LỜI NĨI ĐẦU
“Tích luỹ là sự chinh phục thế giới của cải”. (*)
XH không thể ngừng tiêu dùng nên không thể ngừng sản xuất .Do vậy bất cứ
quá trình sản xuất nào , nếu xét theo tiến trình dổi mới khơng ngừng của nó, thì
đồng thời đều là q trình TSX( bao gồm TSX giản đơn và TSX mở rộng).Vì vậy
TSX là tất yếu khách quan .Để thực hiện TSX,đặc biệt là TSX mở rộng, địi hỏi
phải có q trình tích luỹ tư bản. Đây là khâu tất yếu, là khâu quyết đinh để thực
hiện TSX ra của cải cho XH, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Với Việt Nam hiện nay để hội nhập một cách có hiệu quả vào nền kinh tế khu
vực và Thế giới địi hỏi phải đẩy mạnh q trình tích luỹ vốn. Từ một chủ trương
lớn của Đảng: “ Hình thành một số tổ chức kinh tế lớn với mục đích tích tụ và tập
trung cao về vốn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.”(1), đến nay, nhiều
công ty tổ chức theo hướng tập đoàn kinh doanh ở nươc ta đã được thành lập
nhưng chưa đạt được hiệu quả kinh tế cao. Để chuyển đổi các tổng công ty này
thành các tập đoàn kinh doanh với những đặc trưng của kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước, đa dạng về sở hữu kết hợp với kinh doanh đa ngành, đa lĩnh
vực, thì vấn đề cốt lõi vẫn là tìm ra một cơ chế tạo lập vốn đầu tư phát triển, để
thúc đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung vốn
Từ yêu cầu trên, nghiên cứu đề tài này sẽ giúp chúng ta có thể tìm ra nguyên
nhân và các giải pháp góp phần tạo điều kiện cho Việt Nam có thể tích luỹ và sử
dụng vốn có hiệu quả cao hơn, tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới –như
chủ trương mà Đảng đã đề ra.
(*) Tư bản Quyển 1, tậpIII, phần VII, tr56
(1)Trích dẫn: Báo Kinh Tế &Dự báo Số 4/2000. Tr 21
Thạc sỹ: Nguyễn Hữu Phong. Hoàn thiện cơ chế tạo lập vốn
ĐTcủa tổng công ty.
1
CHƯƠNG1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍCH LUỸ TƯ BẢN
I./ Thực chất và động cơ tích luỹ :
1./ Thực chất của tích luỹ tư bản:
Tích luỹ tư bản là tất yếu khách quan, do quy luật kinh tế cơ bản quy luật giá trị
và cạnh tranh, … của Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa quy định. Nguồn gốc
duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư. Thực chất của q trình tích luỹ tư
bản là tư bản hố giá trị thặng dư hay nói khác đi là biến một phần giá trị thặng dư
thành tư bản phụ thêm( Tư bản bất biến phụ thêm và tư bản khả biến phụ thêm ) để
mở rộng sản xuất.
Tái sản xuất giản đơn khơng phải là hình thái điển hình của chủ nghiã tư bản.
Hình thức tiến hành của chủ nghĩa tư bản là tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất mở
rộng tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại q trình sản xuất với quy mơ lớn hơn trước, với
một lượng tư bản lớn hơn trước. Muốn vậy phải biến một bộ phận giá trị thặng dư
thành tư bản phụ thêm. Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản, hay chuyển hoá
giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản.
Như vậy thực chất của tích luỹ tư bản là tư bản hoá giá trị thặng dư. Xét một
cách cụ thể, tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng.
Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hố thành tư bản được là vì giá trị thặng dư đã
mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.
Có thể minh hoạ tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa bằng ví dụ
sau: Năm thứ nhất: 80c+20v+20m. Gỉa định 20m không bị nhà tư bản tiêu dùng tất
cả cho cá nhân, mà được phân thành 10m1+10m2(trong đó 10m2 giành cho tiêu
dùng cá nhân của nhà tư bản, cịn 10m1 dùng để tích luỹ được phân thành
8c1+2v1. Khi đó quy mơ xuất của năm sau sẽ là 88c+22v+20m( nếu m, vẫn như cũ
2
). Như vậy, vào năm thứ hai, quy mô tư bản bất biến và tư bản khả biến đều tăng
lên, giá trị thặng dư cũng tăng lên tương ứng.
Nghiên cứu tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa cho phép rút ra
những kết luận vạch rõ hơn bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Một là, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản
tích luỹ chiếm một tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. C.Mac nói rằng tư bản
ứng trước chỉ là một giọt nước trong dịng sơng tích luỹ mà thơi. Trong q trình
sản xuất, lãi( m ) cứ đập vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn, do đó lao động của
cơng nhân trong q khứ lại trở thành phương tiện mạnh mẽ để bóc lột chính ngươì
cơng nhân.
