Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận cao học phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu của quan điểm khách quan vận dụng quan điểm khách quan vào phân tích, nhận định về đường lối đổi mới đất nước do đại hội lần thứ vi (1986) của đản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.83 KB, 19 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................3
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM KHÁCH QUAN
TRONG TRIẾT HỌC.......................................................................................3
1.1. Cơ sở lý luận của quan điểm khách quan................................................3
1.2. Nội dung nguyên tắc khách quan trong triết học.......................................4
1.3. Vận dụng nguyên tắc khách trong hoạt động thực tiễn...........................5
Chương 2 NHẬN ĐỊNH VỀ ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC DO ĐẠI
HỘI LẦN THỨ VI............................................................................................7
2.1. Điều kiện khách quan của đất nước khi tiến hành đổi mới (1986)............7
2.2. Vận dụng quan điểm khách quan trong đổi mới và xây dựng nền kinh tế ở
Việt nam của Đại hội Đảng lần thứ VI .............................................................8
2.3. Những giải pháp và kiến nghị..................................................................13
KẾT LUẬN....................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................17


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền
Nam được hồn tồn giải phóng, đất nước thống nhất, non sông thu về một
mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong niềm vui chiến thắng, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến
tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Chiến tranh kết thúc, sự viện trợ của các nước anh em giảm dần và
chuyển sang hợp tác, trao đổi theo giá thị trường quốc tế. Các thế lực phản
động quốc tế câu kết với nhau chống phá quyết liệt cách mạng nước ta. Chiến
tranh bùng nổ ở hai đầu biên giới. Mỹ tiến hành cuộc bao vây, cấm vận nước


ta ngày càng khắc nghiệt. Sau sự kiện Campuchia, nước ta gặp rất nhiều khó
khăn trong quan hệ đối ngoại, vị thế đất nước bị giảm sút trên trường quốc
tế...
Do những sai lầm trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và quản
lý kinh tế, tình hình kinh tế - xã hội đất nước ngày càng khó khăn: tốc độ tăng
trưởng kinh tế thấp, lạm phát phi mã[33], hiệu quả đầu tư hạn chế, đời sống
Nhân dân không được cải thiện, thậm chí nhiều mặt cịn sa sút hơn... Đất
nước dần lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
Đứng trước thực tiễn đó Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI Đảng và
nhà nước ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Trong đó đổi mới
kinh tế là cơ bản nhất, đóng vai trị then chốt và giữ vị trí chủ đạo. Đồng thời
đổi mới về những chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế cũng mang
tính cấp bách và cần thiết hơn bao giờ hết. Bởi vì giữa đổi mới chính sách
phát triển kinh tế có mối liên hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau không thể tách
rời.

1


Xét trên phương diện triết học, việc đổi mới chính sách kinh tế trong
giai đoạn này là yêu cầu khách quan của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
địi hỏi phải có những thay đổi trong tư duy kinh tế, chính trị để có những
chính sách phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Chính vì việc “Phân
tích cơ sở lý luận và yêu cầu của quan điểm khách quan. Vận dụng quan
điểm khách quan vào phân tích, nhận định về đường lối đổi mới đất nước
do Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng đề ra”. sẽ cho phép ta vận dụng nó
vào mối quan hệ kinh tế và những chính sách của nhà nước. Và giúp cho việc
đổi mới, xây dựng nền kinh tế của nhà nước ta thêm vững chắc, có căn cứ
khoa học để có thể thúc đẩy nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển và giàu
mạnh.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1.

Mục đích nghiên cứu

Làm rõ đường lối đổi mới đất nước do Đại hội lần thứ VI (1986) của
Đảng đề ra là phù hợp với yêu cầu khách quan của đất nước trong giai đoạn
sau khi thống nhất đất nước.
2.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài có nhiệm vụ làm rõ cơ sở lý luận cũng như những yêu cầu của
quan điểm khách quan khi đảng và nhà nước đề ra đường lối đổi mới đất nước
tại Đại hội Đảng lần thứ VI.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1.

Cơ sở lý luận

Đề tài sử dụng cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ trương, đường lối lãnh đạo, xây dựng và phát triển đất nước
theo hướng xã hội chủ nghia.
3.2.

Phương pháp nghiên cứu

2



Để thực hiện việc nghiên cứu của đề tài tác giả đã sử dụng phương
pháp phân tích, tổng hợp, nghiên cứu tài liệu để đưa ra những nhận định, đánh
giá khách quan trong quá trình nghiên cứu.
4. Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo đề tài được trình bày
trong 2 chương và 5 tiết.
NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM KHÁCH QUAN
TRONG TRIẾT HỌC
1.1.

