Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Skkn lớp 2 kể chuyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.25 KB, 7 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Kiên Lương
Tơi ghi tên dưới đây:

Số
TT

01

Họ và
tên

Thị Kiều

Ngày
tháng
năm
sinh

Nơi cơng
tác

Tỷ
Chứ
Trình
lệ(%)đóng
c


độ
góp vào
dan chun
việc tạo ra
h
mơn
sáng kiến

Trường
Tiểu học
16/09/19
Giáo
và Trung
94
viên
học cơ sở
Kiên Bình 2

Đại Học

Phạm

100%

1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số giải
pháp giúp học sinh lớp 2C học tốt phân môn Kể Chuyện ở Trường Tiểu
học và Trung học cơ sở Kiên Bình 2, năm học 2021 - 2022”.
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Thị Kiều, giáo viên Trường
Tiểu học và Trung học cơ sở Kiên Bình 2.
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Được áp dụng trong lĩnh vực

nâng cao chất lượng giáo dục ngành Giáo dục và Đào tạo huyện
Kiên Lương.
4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng
thử: 29/9/2021.
5. Mô tả bản chất của sáng kiến: Về yêu cầu của sáng kiến
thực hiện tốt các nội dung:
Đưa ra một số giải pháp giúp học sinh học tốt phân mơn Kể
Chuyện góp phần nâng cao chất lượng giáo dục môn Tiếng Việt trong
học tập.
5.1. Tình trạng giải pháp đã biết:
5.1.1. Thuận lợi:
Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, sự phối hợp
nhiệt tình của phụ huynh học sinh; sự hỗ trợ nhiệt tình của đồng
nghiệp. Bản thân ln tâm huyết với nghề.
Học sinh chăm ngoan, một số học sinh có ý thức và tích cực
trong học tập.
5.1.2. Khó khăn:


2

Học sinh còn lúng túng, nhiều học sinh kể chuyện chưa đạt yêu
cầu. Học sinh thụ động, ít phát biểu, có chăng cũng chỉ là những học
sinh có năng khiếu hoạt động hoặc các em chỉ trả lời câu hỏi mà
khơng có sự liên kết thành đoạn, diễn đạt lủng củng, chưa biết cách
dùng từ ngữ, liên kết các ý trong một đoạn, một bài…nói đã khó, trình
bày một câu chuyện lưu lốt càng khó hơn.
Phần lớn giáo viên hiện nay chưa áp dụng một cách hiệu quả các
phương pháp dạy học và giáo dục tích cực. Chưa có giải pháp hiệu
quả trong việc tìm hiểu để nắm vững tình hình học sinh.

Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của con
em mình.
Để khắc phục những hạn chế trên, tôi đưa ra sáng kiến: “Một số
giải pháp giúp học sinh lớp 2C học tốt phân môn Kể Chuyện ở Trường
Tiểu học và Trung học cơ sở Kiên Bình 2, năm học 2021 - 2022” như
sau:
5.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
5.2.1. Mục đích của giải pháp
Mơn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh những kiến thức và những
hiểu biết về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá và văn học Việt
Nam.
Phân mơn Kể Chuyện trong chương trình Tiểu học đã đưa vào
những phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp cho việc rèn luyện kĩ
năng nói cho học sinh. Trong giờ kể chuyện, học sinh được phát huy
tối đa khả năng nói của mình, giao lưu với bạn, san sẻ những thu nhận
mới lạ, các em kể được câu chuyện. Ngồi việc vận dụng những hiểu
biết về ngơn ngữ, lý thuyết sản sinh lời nói, cịn giúp học sinh vận
dụng những hiểu biết về văn học, năng lực cảm thụ văn học để lựa
chọn cho mình giọng kể thích hợp.
5.2.2. Nội dung giải pháp:
5.2.2.1. Nắm vững tình hình học sinh:
Đầu năm học, tôi liên hệ với giáo viên chủ nhiệm cũ để nắm
vững tình hình chung của lớp và đặc điểm tâm lý của các em. Tôi dựa
vào kết quả khảo sát để đánh giá mức độ nắm kiến thức tiếng việt và
khả năng kể chuyện của học sinh. Sau đó, tơi tiến hành chia lớp thành
các nhóm nhỏ linh hoạt học cùng nhau, sắp xếp chỗ ngồi hợp lí để
nắm được kết quả thực tế. Từ đó, tôi định hướng đề ra các phương
pháp ở mỗi tiết dạy kể chuyện thích hợp nhằm tạo cho các em hứng
thú, ham học khi trình bày câu chuyện đạt hiệu quả cao.
5.2.2.2. Nghiên cứu kĩ nội dung chương trình Kể Chuyện