Hai là, q trình tích luỹ đã làm cho quyền sở hữu trong nền sản xuất hàng
hoá biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hoá, người
lao động là người chủ những tư liệu sản xuất và sản phẩm do họ sản xuất ra. Sự
trao đổi giữa họ với nhau theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản không dẫn tới việc
người này chiếm đoạt lao động không công của người kia. Trái lại, trong nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa, sự trao đổi giữa người lao động và nhà tư bản dẫn đến kết
quả là nhà tư bản chẳng những chiếm một phần lao động của người cơng nhân, mà
cịn là người sở hữu hợp pháp lao động khơnh cơng đó. Như vậy đã có sự thay đổi
căn bản trong quan hệ sở hữu. Nhưng sự thay đổi đó khơng vi phạm quy luật giá
trị.
Về mặt giá trị, tổng sản phẩm xã hội gồm có 3 phần: c+v+m. Phần thứ nhất bù
cho tư bản bất biến, phần thứ hai bù cho tư bản khả biến, phần thứ ba là giá trị
thặng dư.
Về mặt hình thái vật chất, tổng sản phẩm xã hội gồm có tư liệu sản xuất và tư
liệu tiêu dùng. Do hình thái tự nhiên của nó quýêt định, nên mỗi vật phẩm đều
được dùng hoặc để tiêu dùng cho cá nhân hoặc để tiêu dùng cho sản xuất; có
3
những vật phẩm vừa có thể tiêu dùng cho sản xuất, vừa có thể tiêu dùng cho cá
nhân, nhưng nhất định chỉ có thể dùng vào một trong hai mục đích đó.
Do đó, sản xuất xã hội được phân thành hai khu vực lớn: khu vực I là khu vực
sản xuất tư liệu sản xuất, khu vực II là khu vực sản xuất tư liệu tiêu dùng. Trong tái
sản xuất giản đơn, điều kiện thực hiện tổng sản phẩm xã hội là nhà tư bản dùng
toàn bộ giá trị thặng dư cho tiêu dùng cá nhân. Còn muốn tái sản xuất mở rộng,
nhà tư bản phải thuê thêm công nhân, mua thêm tư liệu sản xuất, do đó, số giá trị
thặng dư tích luỹ được phải chia làm hai phần: một phần để mua thêm tư liệu sản
xuất, một phần để th thêm cơng nhân. Muốn có thêm tư liệu sản xuất để mở rộng
sản xuất, khu vực I phải sản xuất nhiều tư liệu sản xuất hơn số lượng cần thiết
trong tái sản xuất giản đơn.
Sau khi nghiên cứu lý luận về tái sản xuất của Mac và Lê-nin, chúng ta có thể
thấy rằng một trong những điều kiện để thực hiện tái sản xuất mở rộng thì phải tích
luỹ ở cả hai khu vực, tích luỹ ở khu vực I quyết định tích luỹ ở khu vực II, vì
khơng có tư liệu sản xuất của khu vực I sản xuất ra, thì khu vực II khơng thể mở
rộng sản xuất được. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, khu vực I cũng không thể sản
xuất được, nếu quy mô của khu vực II không được mở rộng.
Paul A.Samuelson cho rằng thực chất của tích luỹ : “chúng ta thường chịu bỏ
tiêu dùng hiện nay để tăng tiêu dùng trong tương lai.Bắt ít cá đi hơm nay dành cho
lao động làm lưới để bắt được nhiều cá hơn ngày mai. Như vậy xã hội đầu tư, hay
nhịn tiêu dùng hiện tại, mà chờ để thu được kết quả hoặc lợi tức do đầu tư đó tạo
ra. Với nghĩa chung nhất, thu hoạch này-nhịn tiêu dùng hiên tại để có tiêu dùng
tương lai nhiều hơn-là lợi tức của tư bản”.
2./ Động cơ:
Động lực thúc đẩy tích luỹ tích luỹ tư bản là quy luật kinh tế tư bản của chủ
nghĩa tư bản. Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất ra giá trị thặng dư
4
tối đa,để đạt được mục đích đó các nhà tư bản phải khơng ngừng tích luỹ để mở
rộng sản xuất. Mặt khác, do cạnh tranh, các nhà tư bản buộc phải khơng ngừng làm
cho tư bản của mình tăng lên, bằng cách tăng nhanh tư bản tích luỹ. Nói như vậy
hình như có mâu thuẫn giữa phần tiêu dùng của nhà tư bản và phần tích luỹ. Thật
ra, trong buổi đầu của sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự ham muốn làm giàu của các
nhà tư bản thường chi phối tuyệt đối, nhưng đến một trình độ phát triển nhất định,
sự tiêu dùng xa phí của các nhà tư bản ngày càng tăng lên theo sự tích luỹ tư bản.
Yêu cầu khách quan của tích luỹ vốn đã được Mac khẳng định do những nguyên
nhân sau: “Cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì
quy mơ tối thiểu mà một tư bản cá biệt phải có để có thể kinh doanh, trong điều
kiện bình thường, cũng tăng lên .”(4). Từ đó, Mac đã khẳng định : “ Sự cạnh tranh
bắt buộc nhà tư bản, nếu muốn duy trì tư bản của mình thì phải làm cho tư bản
ngày càng tăng lên mãi và hắn khơng thể nào tiếp tục làm cho tư bản đó ngày một
tăng lên được, nếu khơng có một sự tích luỹ ngày càng nhiều thêm.”(5).