Cơ sở lý luận của quan điểm khách quan

Quan điểm khách quan là giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng. Giữa vật chất và ý thức
có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò quyết định của vật chất đối
với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý thức đối với vật
chất.
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, vật chất là cơ sở, cội
nguồn sản sinh ra ý thức. Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức, quyết
định nội dung và xu hướng phát triển của ý thức. Khơng có vật chất thì khơng
thể có ý thức bởi vì nguồn gốc của ý thức chính là vật chất.
Trong lịch sử triết học, sự kế thừa và phát triển những tư tưởng hợp lý
của người đi trước là xu hướng chung và tất yếu của mỗi trường phái triết
học. Nhưng không phải ngay từ đầu, mà phải đến một giai đoạn nhất định của
lịch sử, xu hướng đó mới được nhận thức. G.V.Ph.Hêgen là người đầu tiên
chỉ ra xu hướng ấy khi trình bày quan niệm của mình về các vịng trịn của
lịch sử triết học. Ông cho rằng triết học hiện đại là kết quả của những nguyên
lý có từ trước đó. Thành thử, trong triết học khơng có một hệ thống nào bị lật

đổ, khơng phải một ngun lý triết học nào đó bị lật đổ, mà chỉ có sự giả định
3


rằng nguyên lý đó là định nghĩa tuyệt đối, cuối cùng bị lật đổ mà thôi. Như
vậy, lịch sử triết học không phải là bảng liệt kê các ý kiến đối lập với chân lý,
mà là sự phát triển cụ thể của triết học trên con đường nhận thức chân lý.
Hêgen viết : "Các hệ thống triết học cũng có sự khác nhau, nhưng sự khác
nhau của chúng (hoàn toàn) không phải lớn như sự khác nhau giữa trắng và
ngọt, xanh và gồ ghề,
chúng đồng nhất với nhau ở chỗ tất cả chúng đều là các học thuyết triết học,
đó chính là cái mà mọi người bỏ qua khi coi chúng như là các học thuyết triết
học, là những quan điểm tách biệt"(1). Phát triển quan điểm này, C.Mác cũng
khẳng định rằng: " Triết học của mỗi thời đại phải có một số vật tư tư tưởng
nào đó do các triết học trước đó truyền lại, làm xuất phát điểm"(2). Trên tinh
thần của quan điểm và yêu cầu đó, chuyên khảo này tập trung tìm hiểu sự kế
thừa và phát triển những tư tưởng về quy luật trong lịch sử triết học phương
Tây, kể từ thời Cổ đại cho tới khi xuất hiện triết học Mác - Lênin. Xuất phát
từ những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin, tác giả cố gắng góp
tiếng nói của mình vào việc làm sáng tỏ thêm một số vấn đề hiện đang còn
tranh luận xung quanh vấn đề quy luật, chằng hạn đó là những vấn đề về các
đặc trưng cơ bản nhất của quy luật xã hội, quy luật trình nhận thức quy luật xã
hội, về con đường nhận thức quy luật xã hội…
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, triết học Mác – Lenin đã rút ra
nguyên tắc phương pháp luận là phải xuất phát trừ thực tế khách quan.
Xuất phát từ thực tế khách quan tức là xuất phát từ tính khách quan của
vật chất, chúng ta phải xuất phát từ bản thân sự vật, không thể tùy tiện gán
cho sự vật cái mà nó khơng có hoặc là nó chưa có. Trong hoạt động thì chúng
ta phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, mọi chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật, mục tiêu, phương hướng thì đều phải xuất phát từ thực

tế khách quan. Tơn trọng vai trị quyết định của đời sống vật chất đối với đời
sống tinh thần của con người.
Như vậy, xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan có ý
nghĩa rất lớn cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
4


