Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro của hoạt động cho vay ngoại tệ tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 103 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG





NGUYỄN THỊ MINH HẰNG




MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO
TÍN DỤNG CỦA HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGOẠI TỆ TẠI
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN
NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM

Chuyên ngành : Thƣơng mại
Mã số : 60.34.10



LUẬN VĂN THẠC SỸ THƢƠNG MẠI



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ LƢƠNG BÌNH



HÀ NỘI – 2010


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Ngoại
Thương Hà Nội, đặc biệt là Quý thầy cô trong Khoa Sau Đại học đã tận tình dạy
bảo và tạo điều kiện để tôi học tập và hoàn thành tốt khóa học.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Lương Bình đã dành nhiều
thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt
nghiệp.
Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn Ban lãnh đạo và các anh, chị cán bộ thuộc
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam – Hội sở chính đã hướng dẫn và giúp
tôi có tư liệu để viết luận văn.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng, bằng tất cả sự nhiệt tình và năng lực của
mình để hoàn thiện luận văn, tuy nhiên luận văn vẫn không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những đóng góp quý báu của Quý thầy cô và các
bạn.
Xin trân trọng cảm ơn./.

Hà Nội, tháng 4 năm 2010



Nguyễn Thị Minh Hằng


MỤC LỤC


LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 4
1.1 TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 4
1.1.1 KHỎI NIệM TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 4
1.1.2 PHÂN LOẠI TÍN DỤNG 5
1.2 RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 7
1.2.1 ĐỊNH NGHĨA RỦI RO 7
1.2.2 PHÂN LOẠI RỦI RO TÍN DỤNG 10
1.2.3 RỦI RO TÍN DỤNG THEO HIỆP ĐỊNH QUỐC TẾ (BASEL I, II) 12
1.2.4 RỦI RO TÍN DỤNG THEO QUY ĐỊNH CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC
VIỆT NAM 15
1.2.5 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
18
1.3. SỰ CẦN THIẾT CỦA HOẠT ĐỘNG CHO VAY BẰNG NGOẠI TỆ
TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ HIỆN NAY 23
1.3.1. ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ 23
1.3.2. ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG 24
1.3.3. ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 25
1.4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
VIỆT NAM TRONG VIỆC HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG NGOẠI TỆ 27
1.4.2 LINH HOẠT TRONG THANH TOÁN LÃI VAY 28


1.4.3 SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ NGĂN NGỪA RỦI RO TỶ GIÁ 28

1.4.4 KẾT HỢP HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VỚI BẢO HIỂM TÍN DỤNG 29
1.4.5 SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG 30
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGOẠI TỆ CỦA
NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM (VIETCOMBANK) 32
2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG
VIỆT NAM 32
2.1.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 32
2.1.2 QUY TRÌNH CẤP TÍN DỤNG TẠI VIETCOMBANK: 33
2.1.3 QUY TRÌNH QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI VIETCOMBANK 37
2.2. TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TỚI
HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGOẠI TỆ TẠI VIETCOMBANK 45
2.2.1. TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC 45
2.2.2. TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC 47
2.3. THỰC TRẠNG CHO VAY NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG TMCP
NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM
……………………………………………………………………………48
2.3.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NÓI CHUNG TạI
VIETCOMBANK 48
2.3.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY BẰNG NGOẠI TỆ TạI
VIETCOMBANK 52
2.4. NHỮNG RỦI RO NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM
THƢỜNG GẶP TRONG HOạT độNG CHO VAY NGOẠI TỆ 55
2.4.1. RỦI RO KHÁCH QUAN 55
2.4.2. RỦI RO TỪ PHÍA NGÂN HÀNG 60
2.4.3. RỦI RO TỪ PHÍA KHÁCH HÀNG 62


2.4.4. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA RỦI RO TÍN DỤNG NGOẠI TỆ
ĐƢỢC SỬ DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM

TRONG THỜI GIAN QUA 66
2.5. VÀI NÉT ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOạT độNG CHO VAY NGOẠI TỆ
TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM 68
2.5.1. KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƢỢC 68
2.5.2. TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN 69
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG TÍN DỤNG NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI
THƢƠNG VIỆT NAM 72
3.1. MỤC TIÊU, ĐỊNH HƢỚNG VÀ CHIẾN LƢỢC PHÁT TRIỂN CỦA
NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM TRONG TIẾN
TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ. 72
3.1.1. MỤC TIÊU, ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN 72
3.1.2. CHIẾN LƢỢC PHÁT TRIỂN 74
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG TÍN DỤNG KHI CHO VAY NGOẠI TỆ CỦA NGÂN
HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM 76
3.2.1. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TỪ PHÍA NGÂN HÀNG 76
3.2.2. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TỪ PHÍA KHÁCH HÀNG 85

3.3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ 86
3.3.1. VỚI CHÍNH PHỦ, NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC 86
3.3.2. VỚI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM 88
KẾT LUẬN 91



DANH MỤC VIẾT TẮT

ACB
Ngân hàng Thương mại cổ phần á Châu

BIDV
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
CIC
Trung tâm Thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước
CTCP
Công ty cổ phần
EUR
Đồng Euro
FDI
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
GHTD
Giới hạn tín dụng
HĐTD
Hội đồng tín dụng
HSBC
Ngân hàng Hồng Kong Thượng Hải
IAS
Chuẩn mực kế toán quốc tế
KH
Khách hàng
L/C
Thư tín dụng
Libor
Lãi suất bình quân của Hiệp hội các ngân hàng tại London
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
QLRR
Quản lý rủi ro

Sibor
Lãi suất bình quân của Hiệp hội các ngân hàng tại
Singapore
TMCP
Thương mại Cổ phần
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TT
Thanh toán chuyển tiền
TW
Trung ương
USD
Đồng Đô la Mỹ
Vietcombank
Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam
VND
Đồng Việt Nam



DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Lãi suất Đồng Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2009 20
Bảng 2.1: Thẩm quyền phê duyệt tín dụng tại Vietcombank 36
Bảng 2.2: Các cấp thẩm quyền tín dụng tại Vietcombank 37
Bảng 2.3: Phân loại tín dụng theo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ 41
Bảng 2.4: Dư nợ tín dụng của Vietcombank từ 2007 – 2009 45
Bảng 2.5: Vòng quay vốn tín dụng ngoại tệ trong giai đoạn 2007 – 2009 50







DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Hình 2.1: Biến động tỷ giá liên ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước năm 2009 54
Hình 2.2: Biến động tỷ giá mua vào, bán ra USD/VND của Vietcombank
năm 2009 55


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
tham gia sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Chỉ trong vòng 10 năm qua, kinh tế Việt
Nam đã có bước phát triển vượt bậc với tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) trung bình ở mức 7,3%/năm. Để đạt được thành tựu này và các kế hoạch
phát triển kinh tế trong các năm tiếp theo, nền kinh tế cần phải có nguồn vốn lớn,
dồi dào. Ở Việt Nam, nguồn vốn này thường được huy động thông qua hệ thống
ngân hàng.
Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị
trường là một hoạt động rất nhạy cảm, mọi biến động trong nền kinh tế đều có tác
động trực tiếp đến hoạt động ngân hàng. Từ cuối năm 2008 đến nay, khủng hoảng
tài chính toàn cầu bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng thứ cấp nhà ở tại Mỹ đã tác
động lớn đến hoạt động kinh tế của hàng loạt quốc gia trên thế giới. Hệ thống ngân
hàng Việt Nam tuy không bị ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu, nhưng nhiều chỉ tiêu kinh tế vĩ mô đã giảm sút, đó là tốc độ tăng trưởng
kinh tế, kim ngạch xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, khách quốc tế, kiều
hối… đều suy giảm nghiêm trọng.
Cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, xu hướng sát nhập và hợp nhất các ngân