II./ Các nhân tố quyết định đến quy mơ tích luỹ:
1./ Tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng:
Thật ra giá trị thặng dư không phải chỉ là quỹ tích luỹ, mà là cả hai. Một phần giá
trị thặng dư được nhà tư bản tiêu xài với tư cách là thu nhập, cịn phần khác thì
được nhà tư bản dùng làm tư bản, hay được tích luỹ lại. Với một khối lượng giá trị
thặng dư nhất định, một trong hai phần đó càng lớn thì phần kia càng nhỏ. Nếu
những điều kiện khác khơng thay đổi, thì tỷ lệ phân chia đó quyết định đại lượng
tích luỹ. Nhưng người thực hiện sự phân chia đó là người sở hữu giá trị thặng dư,
tức nhà tư bản, vì vậy nó là một hành vi tuỳ thuộc vào ý chí của nhà tư bản. Mà
động cơ của nhà tư bản không phải là giá trị sử dụng và sự hưởng thụ, mà là giá trị
trao đổi và việc làm tăng thêm giá trị trao đổi. Và như ta đã biết cạnh tranh buộc
5
nhà tư bản phải không ngừng mở rộng tư bản để giữ được tư bản và nhà tư bản chỉ
còn cách tích luỹ tư bản ngày càng nhiều hơn mà thôi.
2./ Khối lượng giá trị thặng dư:
Nếu tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản và thu nhập khơng thay đổi
thì rõ ràng trong đại lượng của tư bản tích luỹ sẽ do đại lượng tuyệt đối của giá trị
thặng dư quyết định. Do vậy, tất cả các trường hợp quyết định giá trị thặng dư đều
có tác dụng quyết định đại lượng tích luỹ. Trong thực tế Chủ nghĩa Tư bản có rất
nhiều biện pháp làm tăng khối lượng giá trị thặng dư như: tăng cường độ lao động,
tăng năng suất lao động,... Ngoài ra quy mơ tích luỹ cịn phụ thuộc vào sự chênh
lệch ngày càng lớn giữa tư bản cố định sử dụng và tư bản cố định tiêu dùng, quy
mô của tư bản ứng trước.
(4).Các Mác: TB Q’I . Tập III – NSB Sự thật, HN, 1964, tr43
(5). Các Mác: TB Q’I . Tập III – NSB Sự thật, HN, 1975, tr116,117
Ta nhớ rằng, tỷ suất giá trị giá trị thặng dư được quyết định, trước hết là do
mức độ bóc lột sức lao động. Khoa Kinh tế Chính trị đánh giá rất cao vai trị đó
đến nỗi lắm khi nó đồng nhất hố việc đẩy nhanh tích luỹ nhờ nâng cao sức sản
xuất của lao động, với việc đẩy nhanh tích luỹ nhờ bóc lột cơng nhân. Việc ép giá
hạ tiền cơng xuống thấp hơn giá trị lao động thực tế đã đem biến quỹ tiêu dùng cần
thiết của công nhân thành quỹ tích luỹ của tư bản. Các nhà tư bản tìm mọi cách để
nâng cao trình độ bóc lột sức lao động như tăng cường độ lao động. Nhờ tính co
giãn của sức lao động nên lĩnh vực tích luỹ được mở rộng mà trước đó khơng cần
phải tăng thêm tư bản bất biến
Một nhân tố quan trọng khác nữa cuả tích luỹ tư bản là mức năng suất lao động xã
hội. Sức sản xuất của lao động mà tăng lên thì khối lượng sản phẩm, biểu hiện giá
trị nhất định và đó là biểu hiện một giá trị thặng dư nhất định, cũng tăng lên. Với
6
một tỷ suất giá trị thặng dư không thay đổi hay thậm chí đang giảm xuống thì khối
lượng thặng dư vẫn tăng lên, miễn là tỷ xuất giá trị thặng dư giảm xuống chậm hơn
mức tăng sức sản xuất của lao động. Vì vậy, với một tỷ lệ phân chia sản phẩm
thặng dư thành thu nhập và tư bản phụ thêm không thay đổi, sự tiêu dùng của nhà
tư bản vẫn có thể tăng lên mà khơng cần giảm quỹ tích luỹ. Trình độ, năng suất
lao động xã hội tăng thì giá cả, tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt sẽ giảm. Vì vậy
với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ sẽ tăng, đồng
thời năng suất lao động tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị
thặng dư thành tư bản mới.
Sự phát triển sức sản xuất của lao động cũng làm ảnh hưởng đến số tư bản
hiện đã nằm trong quá trình sản xuất. Lao động đem giá trị của những tư liệu sản
xuất mà nó đã tiêu dùng chuyển vào sản phẩm. Mặt khác, giá trị và khối lượng tư
liệu sản xuất do một khối lượng lao động nhất định sử dụng, lại tăng lên tỷ lệ với
việc tăng năng suất lao động.
Khi tư bản tăng lên thì kéo theo sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và
tư bản đã tiêu dùng cũng tăng lên. Các tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc
tham gia vào q trình sản xuất bị hao mịn dần và do đó chỉ mất giá trị từng phần
một, nghĩa là chỉ chuyển giá trị ấy từng phần một vào sản phẩm. Điều này cho thấy
sự phục vụ không của các tư liệu lao động
giống như các lực lượng thiên nhiên( nước, khơng khí,…) đã được lao động
sống nắm lấy và làm sống lại, đang được tích luỹ lại cùng với việc tăng quy mơ
tích luỹ.