trong sách Kết nối tri thức Tiếng Việt lớp 2.
Ở tiểu học nhất là lớp 2, Kể Chuyện là một trong những phân
mơn có tầm quan trọng đặc biệt. Nội dung chương trình phân mơn Kể
Chuyện được sắp xếp một cách khoa học, hợp lí. Sách giáo khoa Tiếng
Việt 2 tập hợp một số truyện để học sinh kể thông qua các kiểu bài
tập kể từ mức độ đơn giản đến phức tạp. Chính vì vậy, trong dạy học


3

phân môn Kể Chuyện ở lớp 2, giáo viên muốn dạy kiến thức mới thì
cần dựa trên cơ sở những kiến thức học sinh đã được học, được biết ở
phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn,... để tổ chức tốt các
hoạt động dạy học, giúp học sinh được trải nghiệm, phân tích, khám
phá, phát hiện và chiếm lĩnh tri thức mới.
Nắm vững nội dung, chương trình phân mơn Kể Chuyện lớp 2.
Điều đó giúp tơi chú trọng nghiên cứu để có cái nhìn tổng thể về nội
dung môn học, các kiến thức và kĩ năng cần đạt của học sinh. Từ đó,
tơi lựa chọn, sử dụng các biện pháp và hình thức dạy học phù hợp
giúp học sinh lớp 2 kể tốt câu chuyện với nhiều dạng bài tập khác
nhau.
5.2.2.3. Xác định mục tiêu, chuẩn kiến thức kỹ năng của
phân môn và của mỗi tiết dạy Kể Chuyện.
Sau khi nắm nội dung chương trình phân mơn Kể Chuyện, tôi xác
định rõ mục tiêu, chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt trong mỗi bài dạy.
Phân môn Kể Chuyện trong chương trình Tiếng Việt ở lớp 2 giúp học
sinh: rèn luyện kĩ năng nói, nghe, đọc, phục vụ cho việc học tập và
giao tiếp. Trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm
trong cơng việc, bồi dưỡng những tình cảm lành mạnh, tốt đẹp.
Trong mỗi tiết dạy, tôi xác định rõ mục tiêu của từng bài dạy,

tiết dạy để có những yêu cầu cụ thể cho học sinh cần phải đạt được
sau khi dạy. Khi đã nắm vững mục tiêu của từng bài dạy, tôi sẽ lựa
chọn được các phương pháp và kĩ thuật, hình thức dạy học tốt nhất,
phù hợp nhất giúp học sinh dễ dàng đạt được mục tiêu của giờ học, có
kĩ năng kể tốt một câu chuyện hay.
Ví dụ: Khi dạy tiết Kể chuyện ở tuần 2, sau bài học, học sinh biết
nhìn tranh kể được 1 - 2 đoạn của câu chuyện theo tranh.
Hay khi dạy tiết Kể chuyện ở tuần 31, sau bài học, học sinh biết
kể lại một câu chuyện về Bác Hồ và nói được cảm xúc của bản thân
khi kể.
5.2.2.4. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích
cực:
Dạy học theo phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tối
đa khả năng làm việc một cách chủ động, tích cực của học sinh dưới
sự hướng dẫn của giáo viên. Nhằm kích thích khả năng tư duy, tự tìm
tịi, khám phá và nhận thức của học sinh. Phương pháp này tạo cho
học sinh đều tham gia tích cực vào q trình dạy học, học sinh được
tiếp cận kiến thức bằng hoạt động, làm việc cá nhân, theo nhóm, trao
đổi chia sẻ với bạn, với giáo viên. Giúp học sinh hứng thú và tự tin hơn
vào khả năng của bản thân. Vì vậy để dạy học giúp phát huy được tính
tích cực cho học sinh, tơi đã vận dụng linh hoạt các phương pháp sau:
5.2.2.4.1. Kết hợp phương pháp quan sát và hỏi đáp:
Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi kể chuyện: Quan sát
trên lớp theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi
chuẩn bị bài ở nhà. Tôi khai thác kỹ tranh ảnh, hình ảnh, tập trung
quan sát đặc điểm nổi bật của đối tượng, mục đích là giúp học sinh
tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên cạnh đó, tơi cũng hướng dẫn học