hàng đã đặt ra thách thức mới cho nền kinh tế và thị trường tài chính Việt Nam, đó
là việc hiện đại hóa hoạt động ngân hàng, quản lý chặt chẽ rủi ro tín dụng…
Trong hoạt động ngân hàng thì hoạt động cho vay (tín dụng) là nghiệp vụ có
ý nghĩa quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng, bởi lợi
nhuận từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu nhập của các
ngân hàng thương mại. Hoạt động cho vay ngoại tệ là một trong hai loại hình cho
vay chủ yếu của ngân hàng khi xét về loại tiền vay. Tuy nhiên đây cũng là hình thức
cho vay có rủi ro cao nhất vì ngoài những rủi ro thông thường, cho vay vốn bằng
ngoại tệ còn gặp rủi ro do biến động tỷ giá từ khi thẩm định, giải ngân khoản vay
cũng như tới khi thu hồi nợ.


Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng
tài chính bắt nguồn từ Mỹ, hạn chế rủi ro của hoạt động cho vay ngoại tệ là mối
quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý ngân hàng cũng như những nhà nghiên cứu.
Trên cơ sở thực tiễn đó, tác giả đã chọn vấn đề “Một số giải pháp nhằm hạn
chế rủi ro tín dụng của hoạt động cho vay ngoại tệ tại Ngân hàng Thƣơng mại cổ
phần Ngoại Thƣơng Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu:
Tại Việt Nam đã có nhiều đề tài nghiên cứu về rủi ro của hoạt động tín dụng.
Có thể kể tên các đề tài như “Giải pháp nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng
của các ngân hàng thương mại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng năm
2006 hay “Quản lý rủi ro tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Thương mại cổ
phần Ngoại Thương Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” của tác giả Nguyễn Thị
Hồng Vân năm 2009 Các luận án này chủ yếu tập trung nghiên cứu những rủi ro
tín dụng nói chung hay rủi ro tín dụng trong hoạt động cụ thể như cho vay trung và
dài hạn Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào đi sâu nghiên cứu rủi ro khi cho vay
ngoại tệ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần (TMCP) Ngoại Thương Việt Nam.
Xuất phát từ những góc độ tiếp cận, phân tích trên, đề tài “Một số giải pháp nhằm
hạn chế rủi ro tín dụng của hoạt động cho vay ngoại tệ tại Ngân hàng Thƣơng mại

cổ phần Ngoại Thƣơng Việt Nam” trên cơ sở nghiên cứu thực trạng hoạt động tín
dụng ngoại tệ của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam đã được lựa chọn.
3. Mục đích nghiên cứu:
Hệ thống hoá cơ sở lý luận về hoạt động tín dụng và cho vay bằng ngoại tệ
của các ngân hàng thương mại.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng cho vay ngoại tệ tại Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương Việt Nam và những rủi ro gặp phải.
Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động cho
vay ngoại tệ tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam.




4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động cho vay ngoại tệ đối với các
tổ chức kinh tế tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam mà không đi sâu
nghiên cứu hoạt động cấp tín dụng ngoại tệ cho các đối tượng cá nhân và tổ chức tín
dụng khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã kết hợp hệ thống hoá tài liệu với các
phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm 3 chương:
Chƣơng I: Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng
ngân hàng
Chƣơng II: Thực trạng của hoạt động cho vay ngoại tệ tại Ngân hàng TMCP Ngoại
Thương Việt Nam (Vietcombank)
Chƣơng III: Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng ngoại
tệ của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam















CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1 Tổng quan về tín dụng ngân hàng
1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là hoạt động kinh tế ra đời từ rất sớm dưới hình thức cho vay nặng
lãi trong điều kiện sản xuất thấp kém. Cùng với sự phát triển của xã hội, tín dụng đã
có sự phát triển vượt bậc. Đến nay, hoạt động tín dụng là thành phần không thể
thiếu trong sự phát triển kinh tế của các tổ chức cũng như các quốc gia.
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức kinh tế hoạt động độc lập và có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau thông qua quá trình trao đổi mua bán để hình thành hệ
thống kinh tế thống nhất. Dù ở hình thái kinh tế nào (phong kiến, tư bản chủ nghĩa
hay xã hội chủ nghĩa), mỗi tổ chức kinh tế cũng có lúc thừa, lúc thiếu vốn. Tuy
nhiên khi đứng trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì tại một thời điểm
nhất định sẽ có hiện tượng một nhóm tổ chức kinh tế có vốn tạm thời chưa sử dụng
đến trong khi nhóm tổ chức kinh tế khác lại có nhu cầu bổ sung vốn để đầu tư, mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh Đây là hiện tượng khách quan tồn tại ngay

trong quá trình sản xuất xã hội, đồng thời nó cũng là mâu thuẫn trong quá trình tuần
hoàn, chu chuyển vốn. Điều này đòi hỏi tín dụng là cầu nối giữa nơi thừa và nơi
thiếu vốn.
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh credo với ý nghĩa là sự tin tưởng,
tín nhiệm. Tín dụng được hiểu là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa
bên cho vay (ngân hàng hoặc các định chế tài chính như công ty tài chính, công ty
bảo hiểm, quỹ đầu tư ) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác),
trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn
nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc


và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán [13, tr.20]. Như vậy bản chất của tín
dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả.
Theo định nghĩa trong từ điển về kinh tế học, tín dụng ngân hàng là một
khoản tiền mà ngân hàng cấp cho khách hàng của mình dưới dạng các khoản vay
hay các khoản thấu chi [39].
Trong nền kinh tế thị trường, phần lớn nguồn tiền được giao dịch thông qua
ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn của các tổ chức, cá nhân trong ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn. Theo Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm 2004, “cấp tín
dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với
nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,
bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác” [30].
Như vậy, có thể hiểu tín dụng ngân hàng là hoạt động mà ngân hàng cấp tín
dụng cho khách hàng dưới các hình thức cho vay, bảo lãnh, chiết khấu thương phiếu
và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
1.1.2 Phân loại tín dụng
Tùy theo các căn cứ phân chia khác nhau mà tín dụng được chia thành các
loại chính như sau:
Căn cứ vào thời hạn cho vay:

Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay có thời hạn đến 12 tháng. Loại hình
cho vay này thường được các doanh nghiệp sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu
động trong quá trình sản xuất kinh doanh, các cá nhân sử dụng để đáp ứng các nhu
cầu chi tiêu ngắn hạn của mình.
Cho vay trung hạn: là cho vay với thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm. Hình
thức vay vốn này được áp dụng với cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay
cá nhân, cho vay trả góp
Cho vay dài hạn: là loại hình cho vay có thời hạn trên 5 năm, thời hạn tối đa
có thể lên đến 20-30 năm, trong một số trường hợp cá biệt có thể lên đến 40 năm.
Loại hình cho vay này thường được áp dụng với cho vay đầu tư các dự án có thời


hạn dài như xây dựng các công trình thủy điện, xây dựng mở rộng nhà xưởng, cho
vay mua nhà
Căn cứ vào mục đích cho vay:
Cho vay bất động sản: là loại hình cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản như nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại, dịch vụ.
Cho vay chứng khoán: là loại hình cho vay nhằm mục đích đầu tư (mua, bán,
kinh doanh) chứng khoán.
Cho vay xuất khẩu: cho vay vốn để tiến hành các hoạt động thu mua vật tư,
hàng hóa nội địa, sơ chế các sản phẩm nguyên vật liệu thô nhằm mục đích xuất
khẩu hàng hóa ra sang các thị trường khác.
Cho vay nhập khẩu: là loại hình cho vay (thường là vay ngoại tệ) để nhập
khẩu hàng hóa, máy móc thiết bị, công cụ, dụng cụ nhằm mục đích tiêu dùng, mua
bán kiếm lời, phục vụ quá trình hiện đại hóa cơ sở vật chất
Cho vay khác: cho vay nông nghiệp (cho vay để trang trải các chi phí sản
xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên
liệu ), cho vay công nghiệp
Căn cứ vào đối tƣợng cho vay:

Cho vay doanh nghiệp: đối tượng vay vốn là các doanh nghiệp, bao gồm
nhưng không giới hạn bởi các doanh nghiệp nhà nước, cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cho vay cá nhân: là loại hình cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm các vật dụng đắt tiền (ô tô, nhà cửa ), trang trải các chi phí thông thường
của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng,
công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng và các
định chế tài chính khác như hình thức cho vay qua đêm, cho vay kỳ hạn.
Căn cứ vào loại tiền cho vay:


Cho vay đồng nội tệ: là việc người đi vay nhận nợ bằng đồng Việt Nam. Đây
là hình thức vay vốn thường chiếm tỷ trọng lớn tại các ngân hàng thương mại.
Cho vay ngoại tệ: là hình thức vay vốn mà người đi vay nhận nợ bằng các
loại ngoại tệ như đồng Bảng Anh, đồng Đô la Mỹ, đồng Euro, Yên Nhật
Căn cứ vào các biện pháp bảo đảm tiền vay:
Cho vay có bảo đảm bằng tài sản: bất động sản (quyền sử dụng đất ở, nhà ở,
công trình xây dựng, các tài sản gắn liền với đất đai, công trình xây dựng), động sản
(dây chuyền máy móc thiết bị, ô tô, ), các giấy tờ có giá (trái phiếu, cổ phiếu, kỳ
phiếu, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm do các tổ chức tín dụng phát
hành), một số quyền và lợi ích (quyền góp vốn mua cổ phần, quyền thụ hưởng bảo
hiểm, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp ), tài sản hình thành từ vốn vay.
Tài sản này có thể là tài sản của bên vay, hoặc tài sản của bên thứ ba [19].
Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản (tín chấp): là hình thức vay vốn mà
bên vay không cần thế chấp tài sản của mình khi vay vốn. Ngân hàng thường chỉ sử
dụng nghiệp vụ vay tín chấp với các khách hàng truyền thống, có lịch sử hoạt động
và giao dịch tốt với ngân hàng, khả năng trả nợ tốt, luôn vay trả sòng phẳng, hoạt
động kinh doanh có lãi, có tình hình tài chính lành mạnh (các tập đoàn, tổng công ty
nhà nước có nguồn thu, lợi nhuận cao, được sự hỗ trợ mạnh mẽ của Nhà nước; các

khách hàng có thu nhập cao, được trả lương qua hệ thống ngân hàng ) [22]. Trong
một số trường hợp nhất định, các ngân hàng thương mại có thể cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của Chính phủ, bảo lãnh Bộ Tài Chính nhằm
thực hiện mục tiêu của Chính phủ, các dự án trọng điểm quốc gia,
1.2 Rủi ro tín dụng ngân hàng
1.2.1 Định nghĩa rủi ro
Từ trước đến nay có rất nhiều khái niệm về rủi ro nhưng đơn giản nhất có thể
hiểu rủi ro là khả năng gặp nguy hiểm, tổn thất một cách khách quan, ngoài ý muốn
của con người và không thể lường trước được. Trong kinh doanh, rủi ro được hiểu
là những thiệt hại mà các doanh nghiệp và các cá nhân phải gánh chịu trong lĩnh
vực kinh doanh của mình.


Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là khả năng xảy ra các sự kiện chưa chắc
chắn trong tương lai mà có thể gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận và nguồn
vốn của ngân hàng, khiến ngân hàng không đạt mục tiêu và/hoặc gây tổn thất cho
ngân hàng [36]. Khi gặp rủi ro trong kinh doanh, ngân hàng sẽ bị tổn thất về tài sản,
lợi nhuận thực tế bị giảm sút so với dự kiến, hoặc phải bỏ ra một khoản chi phí nhất
định để khắc phục.
Trong lĩnh vực ngân hàng, khái niệm rủi ro được chia làm ba loại rủi ro
chính, đó là rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động.
Rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là một hiện tượng thường gặp ở bất kỳ một ngân hàng thương
mại nào. Rủi ro tín dụng là rủi ro trong hoạt động cho vay, phát sinh khi một bên
không thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc nghĩa vụ theo hợp đồng với ngân hàng
(không thực hiện thanh toán nợ dù cho đó là khoản nợ gốc hay nợ lãi khi khoản nợ
đó đến hạn) [37]. Ngoài ra, cũng có thể hiểu rủi ro tín dụng là những thiệt hại, mất
mát mà ngân hàng phải gánh chịu do người vay vốn hay người sử dụng vốn không
trả đúng hạn và không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng tín dụng vì
bất kể lý do gì.

Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ngày
22/04/2005, rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng được
hiểu là “khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết”. [17, tr.3]
Rủi ro tín dụng ngân hàng thường gắn liền với rủi ro của khách hàng. Tuy
nhiên, rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn ở các hoạt
động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng như bảo lãnh, cam kết, chấp nhận
thanh toán trong lĩnh vực tài trợ thương mại, cho vay trên thị trường liên ngân hàng,
tín dụng thuê mua,
Rủi ro thị trƣờng: là thuật ngữ dùng chung cho nhóm các rủi ro: rủi ro lãi
suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tỷ giá.


Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra tổn thất khi lãi suất thị trường biến động
làm giảm thu nhập từ lãi và các hoạt động khác của ngân hàng [26]. Nói cách khác,
rủi ro về lãi suất chính là những thiệt hại mà ngân hàng phải gánh chịu do lãi suất
huy động cao hơn lãi suất cho vay.
Rủi ro thanh khoản thường phát sinh khi ngân hàng không có đủ tiền đáp
ứng các khoản phải trả đến hạn thanh toán, hoặc vi phạm các quy định về tỷ lệ an
toàn thanh khoản theo quy định, có xu hướng huy động vốn ngắn hạn để cho vay
trung và dài hạn. Rủi ro này thường là loại rủi ro thường gặp nhất đối với các ngân
hàng thương mại và có ảnh hưởng đến sự sống còn không chỉ của ngân hàng gặp rủi
ro, mà còn có khả năng gây ra hiệu ứng domino với các ngân hàng khác.
Rủi ro tỷ giá (rủi ro hối đoái) phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn dẫn
đến sự biến động về giá trị tiền tệ của các khoản ngoại hối mà ngân hàng hiện đang
nắm giữ. Rủi ro tỷ giá là sự sụt giảm giá trị của tài sản có hay sự tăng thêm giá trị
của các khoản nợ phải trả do sự biến động về tỷ giá ngoại tệ theo chiều hướng bất
lợi dẫn đến thua lỗ trong giao dịch và làm giảm thu nhập dự tính của ngân hàng. Bất
kỳ mọi hoạt động kinh doanh ngoại tệ nào tạo ra một trạng thái ngoại tệ mở đều có

khả năng chịu rủi ro khi tỷ giá thay đổi. Rủi ro này thường phát sinh trong hoạt
động kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế, huy động vốn và cho vay ngoại tệ.
Rủi ro hoạt động: rủi ro phát sinh từ cách thức ngân hàng điều hành hoạt
động của mình. Rủi ro hoạt động thường xảy ra do các nguyên nhân phi tài chính
gây ra như hệ thống thông tin không đầy đủ, xảy ra sự cố về hệ thống mạng lõi
(core banking) (rủi ro vận hành); cán bộ vi phạm các quy định của ngân hàng (gian
lận, giả mạo, tham ô ) (rủi ro do con người); rủi ro do hệ thống tổ chức và cơ chế
quản lý đem lại (rủi ro tổ chức) như sự phân công trách nhiệm chưa rõ ràng giữa các
bộ phận trong ngân hàng dẫn tới các rủi ro như hạn mức kinh doanh giữa ngân hàng
và khách hàng có thể bị vượt, các hợp đồng không được thực hiện đúng hạn, không
đánh giá được mức độ rủi ro, trạng thái ngoại tệ vượt mức an toàn cho phép