Tư bản tăng lên bao nhiêu nhờ những sự tích luỹ liên tiếp, thì tổng số giá trị
được chia thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng cũng tăng lên bấy nhiêu. Và cuối
cùng quy mô sản xuất càng mở rộng hơn cùng với khối lượng tư bản ứng trước, thì
tất cả các động lực thúc đẩy sản xuất lại càng tác động mạnh mẽ hơn.
7
III./ Quy luật chung của tích luỹ tư bản:
1./ Quy luật tích luỹ tư bản:
Đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế sản xuất lớn là tái sản xuất mở rộng. Một trong
các quy luật kinh tế của tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế sản xuất lớn là quy
luật tích luỹ. Muốn tái sản xuất mở rộng thì phải có vốn lớn, tích luỹ là nguồn gốc
cơ bản tạo ra vốn lớn đó. Tích luỹ vốn gắn chặt với quá trình tái sản xuất mở rộng.
Vì vậy trong tất cả các hình thái kinh tế- xã hội có tái sản xuất mở rộng thì tích luỹ
là một quy luật kinh tế chung.
“Của cải xã hội càng nhiều, tư bản hoạt động càng lớn, quy mô và cường độ
của sự tăng thêm tư bản càng lớn và do đó đại lượng tuyệt đối của giai cấp vơ sản
và sức sản xuất của họ càng lớn, thì đội quân công nghiệp trù bị càng đông. Sức
lao động nhàn rỗi phát triển cũng do chính nguyên nhân đã làm phát triển sức bành
trướng của tư bản . Do đó, đại lượng tương đối của đội quân công nghiệp trù bị
tăng lên cùng với sự tăng lên của sức mạnh của cải. Nhưng đội quân công nghiệp
trù bị càng đông so với đội quân lao động tại ngũ, thì số nhân khẩu thừa cố định lại
càng thêm đông đảo và sự nghèo khổ của họ tỷ lệ thuận với sự giày vò của lao
động của đội quân lao động tại ngũ. Sau những tầng lớp cùng khổ trong giai cấp
công nhân càng đông và đội quân công nghiệp trù bị càng lớn thì bần cùng chính
thức càng lớn. Đó là quy luật tuyệt đối, phổ biến của tích luỹ tư bản chủ nghĩa.”(6)
Q trình tích luỹ tư bản dần dần làm thay đổi cơ cấu tư bản, các bộ phận
của tư bản có sự thay đổi khơng giống nhau. Cấu tạo của tư bản gồm 2 mặt : mặt
vật chất và mặt giá trị.
-Về mặt vật chất gồm có tư liệu sản xuất và sức lao động. Tỷ lệ giữa số lượng tư
liệu sản xuất và số lượng sức lao động sử dụng tư liệu sản xuất đó là cấu tạo kỹ
thuật của tư bản.
8
-Về mặt giá trị gồm tư bản bất biến và tư bản khả biến. Tỷ lệ giữa tư bản bất
biến(c) và tư bản khả biến (v ) gọi là cấu tạo giá trị của tư bản.
Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị có quan hệ chặt chẽ với nhau và được gọi
là cấu tạo hữu cơ cuả tư bản. Cấu tạo hữu cơ của tư bản thay đổi theo mức độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Khi nghiên cứu q trình tích luỹ tư bản ta khơng thể khơng đề cập tới các
kết quả của tích luỹ tư bản, đó là tích tụ và tập trung tư bản, ảnh hưởng qua lại của
tích tụ và tập trung tư bản sẽ làm cho tích luỹ tư bản ngày càng tăng .
Tích tụ tư bản là sự tăng thêm qui mơ tư bản cá biệt bằng cách tư bản hố
một phần giá trị thặng dư. Nó là kết quả trực tiếp của tích luỹ tư bản.
(6). Trích dẫn TB, Q’I Tập III – Phần VII.tr149, 150
Tập trung tư bản là sự tăng qui mô tư bản cá biệt bằng cách kết hợp nhiều tư
bản nhỏ thành một tư bản lớn hơn. Tập trung tư bản diễn ra bằng hai phương pháp
là cưỡng bức và tự nguyện.
Tích tụ tư bản làm tăng qui mơ tư bản xã hội, nó phản ánh quan hệ trực tiếp
giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Còn tập trung tư bản chỉ phân phối lại
và tổ chức lại tư bản xã hội, nó phản ánh quan hệ trực tiếp giữa các nhà tư bản.
Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ với nhau và tác động thúc đẩy nhau. Nếu gạt
bỏ tính chất tư bản chủ nghĩa, tích tụ và tập trung là hình thức làm tăng thu nhập
quốc dân và sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn vốn của xã hội trong quá trình
sản xuất.
2./ Xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản:
Chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở dùng bạo lực để tước đoạt của những
người sản xuất nhỏ, đặc biệt là nông dân. Q trình đó đã biến chế độ tư hữu nhỏ
dựa trên lao động cá nhân thành chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ sự
9
bóc lột lao động làm thuê, biến sản xuất nhỏ lạc hậu, phân tán thành sản xuất lớn,
tập trung. Đó là sự phủ định chế độ tư hữu của những người sản xuất nhỏ.