4


sinh cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận một cách có cảm
xúc về sự vật, hiện tượng. Sau đó, tơi sẽ hướng dẫn các em chọn lọc
từ ngữ phù hợp cho các tranh ảnh đã quan sát được.
5.2.2.4.2. Phương pháp thực hành giao tiếp:
Thông qua phương pháp quan sát, tơi rèn cho học sinh kỹ năng
nói, trình bày miệng bài nói, trước khi kể câu chuyện. Trên cơ sở đó,
tơi điều chỉnh giúp học sinh hồn thiện một câu chuyện. Với phương
pháp này, tôi thường tổ chức cho học sinh luyện nói cá nhân, luyện nói
trong nhóm nhằm giúp các em nắm được các quy tắc sử dụng ngơn
ngữ trong giao tiếp để có thể giao tiếp hiệu quả, rèn luyện và nâng
cao năng lực sử dụng tiếng việt trong các hoạt động tư duy, giao tiếp
và góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng học tập, tạo điều kiện để
học sinh tự hiện thực hóa, tự khẳng định nhân cách cá nhân của mình,
vạch ra tiềm năng sáng tạo của cá nhân, hình thành những phương
châm giá trị và phẩm chất đạo đức cần thiết cho các em.
5.2.2.4.3. Phương pháp đóng vai
Trong q trình dạy học, tơi tổ chức cho học sinh thực hành để
trình bày những suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một vai giả định,
giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề, góc nhìn của người
trong cuộc, tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em quan sát
được từ vai của mình.
Ví dụ: Ở tiết Kể chuyện “Bài 23: Bóp nát quả cam”, học sinh
được hố thân đóng vai nhân vật Trần Quốc Toản và nhà vua đối thoại
được thể hiện như sau:
Trần Quốc Toản: - Cho giặc mượn đường là mất nước. Xin bệ hạ
cho đánh! (Quỳ xuống, tay đặt thanh gươm vào cổ và giọng nói to dứt
khốt).
Nhà vua: - Quốc Toản làm trái phép nước, lẽ ra phải trị tội.
Nhưng còn trẻ mà đã biết lo việc nước, ta có lời khen. ( Giọng nhẹ

nhàng và đặt tay đỡ Quốc Toản đứng lên).
Trên cơ sở đó, học sinh thay đổi ngữ điệu phù hợp diễn biến câu
chuyện và kết hợp cử chỉ, điệu bộ để làm sống động nhân vật trong
văn bản.
5.2.2.4.4. Phương pháp thảo luận nhóm
Với lứa tuổi của các em học sinh lớp 2, việc sử dụng từ ngữ để kể
chuyện còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sinh sử dụng từ ngữ chưa phù
hợp, chưa chính xác. Vì vậy, tơi tiến hành chia nhóm nhỏ để thảo luận
giúp học sinh phát triển khả năng giao tiếp, hợp tác, khả năng thích
ứng và độc lập suy nghĩ. Từ đó giúp các em phát huy thêm tính chủ
động, sáng tạo, cử chỉ, điệu bộ trong câu chuyện và làm cho lời kể lôi
cuốn, thu hút người nghe trở nên hay hơn.
Ví dụ: Sách Kết nối tri thức Tiếng Việt 2, tập 2,“Bài 11: Sự tích cây thì là”. Tơi
tiến hành chia nhóm 4 bạn để các em hoạt động nhóm. Nhóm trưởng sẽ đặt câu hỏi
trong nhóm yêu cầu bạn trả lời và nhận xét. Dựa vào tranh lần lượt kể từng đoạn của câu
chuyện. Qua đó dễ dàng nhận biết được lời thoại, lời dẫn chuyện, sẽ có giọng kể khác
nhau, hiểu được tâm trạng, tính cách của các nhân vật để các em tìm được giọng điệu,
cử chỉ, điệu bộ thích hợp.