Có thể khái quát được rằng bản chất của nguyên tắc khách quan đó là
khi đánh giá, phân tích sự vật hiện tượng nào đó thì chúng ta phải đánh giá
đúng như sự vật thể hiện như vậy. Chúng ta khơng được gán cho sự vật cái
mà nó khơng có. Khi chúng ta bôi hồng hoặc to đen sự vật là chúng ta vi
phạm nguyên tắc khách quan trong đánh giá.
1.2. Nội dung nguyên tắc khách quan trong triết học
Mỗi chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng như chính sự tồn tại của
nó, khơng bị những tếu tố chủ quan chi phối để nhận thức sai lệch, tô hồng
hay bơi đen cho sự vật, cần phải có phương pháp nhận thức thức khoa học và
tuân thủ theo các nguyên tắc phương pháp luận trong triết học để luôn tôn
trọng điều kiện khách quan.
+ Trong mọi hoạt động, khi đề ra phương hướng hoạt động phải căn cứ
vào điều kiện khách quan, quy luật khách quan để đảm bảo hoạt động đạt hiệu
quả và không bị các yếu tố khách quan cản trở.
+ Khi xác định phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động phải căn cứ
vào các quy luật khách quan để lựa chọn phương pháp, cách thức phù hợp với
từng điều kiện khách quan đảm bảo cho sự phát triển của đối tượng tác động
và hoạt động đó theo đúng ý thức của mỗi người.
+ Có kế hoạch điều chỉnh mục tiêu của bản thân cho phù hợp khi điều
kiện khách quan có sự biến đổi để phát huy ý thức của bản thân luôn năng
động và sáng tạo trong mọi điều kiện khách quan.
1.3.


Vận dụng nguyên tắc khách trong hoạt động thực tiễn

+ Tri thức khoa học và vận dụng tri thức khoa học có vai trị vơ cùng
quan trọng trong cuộc sống của mỗi người. Vì tri thức khoa học giúp cho
hành động của mỗi người trở đúng quy luật và có hiệu quả hơn.
+ Ln phát huy tính tích cực của ý thức và tìm tịi cái mới, phương
pháp mới. Vì những yếu tố này giúp ta phát triển bật phá, khác biệt so với
những cá nhân khác luôn hoạt động theo quy luật mà không chịu đổi mới.

5


+ Ln phát huy tính sáng tạo vì sáng tạo mới giúp phát triển trí tuệ và
tạo nên đột phá, biết dự đoán một cách khoa học, phù hợp quy luật khách
quan khi đó chúng ta có thể đối phó với những biến đổi của quy luật khách
quan.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: nguyên tắc khách quan
đòi hỏi con người trong hoạt động thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế
khách quan, lấy khách quan làm cơ sở, phương tiện hoạt động.
Những đường lối, chủ trương, chính sách của phải xuất phát từ thực tế
xã hội trong từng giai đoạn khác nhau. Trong các cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa của Việt Nam trước đây chúng ta luôn xác định điều kiện tất yếu diễn ra
cuộc cách mạng từ đó đề ra chủ trương, đường lối phù hợp. Điều kiện khách
quan như: sự chín muồi của mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội tạo nên
cuộc khủng hoảng về chính trị sâu sắc hay sự vực dậy của nơng dân khi bị áp
bức, bóc lột quá sức chịu đựng…
Hơn 30 năm qua kể từ Đại hội VI của Đảng, công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước đã có sự chuyển biến rõ rệt, vượt qua tình trạng khó khăn,
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh cơng nhiệp hóa hiện đại hóa, thế và lực được
tăng cường, vị thế quốc tế được nâng cao. Nước ta khơng cịn là một nước

nơng nghiệp lạc hậu, kém phát triển. Nước ta từ quan liêu bao cấp đã trở
thành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu VI đã thay đổi cơ bản phương thức phát triển của đất
nước, mở đầu cho hàng loạt những đổi mới toàn diện sau này trên tất cả các
lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, văn hóa, xã hội… Những thành tựu của
cơng cuộc đổi mới của nước ta trong thời gian qua đã và đang tạo ra thế và
lực (mới cả ở bên trong và bên ngoài) để chúng ta bước vào một thời kỳ phát
triển mới. Phát huy tính năng động chủ quan: theo quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng thì ý thức khơng thụ động mà nó có tính động lập, tương
đối với vật chất và nó tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Bản chất của ý thức mang tính năng động, sáng tạo.