Nhưng khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành thì q
trình tích luỹ và cạnh tranh dẫn đến tư bản sản xuất được tập trung ngày càng lớn,
do đó sản xuất được xã hội hoácao hơn, lực lượng sản xuất được phát triển mạnh
hơn. Điều đó làm cho mâu thn giữa tính xã hội của sản xuất với chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa phát triển. Sự phát triển của mâu thuẫn này tất yếu dẫn đến sự thay
thế xã hội tư bản bằng xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn. Đó là xu hướng lịch sử
của tích luỹ tư bản, xu hướng tạo ra những tiền đề vật chất và tiền đề xã hội cao
cho sự phủ định đối với chủ nghĩa tư bản.
10
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG CỦA Q TRÌNH TÍCH LUỸ TƯ BẢN Ở VIỆT NAM
I./Vai trị của tích luỹ với tăng trưởng và phát triển kinh tế:
Việt Nam sau 10 năm đổi mới (1991- 2001) nền kinh tế đã có nhiều chuyển
biến quan trọng và đạt được những thành tựu lớn lao, nhưng so với nhịp độ phát
triển chung của khu vực và thế giới thì mức sống của ta vẫn cịn thấp, tích tụ và tập
trugn vốn trong nội bộ nền kinh tế cịn q thấp. Trong khi đó nhu cầu vốn đầu tư
cho cả nền kinh tế nói chung và cho việc phát triển cơng nghiệp nói riêng rất lớn và
cấp bách.
Để tăng trưởng và phát triển kinh tế, hiện nay Việt Nam đang tiến hành
CNH, HĐH đất nước. Trong quá trình tạo các tiền đề cho CNH,HĐH cũng như để
triển khai q trình CNH,HĐH khơng thể thiếu vai trị của vốn. Mặt khác, muốn
phát huy nguồn nhân lực nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài để phát huy
tối đa công cuộc CNH,HĐH cũng như cần phải có vốn đầu tư cao cho sự nghiệp
giáo dục, đẩy nhanh ứng dụng KHKT, công nghệ vào sản xuất, cũng như việc xây
dựng CSHT càng khơng thể thiếu vai trị của vốn. Chính những điều đó có thể rút
ra kết luận rằng: tích tụ và tập trung vốn là điều kiện tiên quyết cho q trình CNH,
HĐH, nhịp độ cơng nghiệp hố nhanh hay chậm chính là do nguồn vốn quyết định.
Từ đó khẳng định một điều quan trọng rằng trong hiện tại và tương lai, việc
tích tụ và tập trung nguồn vốn trong nước và nước ngoài đã, đang và sẽ giữ vai trò
quyết định đối với sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Điều đó thể hiện một cách rõ
nét ở vai trị của nó trong việc thúc đẩy các nghành kinh tế chủ đạo phát triển, đặc
biệt là những nghành công nghiệp mũi nhọn hướng về xuất khẩu, cũng như ở vai
trị của nó trong việc đầu tư vào các vùng sâu, vùng xa, vùng cao để tạo ra sự phát
triển cân đối, hài hoà giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với chính sách XH theo
11
định hướng XHCN, xây dựng nước Việt Nam dân giàu nước mạnh xã hội công
bằng và văn minh.
II./ Thực trạng q trình tích luỹ vốn cho đầu tư và phát triển kinh tế ở
Việt Nam hiện nay.
1./ Thực trạng:
Sự nghiệp cơng nghiệp hố hiện đại hố ở nước ta bắt đầu từ kế hoạch 5
năm lần thứ nhất 1960 đến 1964 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đề ra. Q
trình này có thể được chia thành 2 thời kỳ: Thời kỳ 1960- 1985, CNH được tiến
hành trong điều kiện cơ chế kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, từ 1986 đến nay,
CNH gắn liền với quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
Từ năm 1986 đến nay, cùng với công cuộc đổi mới, mở cửa, các kênh huy
động vốn cho CNH, HĐH cũng bắt đầu phong phú, linh hoạt hơn. Đối với nguồn
vốn nước ngoài, ngồi hình thức cũ là vay nợ và viện trợ, đã có thêm hình thức đầu
tư trực tiếp. Nguồn vốn trong nước cũng được bổ xung một số kênh mới, đặc biệt
là từ khi có pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng,
HTX tín dụng và cơng ty Tài chính (từ 1 -10 -1998). Theo 2 pháp lệnh này, hệ
thống ngân hàng một cấp ở nước ta đã chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp.
Các NHTM có thể được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần và được phép
thực hiện đa dạng hoá các nghiệp vụ. Đây là tiền đề pháp lý đầu tiên cho phép các
NHTM Việt Nam có thêm nhiều khả năng thực hiện các nghiệp vụ tài chính, góp
phần thúc đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung vốn.
Thực trạng huy động vốn cho CHN,HĐH được thể hiện qua bảng thống kê
dưới đây (đơn vị tính: tỷ đồng):
12
Năm
1991- 1995 1996
Tổng số vốn đầu tư toàn xã 38.707,5
77.813,6
1997
90.000
1998
87.700
hội
1.Vốn đầu tư XDCB của nhà 14.563,6
30.640
38.000
31.160
39.432,5
14.375
13.764,6
5.049
101.700
26.157,8
26.496
7.617
62.692,4
33.335
28.250
11.469,5
50.042,3
22.096
32.495
18.857,1
4.719,2
13.300,2
7.195,5
15.586,9
nước
2. FDI
3.