5

5.2.2.5. Hướng dẫn học sinh các kĩ năng kể chuyện phù
hợp với từng dạng bài tập.
Kể chuyện theo phương pháp mới, tất cả học sinh trong lớp đều
được rèn kĩ năng nghe, nói dựa vào hệ thống bài tập yêu cầu kể
chuyện ở sách giáo khoa như: Dựa vào tranh, câu gợi ý hoặc tóm tắt
nội dung để kể lại từng đoạn truyện; thêm chi tiết cho truyện; kể mở
đầu, diễn biến và kết thúc câu chuyện theo nhiều cách.
Những yêu cầu trên đã góp phần phát triển kĩ năng quan sát,

phân tích, tổng hợp, so sánh, mơ phỏng, tưởng tượng cho học sinh. Để
giúp học sinh có kĩ năng kể chuyện tốt, tôi luyện tập cho các em tập
kể từ mức độ dễ đến khó ở mỗi tiết học, hướng dẫn học sinh trả lời
miệng từng câu hỏi. Gợi ý cho học sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác
nhau. Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa đúng, cung cấp và
gợi ý để các em có thể kể tự nhiên bằng lời của mình. Tơi chiếu video
những bạn kể hay ở năm học trước nhằm kích thích tinh thần học tập
của học sinh, tạo điều kiện cho cả lớp tham gia kể chuyện.
5.2.2.6. Thực hiện nghiêm túc việc nhận xét, khích lệ và
động viên học sinh.
Sau khi học tiết Kể Chuyện, tôi nhận xét, chỉ cho học sinh thấy
được chỗ sai của mình để tự sửa chữa, rèn kỹ năng kể, giúp các em
nhận ra lỗi sai để điều chỉnh, sửa chữa, hoàn chỉnh kể câu chuyện.
Học sinh lớp 2, chưa biết nhiều về từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong
lời kể của các em sẽ còn lúng túng. Đối với những bài kể có ý hay, tôi
giúp các em trau chuốt thêm cho bài kể được hay hơn. Luôn luôn động
viên, khen thưởng kịp thời cho những em có tiến bộ dù chỉ là tiến bộ
nhỏ nhất, bởi đây chính là động lực để các em cố gắng phấn đấu trong
học tập và rèn luyện.
Ví dụ: Đối với những em kể chuyện tốt, tôi khen thưởng các em
kịp thời khi thì quyển vở hoặc cây viết. Cịn với những em kể chuyện
tiến bộ ít hoặc chưa tiến bộ tôi không vội chê mà dùng những lời khen
để khuyến khích các em như: “Em dùng lời nói chưa đủ ý, cần cố gắng
hơn nhé! Em cần phát huy thêm nhé!…”. Những lời khen này giúp các
em không bị tự ti trước các bạn mà các em cảm thấy ln ln được
giáo viên quan tâm, các em có niềm tin và quyết tâm hơn trong học
tập.
5.2.2.7. Liên hệ chặt chẽ với phụ huynh học sinh
Trong quá trình dạy học nhất là dạy phân môn Kể Chuyện, tôi
thường xuyên liên hệ phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh, nhằm

đề ra giải pháp cụ thể để phụ huynh nắm rõ tình hình học tập của con
em mình, phối hợp với giáo viên đưa ra cách học tập sao cho phù hợp.
Ví dụ: Hàng tháng, tơi truy cập sổ liên lạc điện tử và gửi thông
báo riêng đến từng phụ huynh học sinh như: kể câu chuyện tốt hoặc
kể câu chuyện chưa tốt để phụ huynh học sinh nắm được tình hình
học tập của các em. Ngồi ra, tơi quay video khi các em thực hiện kể
câu chuyện gửi vào Zalo, Facebook cho phụ huynh xem. Nhờ vậy, tôi
nhận được những phản hồi tích cực từ phía phụ huynh học sinh.


