Hệ thống cơ quan xét xử vừa được hình thành bằng con đường bầu cử
( Chán án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu và bãi miễn ; hội thẩm nhân
dân ở tòa án nhân dân dịa phương do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu và bãi
miễn), vừa được hình thành bằng con đường bổ nhiệm ( Phó chánh án, thẩm
phán của Tòa án của nhân dân tối cao bổ nhiệm., miễn nhiệm, cách chức). Hệ
thống các cơ quan tòa án cũng nhận quyền lực nhà nước từ các cơ quan đại diện
của nhân dân và đặt dưới sự giám sát của các cơ quan đó. Xét xử là chức năng
duy nhất của các tòa án và chỉ có tòa án mới có quyền xét xử.
- Hệ thống cơ quan kiểm sát, gồm có : Viện kiểm sát nhân dân tối cao, viện kiểm
sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, viện kiểm sát nhân dân
huyện, quận và cấp tương đương cũng như viện kiểm sát quân sự các cấp (Viện
kiểm sát quân sự trung ương, viện kiểm sát quân sự khu và cấp tương đương,
viện kiểm sát quân sự khu vực). Hệ thống này được hình thành bằng con đường
bổ nhiệm. Riêng đối với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc
hội bầu và bãi miễn. Còn đối với các Phó viện trưởng và kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Các cơ quan kiểm sát có chức năng công tố và giám sát hoạt động tư pháp.
b.Theo cấu trúc hành chính lãnh thổ và phạm vi thẩm quyền :
- Các cơ quan nhà nước trung ương, bao gồm : Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ
quan khác thuộc Chính phủ ; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao. Đặc điểm của hệ thống này là hoạt động của chúng bao trùm lên toàn
bộ lãnh thổ. Văn bản pháp luật do các cơ quan này ban hành có hiệu lực trong
phạm vi cả nước, đối với tất cả các địa phương.
- Các cơ quan nhà nước ở địa phương, gồm có : Hội đồng nhân dân và ủy ban
nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã và cấp tương đương) cùng các sở, phòng ban
thuộc ủy ban nhân dân ; tòa án nhân dân và biện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, huyện, quận và tương đương. Đặc điểm của hệ

thống này là phạm vi thẩm quyền chỉ giới hạn trong phạm vi một địa phương,
một vùng lãnh thổ nhất định. Các cơ quan này đều có quyền ban hành văn bản
pháp luật nhưng văn bản đó chỉ có hiệu lực ở một địa phương nhất định và
không được trái với các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung
ương.
Ngoài các hệ thống theo cơ quan nhà nước, trong tổ chức bộ máy Nhà nước Việt
Nam còn có Chủ tịch nước. Chủ tịch nước hiện nay là cá nhân, do Quốc hội bầu ra
từ trong số các đại biểu Quốc hội và đặt dưới sự giám sát của Quốc hội. Chủ tịch
nước là nguyên thủ quốc gia, là người thay mặt Nhà nước về mặt đối nội và đối
ngoại.
3. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước:
- Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là những phương hướng mang tính chủ đạo trong quá trình tổ chức
và hoạt động của bộ máy Nhà nước, được xác định trong Hiến pháp.
- Gồm 5 nguyên tắc:
+ Nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
+Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhà nước.
+Tập trung dân chủ.
+ Bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ giữa các dân tộc.
+Pháp chế xã hội chủ nghĩa.
4. Vai trò của bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước, thực hiện nhiệm vụ quản lí, xét xử và ban hành những văn kiện,
nhằm quản lí hoạt động của nhà nước, cuộc sống của nhân dân. Đồng thời mở rộng
mối quan hệ ra nước ngoài, bảo vệ đất nước với các chính sách ngoại giao – an
ninh quốc phòng toàn dân.
III. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC QUA CÁC
BẢN HIẾN PHÁP 1946, 1959, 1980, 1992.
1. Tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1946.
a, Hoàn cảnh ra đời:
Sau thắng lời của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngay tại phiên họp đầu