Tổng vốn đăng ký
Thực hiện
Tổng vốn cam kết
Thực hiện
ODA
4. Các nguồn khác
Nếu đem so sánh kết quả thực hiện huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã
hội, giai đoạn 1996 – 2000 với năm 1995 thì năm 1996 tăng 11,1%, 1997 tăng
30,4%, 1998 tăng 24,4%, 1999 tăng 31,8% và năm 2000 ước tính tăng 48,1%. Tính
chung tổng vốn đầu tư phát triển tồnxã hội thực hiện cả giai đoạn 1996 - 2000 thì
cả nước đạt 394,1 ngàn tỷ đồng, tăng 66,7% so với giai đoạn 1991 - 1995. Tỷ trọng
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996-2000 chiếm trong GDP bình qn
là 28,6% năm. Tích luỹ nội bộ của nền kinh tế từ mức không đáng kể đã tăng lên
25%GDP. Trong các nguồn vốn cấu thành nên tổng nguồn vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội, nguồn vốn Nhà nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Trong khi đó
thì nguồn vốn ngoài Quốc doanh qua các năm 1996-2000 lại có chiều hướng ngày
càng giảm sút, mặc dù năm 2000 có tăng hơn 1999 nhưng vẫn ở mức thấp so với
năm 1995. Trong tổng số vốn đầu tư ngoài quốc doanh thì vốn trong nước khu vực
dân cư chiếm tỷ trọng lớn, trên 80%, còn vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh chỉ chiếm dưới 20%. Về cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo
ngành kinh tế cũng đã có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề huy động và sử dụng vốn trong
nước hiện nay đang bộc lộ những yếu kém cần khắc phục. Ngân sách nhà nước
ln ở trong tình trạng căng thẳng, không thể đáp ứng đủ các yêu cầu cho đầu tư
13
phát triển và các yêu cầu cấp bách về xã hội. Đầu tư của nhà nước bị phân tán do
phải đáp ứng quá nhiều nhiệm vụ. Các nguồn thu từ đất đai, nhà ở, các loại dịch vụ
cơng ích như: viện phí, phí cung cấp điện, nước,... cịn để thất thốt và lãng phí
lớn. Đóng góp của nhân dân để xây dựng mới và cải tạo trường học, trạm xá, giao
thơng địa phương,...vào sự nghiệp Văn hố - Giáo dục - Y tế,... chưa được thể chế
hoá, sử dụng và quản lý kém hiệu quả, bất hợp lý, bị lạm dụng và thất thốt. Số
vốn huy động được thơng qua hệ thống tín dụng chủ yếu là ngắn hạn, khơng đáp
ứng được nhu cầu đầu tư phát triển và chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Vốn đầu tư trực
tiếp của khu vực kinh tế tư nhân trong nước vẫn ở quy mô nhỏ, tập trung chủ yếu
(80%) vào các lĩnh vực: thương mại, dịch vụ phục vụ tiêu dùng. Một bộ phận
không nhỏ vốn trong nước đã huy động vào hệ thống NHTM đang bị ứ đọng,
không chuyển thành đầu tư được. Theo ý kiến dự báo khác nhau, khoảng 50 - 70
nghìn tỷ đồng tiền tiết kiệm của nhân dân đang được cất trữ dưới dạng vàng, bạc,
tiền mặt, ngoại tệ, tài sản có giá trị cao... chưa chuyển thành vốn đầu tư và kinh
doanh. Khoản tiền kiều hối chuyển về nước hàng năm chừng 0,6 - 1 tỷ USD chưa
được khai thác và sử dụng hợp lý. Từ mục tiêu của sự nghiệp CNH, HĐH mà nghị
quyết Đại hội VIII ghi rõ: “mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành
một nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh... Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”, GDP tăng từ 8-10 lần so với năm
1990.
Để thực hiện được các mục tiêu này, đòi hỏi một lượng vốn đầu tư rất lớn.
Thử làm một phép tính sơ bộ cho giai đoạn 2000-2020: GDP tăng bình quân
8%/năm, từ 30 tỷ USD năm 2000 lên 201,8 tỷ USD vào năm 2020; mức tăng
trưởng GDP của cả thời kỳ 2001-2020 là 171,8 tỷ USD. Với hệ số ICOR là 3 thì
14
trong thời kỳ này nền kinh tế cần đầu tư khoảng 515 tỷ USD. Để huy động được
khối lượng vốn trên cho CNH,HĐH thì phải sử dụng tất cả các kênh huy động có
thể, như vốn từ ngành sản xuất nhà nước, vốn đầu tư của các doanh nghiệp và các
tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế, xã hội,vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và
vốn vay (vay trong nước và nước ngồi), trong đó nguồn vốn vay chiếm một vị trí
hết sức quan trọng. Đồng thời, phải có một cơ chế huy động, phân phối, sử dụng
vốn có hiệu quả. Bởi vì, chỉ có cơ chế huy động, phân phối, sử dụng vốn có hiệu
quả mới bảo toàn được vốn và làm cho đồng vốn sinh sôi nảy nở, để quy mô đầu tư
không ngừng mở rộng qua các chu kỳ sản xuất.