6

5.2.2.8. Tổ chức một số trò chơi nhằm tạo hứng thú trong
học tập.
Trong mỗi tiết kể chuyện, tôi dành khoảng 2-3 phút để cho các
em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi một số trò chơi học tập. Các
trò chơi có nội dung lý thú và bổ ích phù hợp với việc nhận thức của
các em. Thông qua các trò chơi các em sẽ lĩnh hội những tri thức một
cách dễ dàng, củng cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo
cho các em niềm say mê, hứng thú trong tiết dạy kể chuyện, vừa giúp
các em thoải mái sau giờ học căng thẳng. Do đó học sinh được thực
hành luyện tập củng cố mở rộng kiến thức kỹ năng đã học, chất lượng
dạy học sẽ ngày một nâng cao.
Một số trị chơi bản thân tơi thường sử dụng như: Gọi thuyền,
tiếp sức, ai tinh mắt, ô chữ bí mật, trạng nguyên trẻ tuổi,...
5.3. Khả năng áp dụng của giải pháp:
Giải pháp của tôi đã áp dụng thành cơng ở lớp 2C và có thể áp
dụng được với các khối khác trong trường Tiểu học và Trung học cơ sở
Kiên Bình 2. Sáng kiến có thể nhân rộng ra các trường tiểu học trong
toàn huyện, tỉnh.

5.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu
được do áp dụng giải pháp:
Sau khi áp dụng các giải pháp nêu trên, tôi nhận thấy học sinh
lớp tôi rất hứng thú học Tiếng Việt, nhất là học về tiết học “Kể
Chuyện”. Các em đã mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài, ham
học, tự tin, chất lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Khi kể
chuyện, các em đã biết cách diễn đạt rõ ràng, kể to, kể lưu loát, biết
kết hợp chỉ tranh minh họa, thay đổi ngữ điệu phù hợp diễn biến câu
chuyện và kết hợp cử chỉ, điệu bộ để làm sống động nhân vật trong
văn bản. Đối với giáo viên góp phần đổi mới phương pháp trong giảng
dạy và có điều kiện thuận lợi áp dụng giải pháp mới vào hoạt động
giáo dục, tiết kiệm được nhiều thời gian khi nhận xét, công sức cả vật chất lẫn tinh
thần trong việc đánh giá học sinh và đặc biệt có nhiều thời gian trong việc nghiên cứu
kiến thức mới cho học sinh.
Qua thời gian áp dụng giảng dạy lớp 2C, hiệu quả đạt được cụ
thể như sau:
THHS

Kết quả khảo sát
Tốt

Thời gian
28
Đầu năm
Cuối
năm

Hoàn thành

Chưa hồn thành


TS

Tỉ lệ
(%)

TS

Tỉ lệ
(%)

TS

Tỉ lệ
(%)

5

17,8%

19

67,8%

4

14,2%

15


53,6%

13

46,4%

0

0%

5.5. Tài liệu kèm theo gồm:(khơng có).
6. Những thơng tin cần được bảo mật: (khơng có).


7

7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến được áp dụng trong điều kiện bình thường.
8. Danh sách những người đã tham gia áp dụng sáng kiến
lần đầu: (khơng có).
Tơi xin cam đoan mọi thơng tin nêu trong đơn là trung thực,
đúng sự thật và hoàn tồn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
2022

Kiên Bình, ngày 20 tháng 6 năm
Người nộp đơn

Thị Kiều




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×