tiên 03/9/1945 chính phủ lâm thời đã xác nhận 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước
và nhân dân ta trong viêc bảo tồn nền độc lập dân tộc và xây dựng chính quyền dân
chủ nhân dân. Tháng 3/1946, Quốc hội họp kì đầu tiên và bầu ra ban thường vụ
Quốc hội, Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ và các thành
viên của chính phủ. Tháng 11/1946, tại kì họp thứ hai, Quốc hội đã thảo luận và
thông qua bản hiến pháp đầu tiên của nhà nước ta-Hiến pháp năm 1946. b,Tổ chức
bộ máy nhà nước:
*Hệ thống cơ quan đại diện:
- Gồm: Nghị viện nhân dân, Hội đồng Nhân dân tỉnh, Hội đồng nhân dân xã. Cấp
bộ và huyện không có hội đồng nhân dân. Nghị viện nhân dân và Họi đồng nhân
dân do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Ban Thường vụ Nghị
viện nhân dân là cơ quan hoạt động thường xuyên của Nghị viện, có quyền quyết
định một số vấn đề quan trọng. Nhiệm kì của Nghị viện Nhân dân 3 năm. Thành
phần cảu Nghị viện gồm 1 Nghị trưởng, 2 Phó Nghị trưởng, 12 ủy viên chính
thức, 3 ủy viên dự khuyết để lập thành Ban Thường vụ.
*Hệ thống cơ quan hành chính:
- Hiến pháp năm 1946 quy định Cơ quan hành chính gồm có Chính phủ và Ủy ban
hành chính các cấp (bộ, tình, huyện, xã). Chính phủ do Nghị viện Nhân dân bầu ra
và chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Cơ cấu Chính phủ gồm: Chủ tịch nước, Phó
Chủ tịch nước và Nội các (Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và một số thành
viên khác). . Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước ta. Ủy
ban hành chính ở địa phương do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Ủy ban hành
chính bộ do hội đồng nhân dân các tỉnh trong bộ bầu ra. Còn đối với ủy ban hành
chính huyện do hội đồng nhân dân các xã trong huyện đó bầu ra. Ủy ban hành
chính phải chịu trách nhiệm trước hội đồng nhân dân cùng cấp và ủy ban hành
chính cấp trên. Ủy ban hành chính huyện chịu trách nhiệm trước ủy ban hành chính
tỉnh.
*Hệ thống cơ quan tư pháp:
Hệ thống các cơ quan tư pháp, bao gồm : Tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm, các
tòa đệ nhị cấp ( xét xử 2 cấp sơ thẩm và phúc thẩm) và tòa sơ cấp (chỉ xét xử sơ

thẩm) là các cơ quan xét xử của nước ta. Nguyên tắc thành lập theo "thẩm cấp tố
tụng". Thẩm phán của các tòa án ( kể cả thẩm phán buộc tội và thẩm phán xét xử)
đều do Chính phủ bổ nhiệm và hoạt động độc lập đối với các cơ quan nhà nước
khác.
*Nguyên thủ quốc gia:
Nguyên thủ quốc gia hình thức Chủ tịch nước. Chủ tịch nước vừa là người đứng
đầu Nhà nước, vừa là người đứng đầu Chính phủ. Chủ tịch nước do Nghị viện
Nhân dân bầu ra, và phải được 2/3 tổng số Nghị sĩ biểu quyết tán thành. Nhiệm kì
là 5 năm. Quyền hạn của Chủ tịch nước rất lớn: Giữ quyền tổng chỉ huy quân đội
toàn quốc; chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lực lượng vuc trang; kí
sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên nội các; kí hiệp ước với nước ngoài
Ngoài ra, Chủ tịch nước còn có thể yêu cầu Nghị viện thảo luận những Nghị quyết
mà Nghị viện biểu quyết. Đảm bảo tính kiềm chế, đối trọng với Nghị viện.
* Sơ đồ bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1946 :
2. Tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1959.
a. Hoàn cảnh ra đời
Đến thời điểm năm 1959 với chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc nước ta được
hoàn toàn giải phóng nhưng đất nước tạm thời còn chia cắt thành 2 miền. Hiến
pháp năm 1946 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó. Vì vậy, trong kkif họp thứ 6
Quốc hội Khóa I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1946 và thành lập Ban dự
thảo sửa đổi Hiến pháp. 1/1/1959 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí Sắc lệnh công bố
Hiến pháp.
b. Tổ chức bộ máy nhà nước:
*Hệ thống cơ quan đại diện:
Hiến pháp năm 1959, cơ quan đại diện là Quốc hội, Hội đồng nhân dân tỉnh, Hội
đồng nhân dân huyện, Hội đồng nhân dân xã. Điểm khác biệt so với Hiến pháp
năm 1946 là có thêm HĐND huyện. Nghị viện nhân dân đổi tên thành Quốc hội,
Ban thường vụ Quốc hội đổi tên thành Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nhiệm kì của
Quốc hội là 4 năm. Số lượng thành viên Quốc hội tăng lên nhằm giải quyết các vấn
đề một cách nhanh chóng, đạt hiệu quả cao hơn. Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ

quan hoạt động thường xuyên của Quốc hội. Nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội.
*Hệ thống cơ quan hành chính:
Đến Hiến pháp năm 1959, Chính phủ được đổi tên thành Hội đồng Bộ trưởng(đề
cao tính tập thể). Trong thành phần của Hội đồng Chính phủ chỉ có Thủ tướng, các
Phó thủ tướng, các bộ trưởng và tương đương. Như vây, trong thành phần của Hội
đồng Chính phủ không có Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước và các thứ trưởng như
trước đây. Vì vậy, Chủ tịch nước không đứng đầu và lãnh đạo Hội đồng Chính
phủ. Đứng đầu và lãnh đạo Hội đồng Chính phủ là Thủ tướng Chính phủ. Số lượng
các bộ, thành viên của Hội đồng Chính phủ cũng tăng lên đáng kể (18 bộ). Hoạt
động quản lí của Hội đồng Chính phủ bắt đầu theo xu hướng đi sâu vào chuyên
ngành. Các ủy ban hành chính vẫn thành ljâp ở cả ba cấp (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp
xã và tương đương). Số lượng các sở, phòng, ban cũng như thành viên của các Ủy
ban hành chính cũng tăng lên. Ủy ban hành chính cấp trên chỉ có quyền đình chỉ
đối với nghị quyết của hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp mà không có hủy bỏ
như trước đây.
*Hệ thống cơ quan xét xử:
Theo Hiến pháp năm 1959, hệ thống cơ quan xét xử có nhiều thay đổi. Theo đó,
Tòa án được thành lập theo nguyên tắc hành chính. Tòa án Nhân dân tối cao, Tòa
án nhân dân tỉnh, Toàn án nhân dan huyện và Tòa án quân sự các cấp. Các thẩm
phán do bầu chứ không phải do Chính phủ bổ nhiệm. Riêng Chánh án toàn án
Nhân dân tối cao do Quốc hội bầu ra, nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội và phải
báo cáo công tác trước Quốc hội. Thẩm phán toàn án các cấp do Hội đồng nhân
dân các cấp bầu ra. Tòa án phải báo casoc công tác cho Hội đồng nhân dân cũng
caaos và với Tóa án cấp trên. Phụ thẩm nhân dân đổi tên thành Hội thẩm nhân dân
và luôn tham gia vào các phiên tòa. Những thay đổi trên làm cho hoạt động xét xử
được minh bạch hơn, có hiệu quả tốt hơn.
*Hệ thống cơ quan kiểm sát
Hệ thống cơ quan kiểm sát là một hệ thống mới trong bộ máy nhà nước. Từ nhiệm
vụ công tố trước đây, các cơ quan này được giao thêm nhiều nhiệm vụ mới trong
hoạt động kiểm sát (kiểm sát việc tuân theo pháp luật, kiểm sát điều tra, kiểm sát