6


7


Chương 2
NHẬN ĐỊNH VỀ ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC DO ĐẠI HỘI
LẦN THỨ VI
2.1. Điều kiện khách quan của đất nước khi tiến hành đổi mới
(1986)
Từ năm 1976 Việt nam bước vào giai đoạn hồi phục nền kinh tế sau
chiến tranh. Năm 1978 viện trợ từ Trung quốc bị cắt giảm hồn tồn, và nền
kinh tế nói chung bị lâm vào tình trạng đình đốn nghiêm trọng do thiếu
nguyên liệu. Vì vậy kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1981- 1985 là một kế hoạch
gặp rất nhiều khó khăn. Những cơ sở vật chất cho việc hoạch định rất thiếu
thốn. tuy chỉ số kinh tế thời kỳ 1981- 1986 cho thấy vẫn có một sự tiến bộ nào
đó của nền kinh tế so với thời kỳ 1976- 1980 như tốc độ tăng trưởng trong

lĩnh vực kinh tế chủ chốt cũng như của toàn bộ nền kinh tế đều tăng nhanh.
Nhưng nền kinh tế Việt nam vần là một nền kinh tế lạc hậu lại bị tàn phá nặng
nề sau bao năm chiến tranh " các mặt cân đối lớn về tài nguyên, năng
lượng..." vẫn tồn tại dai dẳng.
Tổng kết sau 10 năm phát triển kể từ năm 1975, lực lượng sản xuất ở
Việt nam vẫn hết sức yếu kém, lao động về cơ bản là thủ công, cơ cấu của nền
kinh tế mất cân đối nghiêm trọng. Đến năm 1984 thu nhập quốc dân bằng tiêu
dùng. Đến năm 1985 tình hình kinh tế lại trở về như cũ. Cơng nghiệp chỉ sử
dụng 30- 50% công suất thiết bị. Những mục tiêu đặt ra quá cao, về xây dựng
cơ bản và phát triển sản xuất vượt quá khả năng của nền kinh tế. Như năm
1975 phấn đấu đạt 21 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu ha khai
hoang, 1 triệu 206 ha rừng mới trồng, 10 triệu tấn than sạch, 2 triệu tấn xi
măng. Đặc biệt là đã đề ra việc xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về cơng
nghiệp nặng và hồn thành cơ bản cải tạo Xã hội chủ nghĩa ở miền Nam.
Nhưng đến hết năm 1980 nhiều chỉ tiêu kinh tế đề ra chỉ đạt khoảng 50- 60%
mức đề ra. Nền kinh tế tăng trưởng rất chậm chạp: tổng sản phẩm xã hội tăng
bình qn 1,5%, cơng nghiệp nặng tăng 2,6%, nơng nghiệp giảm 0,15%. Tình
8


hình này đã gây ra những khó khăn nghiêm trọng trong đời sống, làm nảy
sinh các vấn đề xã hội. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng kinh tế này
như: trình độ nền sản xuất lạc hậu, chiến tranh, thiên tai, tốc độ gia tăng dân
số nhanh.Nhưng nguyên nhân chủ yếu và quan trọng nhất là sai lầm bắt
nguồn từ quản lý kinh tế. Sở dĩ nền công nghiệp hoạt động kém hiệu quả là do
công tác kế hoạch chậm được sửa đổi. Về cơ bản việc lập và giao kế hoạch
vẫn rất gị bó, bao cấp. Ngun tắc xây dựng kế hoạch đi từ dưới lên trên
không được tơn trọng. Kế hoạch hạch tốn trong các doanh nghiệp về thực
chất là khơng đầy đủ. Trên bề mặt thì các doanh nghiệp được giao quyền tự
chủ và tự hạch tốn kinh tế nhưng thực ra thì vẫn bị sức ép của kế hoạch từ

việc quyết định làm cái gì, làm bao nhiêu và thậm chí cả làm như thế nào. Do
đó cái gọi là chế độ hạch tốn kinh tế là khơng có ý nghĩa thực tế. Thêm vào
đó, bộ máy quản lý cồng kềnh, quá nhiều đầu mối, quá nhiều khâu trung gian
làm cho bộ máy quản lý mang nặng tính quan liêu hành chính, khơng có khả
năng tiếp nhận những vấn đề nảy sinh trong thực tế sản xuất kinh doanh. do
đó những kế hoạch được lập khơng mang tính thực tế, khơng ăn khớp với nhu
cầu thực tế, không tôn trọng các quy luật khách quan, quy luật kinh tế. Nói
cách khác, bộ máy quản lý mang tính quan liêu hành chính và cơ chế kế
hoạch kinh tế mang tính mệnh lệnh bao cấp đã làm xơ cứng các hoạt động sản
xuất kinh doanh của các cơ sở. Khơng khuyến khích được tính chủ động tích
cực sáng tạo cũng như vai trò làm chủ của các cơ sở kinh doanh này. Đây là
nguyên nhân quan trọng giải thách tính khơng hiệu quả của sản xuất và kinh
doanh.
2.2. Vận dụng quan điểm khách quan trong đổi mới và xây dựng
nền kinh tế ở Việt nam của Đại hội Đảng lần thứ VI .
Vấn đề nhận thức và vận dụng đúng đắn những quy luật khách quan từ
lâu đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Bài học tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan được nêu ở Đai hội VI của Đảng là một bằng chứng thể
hiện sự quan tâm ấy. Nhưng để có thể tôn trọng và hành động theo quy luật
9