2. Nguyên nhân:
Nguyên nhân của những yếu kém kể trên có nhiều, trong đó trước hết phải kể
đến:
- Trình độ phát triển kinh tế nước ta cịn thấp, mức độ tiền tệ hố nền kinh tế và
các quan hệ tài chính... tiền tệ mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển, mức độ tiết
kiệm trong nước vừa thấp vừa phân tán và ở quy mơ nhỏ.
- Chính sách quản lý tài chính vĩ mơ chưa đồng bộ, chưa đủ khuyến khích mọi
người bỏ vốn đầu tư mở rộng sản xuất, môi trường đầu tư chưa ổn định, còn nhiều
rủi ro cho người bỏ vốn.
- Khả năng kinh doanh sinh lợi cao hơn lãi trả ngân hàng của nhiều doanh
nghiệp còn hạn chế. Điều đó kéo theo các ngân hàng cũng gặp rủi ro khi cho vay,
khó thu hồi vốn, phải sử dụng thế chấp như một công cụ phổ biến. Đây là yếu tố
hạn chế sự vận động và phân bố có hiệu quả các nguồn vốn.
- Khuyến khích đầu tư trong nước đã ban hành nhưng còn thiếu một số văn
bản hướng dẫn cụ thể, một số điều trong luật cần được sửa đổi cho phù hợp.
15
- Thiếu những biện pháp hữu hiệu trong việc huy động nội lực tiềm tàng
trong dân, hầu như mới chỉ dựa vào nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài và vốn đối
ứng rút ra từ ngân sách Chính phủ.
- Điều phối, quản lý và thi hành các nguồn vốn còn hạn chế, gây ra ảnh
hưởng xấu đến môi trường đầu tư và ảnh hưởng đến quỹ tích luỹ vốn.
- Với một khối lượng vốn khổng lồ, vấn đề đặt ra là phải đa dạng hoá các
kênh huy động vốn, trong các kênh thì huy động vốn qua thị trường vốn có một vai
trị quan trọng về khối lượng vốn huy động và đặc biệt là về tính hiệu quả của việc
huy động, phân phối sử dụng vốn. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, thị trường vốn
còn sơ khai, mới đang trong q trình hình thành và chưa hồn thiện, thể hiện: các
nguồn vốn giao lưu có tính chất thị trường chủ yếu là vốn ngắn hạn; hoạt động giao
lưu vốn được thực hiện giữa các pháp nhân kinh tế, chưa có sự tham gia rộng rãi
của các hộ gia đình và dân chúng; giá cả của vốn(lãi suất), tuy phản ánh phần nào
giá cả trên thị trường, nhưng vẫn là cơ chế giá cứng, mang tính áp đặt nhiều hơn là
do sự quyết định của quan hệ cung- cầu về vốn; thị trường vốn mới “đi bằng một
chân”, tức là mới sử dụng công cụ ngân hàng, thiếu hẳn một cơng cụ quan trọng là
thị trường chứng khốn.
- Để huy động vốn đầu tư nhằm phục hồi và duy trì tính bền vững của luồng
vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam trong thời gian tới, rút kinh nghiệm trong 10 năm
qua, ta phải tiến hành khắc phục và đề ra giải pháp hạn chế các nguyên nhân nói
trên.
16
CHƯƠNG III: BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TÍCH LUỸ VỐN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
I./ Huy động vốn từ trong nước
Nhiều chuyên gia quốc tế đã cho rằng Việt Nam muốn phát triển được tốc độ
theo hướng Rồng bay thì phải nỗ lực huy động tích luỹ trong nước, tăng cường nó
có hiệu quả với vốn nước ngoài và đầu tư phải có hiệu quả cao.
1. Đối với nguồn vốn từ ngân sách.
Nhanh chóng triển khai thực hiện khối lượng đầu tư bằng nguồn vốn bổ xung
đợt cuối năm 2000. Đối với kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản năm 2001, các bộ,
ngành, các địa phương ngay trong 2 tháng đầu của quý 1 năm 2001 phải triển khai
xong việc phân giao kế hoạch đến tận cơ sơ theo đúng mục tiêu và cơ cấu đầu tư,
chấm dứt tình trạng vượt khối lượng được giao và xây dựng ngoài kế hoạch, tránh
nợ xây dựng cơ bản quá lớn như hiện nay. Đồng thời đảm bảo các nguồn thu của
ngân sách ổn định, có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cho đầu tư, phát triển và các
yêu cầu cấp bách về xã hội.
2. Đối với nguồn vốn tín dụng nhà nước.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư nhà nước được huy động từ các khoản vay trong
nước và vay ODA nước ngoaì về cho vay lại.
17
Đối với quỹ tiết kiệm bưu điện và hệ thống bảo hiểm xã hội, cần các biện
pháp tích cực, cân đối chặt chẽ chi để có nguồn vốn cho nhà nướcvay cao hơn năm
2000, góp phần thực hiện tốt kế hoạch huy động vốn tín dụng đề ra.
3. Đối với nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp nhà nước.
Nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước được huy động từ khấu hao cơ bản
để lại, từ một phần lợi nhuận sang thuế, từ liên kết, liên doanh và từ các khoản vay
khác của doanh nghiệp. Muốn huy động tốt nguồn vốn này, trước hết cần phải tổ
chức, sắp xếp lại sản xuất, tạo cho khu vực này làm ăn có hiệu quả. Nhanh chóng
triển khai thực hiện các giải pháp sau đây:
Các bộ các nghành và các địa phương khẩn trương rà soát, phan định loại
doanh nghiệp nhà nước hoạt động cơng ích và hoạt động kinh doanh để sắp xếp lại
và định hướng phát triển.
Trong quý 1 năm 2001, các bộ, các nghành, địa phương lên danh mục các
doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần giữ 100% vốntheo tinh thàan nghị
quyết hội nghị trung ương lần thứ tư khố VIII để đẩy nhanh tiến trình cổ phần
hoá, lên phương án sát nhập, khoán kinh doanh, cho thuê hoặc giao bán, giải thể,
phá sản các doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ thua lỗ kéo dài không cổ phần hố
được và nhà nước khơng cần nắm giữ để sử dụng có hiệu quả tài sản của nhà nước.
4. Vốn huy động từ khu vực dân cư
Để có thể huy động tốt nguồn vốn từ khu vực dân cư, phải nhanh chóng triển
khai các giải pháp:
Tiếp tục thực hiện nhất quán và đầy đủ luật doanh nghiệp và các văn bản
hướng dẫn thi hành luật.
18
Chấn chỉnh công tác thanh tra kiểm tra. Xây dựng và vận hành hệ thống thông
tin về doanh nghiệp trên phạm vi tồn quốc, tạo mơi trường thơng tin đầy đủ, tiếp
cận và ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin.
Phát hành trái phiếu, tạo vốn bằng cách mạnh dạn áp dụng các hình thức huy
động cổ phiếu, tín phiếu trong nước, kể cả của cán bơj, cơng nhân.
II./ Huy động vốn từ các nguồn vốn nước ngoài.
Đối với Việt Nam hiện nay về mặt chiến lược “Vốn trong nước là quyết định,
vốn nước ngoài là quan trọng”(7), đây là chính sách huy động vốn đúng đắn,
nhưng về mặt sách lược trong giai đoạn trước mắt khi thu nhập quốc dân theo bình
quân đầu người của Việt Nam ccịn q thấp, khả năng tích tụ và tập trung vốn
trong nước cịn có hạn thì chúng ta cần coi trong cả nguồn vốn trong nước và
nguồn vốn bên ngoài. Do đó phải tận dụng khả năng để thu hút tối đa các nguồn
vốn đầu tư từ bên ngoài.
1. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức – ODA
Đối với các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA, thự hiện các giải pháp tích cực
nhằm giải ngân nhanh nguồn vốn này
Ngay trong quý 1/2001, chính phủ sẽ ban hành Nghị định mới về quản lý và sử
dụng ODA thay thế nghị định 87/CP hiện nay.
Các cơ quan chủ quản phải đảm bảo đủ vốn đối ứng trong kế hoạch ngân sách năm
2001 cho các chương trình và dự án ODA theo tiến độ đã thoả thuận với các nhà
tài trợ để thực hiện các chương trình và dự án trong kế hoạch 2001.
2. Đối với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI
19
- Tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn các điều khoản quy địnhtrong
luật sửa đổi và bổ xung một số điều cho luật đầu tư nước ngoài và Nghị định
24/2001/NĐ-CP
(7): Văn kiện hội nghị lần VII, Ban chấp hành Trung ương 7, trang 87.
- Nâng cao chất lượng quy hoạch đầu tư vì có được quy hoạch đầu tư tốt sẽ
nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của vốn đầu tư.
- Thực hiện tốt chiến lược con người nhằm chuẩn bị đủ đội ngũ cán bộ quản lý,
cơng nhân lành nghề,... để tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư.
- Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động đầu tư.
Trong điều kiện vốn trong nước cịn hạn hẹp, vốn ODA khơng tăng, thậm
chí giảm đi, thì việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp FDI trở nên đặc biệt cấp bách,
nhất là trong lúc các nước láng giềng đang cải thiện môi trường đầu tư, cạnh tranh
quyết liệt với ta. Vì vậy phải căn cứ vào điều kiện thực tế xu hướng của thế giới
nhằm đưa ra hệ thống các giải pháp phù hợp, để khai thác nguồn vốn quan trọng
này, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế trong từng thời kỳ nhằm tiến tới mục
tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
III. Giải pháp khác:
Cùng với việc tăng cường tích luỹ nguồn vốn tiền mặt, chúng ta cịn cần phải
khai thác hữu hiệu các nguồn lực tự nhiên như: vị trí địa lý, khí hậu, đất, TNTN,...
đặc biệt là biết khai thác hiệu quả nguồn lực xã hội như nguồn lao động dồi dào có
trình độ cao, giá rẻ so với các nước trong khu vực. Tận dụng sử dụng hợp lý và có
hiệu quả các nguồn vốn sẽ tiết kiệm được vốn
Tiếp tục tạo lập, củng cố, hoàn thiện các điều kiện cho sự ra đời của thị
trường chứng khoán
20