xét xử…). Do đó, công tác kiểm sát trở thành nhiệm vụ chủ yếu được coi là chức
năng quan trọng nhất. Vì vậy, tên gọi cũng phải thay đổi theo cho phù hợp. Viện
công tố được đỏi tên là viện kiểm sát nhân dân. Công tố ủy viên được đổi tên là
kiểm sát viên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu ra và
bãi miễn. Phó viện trưởng và kiểm sát viên của viện kiểm sát địa phương dọ Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Như vậy,
về mặt tổ chức và hoạt động không có lệ thuộc vào Chính phủ như trước đây.
*Nguyên thủ quốc gia:
Chế định Nguyên thủ quốc gia tạo thành một chương riêng, đây là điểm mới nổi
bật so với Hiến pháp năm 1946. Theo đó, Chủ tịch nước đã tách ra khỏi Chính phủ,
là người đứng đầu nhà nước chứ không đứng đầu chính phủ nữa.
Quyền hạn của chủ tịch nước về một số lĩnh vực chuyển sang cho Ủy ban Thường
vụ Quốc hội nhằm đề cao tính tập thể. Ngoài ra, Chủ tịch nước còn làm một số
công việc mang tính thủ tụmc như: Công bố luật, Pháp lệnh, Chủ tịch nước là do
Quốc hội bầu ra, nhiệm kì theo nhiệm kì Quốc hội. Chủ tịch nước còn bị hạn chế
bởi việc không quy định ứng cử viên. Chủ tịch nước là đại biểu Quốc hội, được
chọn trong các Nghị sĩ Nghị viện như Hiến pháp năm 1946.
*Sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1959:
3.Tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1980.
a. Hoàn cảnh ra đời:
Thắng lợi của mùa xuân năm 1975 đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân
tộc ta. Trước tình hình đó, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cho cả nước
được tổ chức. Và Quốc hội Khóa VI thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp gồm 36
người. 9/1980 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp kì họp đặc biệt để đóng
góp ý kiến cho dự thảo và tại kì họp thứ VII ngày 18/12/1980 đã nhất trí thông qua
Hiến pháp.
b. Tổ chức bộ máy nhà nước.
*Hệ thống cơ quan đại diện:
Quốc hội và Hội đồng nhân dân là các cấp là cơ quan đại diện. Quốc hội do nhân
dân cả nước bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Nhiệm kì là 5 năm, Ủy ban

Thường vụ Quốc hội đổi tên thành Hội đồng nhà nước. Đây là điểm thay đổi lớn so
với Hiến pháp năm 1959, bỏi Hội đồng nhà nước không chỉ thực hiện chức năng
của Ủy ban Thường vụ quốc hội mà còn là Chủ tịch nước tập thể. Không chỉ thay
đổi về chức năng mà cơ cấu tổ chức và hoạt động cũng có sự thay đổi. Cơ quan đại
diện địa phương gồm Hội đồng nhân dân các cấp(tỉnh, huyện, xã và tương đương).
Hội đồng nhân dân do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân
dân. So với Hiến pháp năm 1959 thì Hiến pháp năm 1980, Quốc hội và Hội đồng
nhân dân được tổ chức chặt chẽ hơn, cụ thể số lượng thành viên tăng lên, các cơ
quan thuộc Quốc hội được bổ sung để làm việc tốt hơn và nhanh hơn.
*Hệ thống cơ quan hành chính:
Hệ thống các cơ quan chấp hành, gồm có: Hội đồng bộ trưởng, các bộ, các ủy ban
nhà nước và các cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng. Ở địa phương có ủy ban
nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã và cấp tương đương). Như vậy, Hội đồng chính
phủ được đổi tên thành Hội đồng bộ trưởng; ủy ban hành chính được đổi tên thành
ủy ban nhân dân (nhấn mạnh tính dân chủ). Do chế độ làm việc tập trung và tập thể
chịu trách nhiệm nên vai trò và trách nhiệm cá nhân của Chủ tịch Hội đồng bộ
trưởng và chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp bị hạn chế, hoạt đông của Hội đồng bộ
trưởng và ủy ban nhan dân kiém hiệu quả.
*Hệ thống cơ quan xét xử:
Hệ thống các cơ quan tòa án về cơ bản giống như quy định của Hiến pháp năm
1959 nhưng bắt đầu có sự chuyển giao một số nhiệm vụ, quyền hạn từ các cơ quan
tòa án sang các cơ quan hành pháp. Việc đào tạo cán bộ cho ngành tòa án cũng như
việc quản lí các tòa án địa phương trong giai đonạ này được chuyển giao cho Hội
đồng bộ trưởng.
*Hệ thống cơ quan kiểm sát
Hệ thống cơ quan kiểm sát trong Hiến pháp năm 1980 được quy định giống với
trong Hiến pháp năm 1959.
*Nguyên thủ quốc gia:
Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Củ tịch nước được "sáp nhập" thành Hội đồng Nhà
nước. Chế định Nguyên thủ quốc gia từ cá nhân thay đổi thành tập thể.Việc thay