khách quan, chúng ta khơng thể biết cái gì có thể được coi là quy luật trước,
khi đi vào xác định một cách cụ thể những quy luật hiện đang tác động thực
sự ở đất nước ta mà chúng ta phải tơn trọng và làm theo. Nói cách khác, việc
tìm hiểu bản thân phạm trù "quy luật", lịch sử nhận thức nó, cũng như những
vấn đề hiện đang được đạt ra xung quanh phạm trù ấy là bước đi không thể
thiếu được trong quá trình đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
Trước tình hình cuộc khủng hoảng kinh tế ngày càng nghiêm trọng,
Đảng và nhà nước ta đã đi sâu nghiên cứu, phân tích tình hình, lấy ý kiến rộng

rãi của cơ sở, của nhân dân, đặc biệt là nghiên cứu về đổi mới tư duy quản lý
kinh tế. Đại hội lần thứ VI (12- 1986) đã nghiêm khắc tự phê bình về những
chủ trương, chính sách sai lầm mang nặng tính giáo điều chủ quan duy ý chí,
đồng thời đề ra đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước thoát khỏi
khủng hoảng và đi vào thế ổn định và phát triển. Tại Đại hội VI đã đề ra định
hướng lớn và xác định các chủ trương đổi mới. Hình thành nền kinh tế hàng
hố nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế tiểu tư bản, đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế. Vận dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
Trong quá trình thực hiện nghị quyết đại hội Đảng VI, những diễn biến phức
tạp trên thế giới đã ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh tế ở nước ta. Nhưng
Đảng, nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực khắc phục khó khăn, phát huy tích
cực sáng tạo, sự kiên trì tìm tịi khám phá ra con đường đổi mới kinh tế và đến
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã đánh giá tình hình kinh tế Việt Nam
sau hơn bốn năm thực hiện đường lối đổi mới : Công cuộc đổi mới đã đạt
được những thành tựu rất quan trọng. Nền kinh tế có những chuyển biến tích
cực, bước đầu hình thành nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trờng có sự quản lý của Nhà nước. tốc độ lạm phát giảm, so với trước đây
thì độ khủng hoảng đã giảm bớt. Nhưng trong Đại hội VII cũng chỉ ra những
tồn tại lớn cần giải quyết đặc biệt là về kinh tế. Đồng thời cũng tự phê bình về
việc chậm xác định rõ yêu cầu và nội dung đổi mới, còn nhiều sơ hở và lúng
túng trong quản lý điều hành. Đặc biệt trong Đại hội cũng xác định "về quan
10


hệ giữa đổi mới với các chính sách nhằm đổi mới kinh tế thì phải tập trung
trước hết đổi mới kinh tế với các chính sách nhằm đổi mới kinh tế thì phải tập
trung trước hết đổi mới kinh tế để đáp ứng nhữngnhu cầu cấp bách của nhân
dân về đời sống "
Như vậy Đảng và nhà nước ta vận dụng ngày càng đúng đắn phương
pháp luận biện chứng về mối quan giữa vật và chất và ý thức được vào trong