đổi này đem lại một số lợi ích, nhưng đồng thời cũng có nhiều hạn chế, như:
Không quy trách nhiệm cá nhân, quyền hạn của Hội đồng Nhà nước trong kì họp
Quốc hội hạn chế, hoạt động chồng chéo, trùng lặp giữa các cơ quan của Quốc hội.
Hơn nữa, khi giải quyết mọi vấn đề đều đưa ra tập thể bàn bạc nên tiến trình chậm,
thủ tục rườm rà, trách nhiệm không cụ thể.
*Sơ đồ bộ máy nhà nước:
4. Tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1992.
a. Hoàn cảnh ra đời:
Sau một thời gian phát huy hiệu lực, nhiều quy định cảu Hiến pháp năm 1980 tỏ ra
không phù hợp với điều kiện KT-XH của đất nước. Tình hình đó đòi hỏi có sự sửa
đổi về hệ thống kinh tế và Hiến pháp. Sau nhiều ngày thải luận sôi nổi thì bản dự
thảo Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua ngày 15/4/1992.
b. Tổ chức bộ máy nhà nước:
*Hệ thống cơ quan đại diện:
Cơ quan đại diện vẫn là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã
và tương đương), nhưng có nhiều thay đổi. Hội đồng Bộ trưởng đã đổi thành Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước đã tách ra thành một chế định riêng. Một
số cơ quan đã bị xóa bỏ nhằm hạn chế tính trạng quan liêu, bao cấp và để cho các
cơ quan hoạt động có hiệu quả hơn. Nhiệm kì Quốc hội là 5 năm. Nhiệm kì Ủy ban
Thường vụ Quốc hội theo nhiệm kì Quốc hội. Ở địa phương: cấp tỉnh, huyện thành
lập thêm Thường trực Hội đồng Nhân dân. Đây là điểm mới so với Hiến pháp năm
1980, giúp giải quyết những vấn đề của Hội đồng Nhân dân.
*Hệ thống cơ quan hành chính:
Hội đồng bộ trưởng đổi tên thành Chính phủ. Đây không phải là cơ quan hành
chính cao nhất của Quốc hội mà là cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng
hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Do đó, Chính phủ tương đối độc lập với Quốc hội
về mặt quản lí Nhà nước. Chính phủ thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lí nhà
hành chính nhà nước. Hoạt động của Chính phủ theo cơ chế chịu trách nhiệm tập
thể và các nhân, trong đó, trách nhiệm cá nhân được đề cao. Chính phủ vẫn phụ
thuộc vào Quốc hội, điều này thể hiện rõ nguyên tắc tập quyền. Chính quyền địa

phương không có nhiều thay đổi.
*Hệ thống cơ quan xét xử:
Hệ thống các tòa án cũng được thành lập ở ba cấp như 1980 đã quy định. Tuy
nhiên, trong tổ chức và hoạt động của các tòa án cũng có sự thay đổi. Trong hệ
thống các cơ quan tòa án ngoài các tòa hình sự và dân sự còn có các tòa án khác.
Đó là các tòa án chuyên trách như Toàn án kinh tế, tòa hành hính, lao động… Chế
độ bầu thẩm phán được thay bằng chế độ bổ nhiệm thẩm phán nhằm đề cao tính
chất nghề nghiệp của thẩm phán. Ngoài ra, tiêu chuẩn của các thẩm phán cũng đòi
hỏi cao hơn. Công tác thi hành án dân sự được chuyển giao cho các cơ quan thuộc
Chính Phủ.
*Hệ thống cơ quan kiểm sát:
Hệ thống các cơ quan kiểm sát cũng được thành lập ở ba cấp. Chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn cũng như cơ cấu tổ chức của các viện kiểm sát về cơ bản không thay
đổi nhưng tập trung vào chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp(không kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính – kinh tế).
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa viện trưởng với tập thể ủy ban kiểm sát đực điều
chỉnh lại để kết hợp giữa tính sáng tạo của tập thể và vai trò của cá nhân viện
trưởng. Quan hệ giữa viện trưởng và hội đồng nhân dân cùng cấp cũng được điều
chỉnh lại: đặt viện trưởng dưới sự giám sát của hội đồng nhân dân cùng cấp.
*Nguyên thủ quốc gia:
Chủ tịch nước tách ra khỏi Hội đồng nhà nước thành một chế định riêng. Quyền
hạn không lớn như tron các bản Hiến pháp trước đây, nhưng quy định cụ thể, rõ
ràng hơn và tăng thêm một số quyền mới.Điểm khác biệt nhất đó là trong Hiến
hành chính – kinh tế đặc biệt, đơn vị hành chính tương đương với quận, huyện, thị
xã thuộc thành phố trực thuộc Trung ương; có quy định nhằm khắc phục những
hạn chế trong việc thành lập, nhập, chia, điều chỉnh đơn vị hành chính. Về tổ chức
chính quyền địa phương, quy định định khái quát theo hướng: “Chính quyền địa
phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có hội đồng nhân dân và ủy
ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị

hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định”.Hội đồng nhân dân đổi tên thành Chính
quyền địa phương, quyền hạn và nội dung hoạt động cũng có một số điểm mới. Bổ
sung quy định kéo dài nhiệm kỳ quốc hội thì không được quá 12 tháng (trừ trường
hợp có chiến tranh). Khi cần thiết, Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên
cứu, thẩm tra, một dự án hoặc điều tra một vấn đề nhất định.
- Bổ sung thêm thẩm quyền trong việc thành lập 2 cơ quan mới là Hội đồng Kiểm
toán và Bầu cử quốc gia.
- Thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội được tăng cường thêm.
*Hệ thống cơ quan hành chính:
-Tiếp tục quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và bổ
sung chức năng thực hiện quyền hành pháp cho Chính phủ. Ngoài ra trong Điều
96, Điều 98 đã quy định thẩm quyền và trách nhiệm của Chính phủ, thủ tướng
Chính phủ, Hiến pháp 2013 phân định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm của tập
thể Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính
phủ.
-Chính phủ không còn được giao nhiệm vụ quyết định địa giới hành chính địa
phương nữa.
*Hệ thống cơ quan xét xử: Không có gì thay đổi, vẫn giữ nguyên.
*Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân tối cao:
-Tạo cơ sở hiến định cho việc tiếp tục đổi mới hoạt động tư pháp, phù hợp với yêu
cầu của nước nhà.
-Khẳng định tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp.
-Quy định rõ một số nguyên tắc mang tính hiến định.
-Tòa án nhân dân gồm có Tòa àn tối cao và tòa án khác do luật định. Viện kiểm sát
gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát luật định.
*Chủ tịch nước:
Thiết chế này được quy định trong 8 điều. Có nhiều bổ sung quan trọng về thẩm
quyền của Chủ tịch nước, tương xứng với vị trí là nguyên thủ quốc gia, người đứng
đầu Nhà nước, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại.

-Vai trò thống lĩnh các lực lượng vũ trang được tăng cường. Có quyền yêu cầu
Chính phủ họp bàn vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết.
*Hội đồng kiểm toán và bầu cử quốc gia:
Đây là một thiết chế và cơ quan mới. Đã quy định tổng quát về Hội đồng bầu cử
quốc gia, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn bầu
cử đại biệu Hội Đồng Nhân Dân các cấp, còn những vẫn đề cụ thể về tổ chức và
hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ do luật định. Còn kiểm toán nhà nước
là một thiết chế hiến định độc lập phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế. thực
hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công của đất nước.
NHẬN XÉT: Với sự hoàn thiện hơn của tổ chức bộ máy nhà nước cũng như sự
hoàn thiện của Hiến pháp năm 2013. Sự ra đời của Hiến pháp 2013 là một sự kiện
trọng đại trong đời sống chính trị đất nước. Với những nhiệm vụ, quyền hạn được
quy định, Hiến pháp mới tiếp tục là nền tảng pháp lý cơ bản giúp nhân dân ta thực
hiện công cuộc đổi mới toàn diện trong tình hình mới, đáp ứng kịp thời yêu cầu
của thực tiễn.

×