công cuộc đổi mới và xây dựng kinh tế. Đại hội VII sau khi đã phân tích sâu
sắc điểm tình hình quốc tế và trong nước đã vạch ra những đường lối phát
triển kinh tế một cách tổng quát. Xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm để tạo
điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ việc đổi mới các lĩnh vực khác.
Trong công cuộc đổi mới, báo cáo trước Đại hội đã nhận xét: " nét nổi
bật là ở trong Đảng đã có sự đổi mới về tư duy kinh tế với tinh thần độc lập
sáng tạo. Đảng đã cụ thể hoá và phát triển Nghị quyết Đại hội VII bước đầu
hình thành hệ thống các quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi mới
kinh tế ở nước ta. Và hội nghị đại biểu toàn quốc giữa kỳ đã đánh giá thành
tựu to lớn có ý nghĩa hàng đầu là đã khắc phục được một bước rất quan trọng
tình trạng khủng hoảng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá liên tiếp trong
3 năm. Tổng sản phẩm GDP trong nước tăng bình quân 8,2% ( mức đề ra cho
5 năm 1991- 1995 là 5,5 và 6,5%), sản xuất nơng nghiệp phát triển tương đối
tồn diện. Sản lượng lương thực trong 5 năm( 1991- 1995) tăng 26% so với 5
năm trước (1986- 1990). Sản xuất công nghiệp đạt nhịp độ tăng trưởng bình
quân hàng năm 13,3% ( mức kế hoạch đề ra là 7,5- 7,8%). Quan hệ kinh tế
đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá, thị
trường xuất nhập khẩu cũng được củng cố và mở rộng, vốn đầu tư nước ngoài
tăng mạnh, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm 1991- 1995 đạt trên
17 tỷ USD ( mức kế hoạch là 2- 15 tỷ USD), đã tập trung nghiên cứu các vấn
đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế ở nước ta.
Phục vụ cho việc xây dùng cho chính sách phát triển kinh tế một cách cụ thể
và toàn diện với phương châm nhìn thẳng vào thực tế và vận dụng một cách
11


sáng tạo trong quản lý trên cơ sở nắm được các quy luật khách quan, bản chất
và quy luật kinh tế thị trường.
Nhưng trong 5 năm 1991- 1995, Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ
cũng đã vạch ra những mặt yếu kém của nền kinh tế. Đó là, nền kinh tế vẫn

cịn mang tính chất nơng nghiệp lạc hậu, cơng nghiệp còn nhỏ bé, kết cấu hạ
tầng kém phát triển. Tuy nền kinh tế tăng trưởng khá nhưng năng suất, chất
lượng, hiệu quả...của sản phẩm còn kém và rất thấp. Để có những chủ trương
và biện pháp giải quyết, hội nghị đã dự đoán những nhiệm vụ chủ yếu là: thúc
đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố,
thực hiện chính sách nhất quán phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, xây
dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Phải bám vào hiện trạng của nền kinh tế thực tại mà đề ra
những đường lối phát triển kinh tế, phải bồi dưỡng thêm năng lực, phẩm chất
cũng như trí tuệ sáng tạo, phát huy được tính năng động chủ quan của người
quản lý và điều hành kinh tế. Có như vậy mới làm cho nền kinh tế tăng
trưởng, không những khá mà còn vững chắc, ổn định và đem lại hiệu quả kinh
tế cao.
Sau Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, TW Đảng khóa VII
cũng đã tổng kết với sự thành công của công cuộc đổi mới 10 năm(19861995) chóng ta càng có cơ sở để khẳng định rằng công cuộc đổi mới của
Đảng và nhà nước ta là hồn tồn đúng đắn và phù hợp vơí xu thế phát triển
khách quan của lịch sử. Tức là chúng ta thừa nhận giai đoạn phát triển kinh tế
tư bản mà trước đây chúng ta đã phủ định để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Trước đây Đảng đã phạm sai lầm nghiêm trọng là bệnh chủ quan duy ý chí, vi
phạm các quy luật khách quan, nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, đề ra
những chính sách phát triển kinh tế không sát với thực trạng của nền kinh tế
hiện có. có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng và phát triển công nghiệp
nặng, đặt ra những kế hoạch, mục tiêu không thể thực hiện được. thêm vào đó
duy trì q lâu chế độ tập trung quan liêu bao cấp làm cho bộ máy quản lý
12


kinh tế khơng phát huy tính sáng tạo, khơng chủ động thích ứng với những
biến đổi của thị trường làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng
nghiêm trọng. Nhưng chúng ta đã dùa trên cơ sở nghiên cứu tình hình các

nước tư bản chủ nghĩa và các đặc điểm của các nước xã hội chủ nghĩa. Nước
ta đã vận dụng một cách tổng hợp các mặt mạnh và hạn chế những mặt yếu
kém của nước ta để đưa ra những phương châm phát triển kinh tế. Đưa nền
kinh tế của Việt nam sang nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên tinh thần đó, cùng với những kinh nghiệm đã thu được qua những năm
đổi mới. Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII chóng ta cũng đã đi từ thực tế khách
quan, đánh giá những đặc điểm của nền kinh tế, những thuận lợi và khó khăn,
những thời cơ và nguy cơ, Và Đảng cũng đã nhận định thuận lợi và khó khăn,
thời cơ và nguy cơ đan xen lẫn vào nhau. Cho nên chúng ta phải chủ động
nắm thời cơ và thuận lợi để vươn lên phát triển nền kinh tế nhanh và vững
chắc tạo ra thế và lực mới. Đồng thời phải luôn luôn tỉnh táo, phát huy tính
sáng tạo và chủ động để đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ, kể cả những nguy
cơ phức tạp mới nảy sinh, đảm bảo phát triển đúng hướng.
Với công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước khởi xướng và lãnh đạo
ngày càng được cụ thể hoá và đi vào chiều sâu, được nhân dân nhiệt tình
hưởng ứng và hăng hái thực hiện, làm được điều này là do Đảng và Nhà nước
đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo trong việc ban hành, đề ra những chính
sách phát triển kinh tế. Các chính sách này hợp với quy luật và bản chất của
nền kinh tế và trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan. Đồng thời lại có
một đội ngị quản lý kinh tế rất năng động và sáng tạo, có thể thích ứng cao
độ với những biến đổi mới nảy sinh trong nền kinh tế thực tại. Để minh chứng
cho điều này cần phải lấy một ví dụ cụ thể trong nền kinh tế, đó là việc tăng
trưởng của nền sản xuất nơng nghiệp đặc biệt là sản xuất lương thực thực
phẩm trong công cuộc đổi mới. Từ năm 1988 trở về trước đất nước ta vẫn
trong tình trạng triền miên thiếu lương thực, mỗi năm phải nhập khẩu hơn
13


chục vạn tấn lương thực cho nhu cầu trong nước, năm cao nhất phải nhập

khẩu hơn 1 triệu tấn. Trước tình hình đó TW Đảng và một số địa phương đã
đi sâu vào việc tìm hiểu nguyên nhân và biện pháp giải quyết tình trạng này.
Ngun nhân chính của tình trạng này là duy trì quá lâu nền kinh tế hợp tác
xã nông nghiệp, chế độ làm chung và ăn theo công điểm nên đã không phát
huy được tinh thần tự giác cũng như sự sáng tạo trong cán bộ quản lý và trong
công nhân viên. Nhưng rồi Đảng và Nhà nước cũng đã khắc phục được những
tình trạng này đó là nhìn thẳng vào sự thật hành động theo đúng quy luật
khách quan và phát huy tính năng động của người quản lý cho nên sản xuất
nông nghiệp và đặc biệt là sản xuất lương thực đã thực sự khởi sắc, Nhà nước
ta đã ban hành ra những chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế
nông nghiệp. Những chính sách như chỉ thị của Ban bí thư TW Đảng về
khoán sản phẩm đến tay người lao động, thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ
chính trị TW Đảng (5/4/1988) về đổi mới quản lý nông nghiệp đã đi sâu và
quần chúng nhân dân tích cực hưởng ứng và đã phát huy được tính năng động
sáng tạo của nhân dân, lúc này mỗi người dân đều phải tự mình làm việc riêng
để kiếm sống nên sản xuất lương thực liên tục tăng nhanh. Chỉ sau một năm
thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, sản lượng lương thực đạt
21.516.000 tấn, bình qn lương thực tính theo đầu người là 333 kg/người,
xuất khẩu được hơn 1 triệu tấn gạo. Từ những năm đó cho tới nay sản lượng
lương thực vẫn tiếp tục tăng nhanh, năm sau cao hơn năm trước cả về số
lượng lẫn chất lượng. Năm 1994 mặc dù gặp rất nhiều thiên tai cả miền Bắc
và miền Nam, nhưng sản lượng lương thực vẫn đạt 26 triệu tấn ( mức cao
nhất từ trước tới nay), tăng 2,7% so với năm trước, lượng gạo xuất khẩu đạt
hơn 4 triệu tấn. Nhìn chung sản lượng lương thực của cả nước đã tăng từ 17,5
triệu tấn năm 1987 lên 35,7 triệu tấn năm 2000, tức tăng gấp đôi sau 14 năm.
Từ chỗ mỗi năm phải nhập khẩu trên dưới 1 triệu tấn lương thực, đến năm
1989 Việt nam đã bắt đầu xuất khẩu được 1,4 triệu tấn gạo và năm 1999 đã
tăng lên 4,5 triệu tấn và đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Đạt được
14



thành tích tốt trong sản xuất nơng nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực là
một thắng lợi nổi bật trong q trình đổi mới nền kinh tế, góp phần đưa đất
nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và đưa vào thế ổn định phát triển vững
chắc.
2.3. Những giải pháp và kiến nghị.
Đổi mới kinh tế là một sự nghiệp khó khăn và chưa có tiền đề địi hỏi
phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan, và tính năng động, địi hỏi
nhiều cơng phu nghiên cứu để khám phá và tìm tịi ra mơ hình kinh tế thích
hợp với thực tiễn ở Việt Nam. Những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế
thế giới và những biến động ở trong nước đòi hỏi chúng ta phải kiên trì giữ
vững lịng tin, quyết tâm khắc phục khó khăn. Đồng thời chúng ta phải tỉnh
táo thơng minh nhạy bén thích ứng kịp thời với tình hình kinh tế thưòng
xuyên nảy sinh những biến động, cho nên chúng ta cần phải đề ra những
chính sách đường lối phát triển kinh tế hợp với thực tiễn của nền kinh tế.
Muốn vậy các nhà hoạch định kinh tế phải nắm được thực tại khách quan, quy
luật cũng như bản chất của nền kinh tế. Có như vậy các chính sách khi đi vào
thực tiễn mới phát huy được tác dụng một cách tốt nhất và đem lại hiệu quả
cao nhất.
Hơn nữa, người cán bộ kinh tế phải quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết là phương
pháp luận toàn diện và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu đề xuất
và áp dụng các chủ chương chính sách về kinh tế các phương pháp có chế
quản lý tài chính theo tinh thần đổi mới để thúc đẩy nền kinh tế nước ta vượt
qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển trong điều kiện xoá bá quan liêu
bao cấp có nghĩa là địi hỏi người làm cơng tác quản lý, tài chính phải năng
động, sáng tạo, nhạy bén, nắm bắt được thực tế và quy luật vận động phát
triển của nó kết hợp giữa xuất phát từ thực tế khách quan và phát huy sự lỗ
lực chủ quan, kết hợp giữa tình cảm, ý trí với trí tuệ. Trí tuệ ở đây phải đạt
đến trình độ thành thực và nhuần nhuyễn, cần đấu tranh chống chủ nghĩa chủ

15


quan duy ý chí. Tư tưởng nóng vội, phiêu lưu mạo hiểm, bất chấp mọi quy
luật khách quan. Cần rèn luyện tính kiên nhẫn, chăm chỉ, dám làm. Chủ động
sáng tạo ra thời cơ, giành lấy thời cơ để áp dụng các chính sánh cho hợp lý
nhất và mang lại hiệu quả cao nhất . Đây là những điều kiện rất quan trọng và
thiết thực đối với người quản lý giỏi.
Như vậy, hai yêu cầu đặt ra đối với bất kỳ một nhà hoạch định kinh tế
nào trong thời đại ngày nay cũng phải có là: Phải ln ln xuất phát từ thực
tế khách quan và phát huy tính năng động chủ quan. Đây là 2 điều kiện tốt
nhất cần thiết đối với một nhà kinh doanh, một cán bộ quản lý giỏi. Và khi đã
nắm bắt được các quy luật đó và vận dụng nó một cách thiết thực trong nền
kinh tế hiện nay thì sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế một cách rõ rệt, không
những nhanh mà còn mạnh và ổn định vững chắc.

16


KẾT LUẬN
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một sự nghiệp khó khăn và
phức tạp, có thể coi đây như một cuộc kháng chiến trường kỳ của Đảng và
Nhà nước trong thời bình. Với những biến động trong nền kinh tế thế giới và
trong nước đang diễn ra từng ngày từng giê cho nên các cán bộ kinh tế phải
phát huy tính năng động chủ quan, phải kiên trì, giữ vững lịng tin, quyết tâm
khắc phục khó khăn, đề ra những chính sách sát thực tế và bắt nguồn từ bản
chất thực tại của nền kinh tế đồng thời phải tơn trọng các quy luật khách quan,
có thể mớii đem lại kết quả khả quan trong sự nghiệp đổi mới của nền kinh tế.
Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, vận dụng thành thạo quan điểm khách quan trong hoạch định chính

sách kinh tế. Phát huy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ biện chứng giữa nền kinh tế
(vật chất) và các chính sách kinh tế (ý thức) vào trong công cuộc đổi mới
nhằm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt
Nam cất cánh, để từ đó nâng cao hơn nữa vị trí của Việt Nam trên trường
quốc tế.

.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Đảng cộng sản Việt Nam - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên XHCN.
2) Giáo trình triết học Mác - Lênin

, NXB Chính Trị Quốc Gia

3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.

18



×