Dù rủi ro xảy ra dưới bất kỳ hình thái nào, ngân hàng đều bị thiệt hại như
mất vốn, chậm trả hoặc thậm chí đánh mất khách hàng tiềm năng. Do đó, các ngân
hàng cần có một chính sách quản trị rủi ro có hiệu quả.
Quản lý rủi ro tín dụng:
Trong tất cả các loại hình rủi ro nêu trên, rủi ro trong hoạt động tín dụng là
một vấn đề hết sức rộng lớn và phức tạp trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
hiện nay. Việc nâng cao tính khả thi của chiến lược phòng chống và quản lý rủi ro
có một ý nghĩa quan trọng đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Là một bộ phận quan trọng trong quản trị ngân hàng, quản lý rủi ro tín dụng
được hiểu là quá trình sử dụng các biện pháp, công cụ, chính sách khác nhau để
nhận diện, đánh giá, đo lường, giám sát những rủi ro phát sinh từ các nguyên nhân
phát sinh rủi ro; từ đó đề ra các giải pháp ngăn ngừa hoặc giảm thiểu rủi ro [37].
Mục tiêu của quản trị rủi ro là phải xác định, đo lường và kiểm soát rủi ro ở
mức độ có thể chấp nhận được. Mức độ chấp nhận rủi ro phải được xác định cụ thể
trong từng thời kỳ, phù hợp với mỗi loại rủi ro và đảm bảo không vượt quá khả
năng về vốn và tài chính của ngân hàng. Từ đó có thể bảo vệ ngân hàng khỏi những
mất mát không dự tính trước; bảo đảm mức độ rủi ro không vượt quá khả năng về

vốn, tài chính của ngân hàng; bảo đảm không ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh
và tồn tại của ngân hàng.
1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng được chia làm hai loại: rủi ro đọng vốn và rủi ro mất vốn.
Rủi ro đọng vốn: là những rủi ro xảy ra khi ngân hàng phải cơ cấu lại thời
hạn trả nợ, hay để quá hạn các khoản nợ đến hạn trả của khách hàng. Việc nợ quá
hạn, lãi treo phát sinh sẽ làm gia tăng các khoản chi phí cho việc đi đòi nợ, tăng chi
phí hoạt động kinh doanh nên sẽ ảnh hưởng xấu đến hiệu quả, làm mất cân bằng các
cân đối tài chính, ảnh hưởng xấu đến tính chủ động trong kế hoạch nguồn vốn của
ngân hàng.


Rủi ro đọng vốn được đo lường bằng chỉ tiêu tỷ trọng nợ quá hạn. Tỷ trọng
nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm của nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Tỷ lệ nợ quá hạn
được đo lường bởi công thức:
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ quá hạn
x 100%
Tổng dư nợ
Các ngân hàng xem chỉ tiêu này như một chỉ tiêu cơ bản trong việc đánh giá
chất lượng hoạt động tín dụng. Chỉ tiêu tỷ trọng nợ quá hạn càng nhỏ càng tốt, song
không phải nợ quá hạn cao thì chất lượng tín dụng thấp, không có khả năng thu hồi
nợ. Theo quyết định số 292/1998/QĐ-NHNN5 ngày 27/8/1998 của Ngân hàng Nhà
nước, các ngân hàng thương mại có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ < 5% thì ngân
hàng được đánh giá là ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt, đạt chất lượng cao.
Ngoài ra, để xem xét rủi ro đọng vốn, ngân hàng cũng cần nghiên cứu chỉ
tiêu vòng quay vốn tín dụng, trong đó chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:
Vòng quay vốn tín dụng =
Doanh số thu nợ trong năm
Dư nợ bình quân trong năm

Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng cho biết một đồng vốn của ngân hàng được
cho vay bao nhiêu lần trong năm. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào kỳ hạn cho vay và thu
nợ trung bình của ngân hàng. Mặc dù chỉ tiêu này không phản ánh trực tiếp chất
lượng tín dụng (nếu ngân hàng cho vay trung dài hạn nhiều, vòng quay tín dụng sẽ
giảm) nhưng thông qua chỉ tiêu này, ngân hàng có thể đánh giá được tỷ lệ nợ quá
hạn. Với dư nợ bình quân năm của ngân hàng không đổi, nếu doanh số thu nợ trong
năm tăng (đồng nghĩa với nợ quá hạn giảm) thì vòng quay vốn tín dụng sẽ tăng.
Nợ xấu làm giảm tốc độ chu chuyển vốn của ngân hàng, dẫn đến hiệu quả sử
dụng vốn giảm, làm giảm hoặc thậm chí khiến ngân hàng mất khả năng thanh toán,
lợi nhuận mang lại từ hoạt động tín dụng cũng giảm sút đáng kể. Các ngân hàng
thương mại là trung gian giữa người thừa vốn và người thiếu vốn nên phải có trách
nhiệm cân đối đầu vào và đầu ra sao cho có thể đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả gốc và
lãi với các chủ nợ của mình. Do đó, chỉ cần có khoản nợ bị quá hạn hoặc bị cơ cấu
lại thời hạn trả nợ, ngân hàng sẽ bị đọng vốn, mất rủi ro thanh khoản tạm thời. Rủi


ro đọng vốn nếu xảy ra trong thời gian dài sẽ làm giảm uy tín kinh doanh của ngân
hàng trên thương trường, về lâu dài có thể đẩy ngân hàng đến nguy cơ phá sản.
Rủi ro mất vốn: là rủi ro do không thu được một phần hoặc toàn bộ nợ gốc,
lãi từ phía khách hàng khiến Ngân hàng mất vốn, lợi tức và các chi phí khác.
Mức độ nghiêm trọng rủi ro này phụ thuộc vào các chỉ tiêu sau:
Tỷ trọng nợ khó đòi, nợ khoanh, xóa nợ, miễn giảm lãi. Các tỷ trọng này đạt
giá trị lớn sẽ là dấu hiệu trực tiếp cho biết Ngân hàng đã có nguy cơ sẽ mất một
phần hay toàn bộ nợ không thu được. Tỷ lệ này được đo lường bằng công thức:
Tỷ lệ nợ khó đòi =
Nợ quá hạn khó đòi
x 100%
Tổng nợ quá hạn
Khi phân chia nợ quá hạn theo khả năng thu hồi, có thể tách riêng phần nợ
quá hạn khó đòi (nợ quá hạn nhóm 5). Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi/ tổng nợ quá hạn

cao chứng tỏ khả năng thu hồi càng thấp và tỷ lệ thất thoát vốn lớn ảnh hưởng đến
tài chính của ngân hàng, chất lượng tín dụng của ngân hàng thấp.
Khi đánh giá chỉ tiêu nợ quá hạn khó đòi (nợ có khả năng mất vốn) phải xem
xét trên hai khía cạnh, đó là số tuyệt đối và số tương đối, vì khi tỷ lệ nợ quá hạn mới
tăng lên thì tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi giảm về số tương đối. Khi đó, về tổng thể, chất
lượng tín dụng không những không tăng lên mà giảm đi.
1.2.3 Rủi ro tín dụng theo Hiệp định quốc tế (Basel I, II)
Hiệp ước Basel Capital Accord bắt nguồn từ những dấu hiệu cạnh tranh
không lành mạnh và việc quy định về vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại ở
các quốc gia khác nhau là khác nhau, gây khó khăn trong cơ chế hội nhập, toàn cầu
hóa. Hiệp ước Basel đầu tiên được ký kết vào ngày 15/07/1988 tại Thụy Sỹ bởi một
nhóm đại diện của 10 ngân hàng trung ương với mục đích là hài hòa các tiêu chuẩn
về vốn của ngân hàng quốc tế nhằm tăng cường sự ổn định và xóa bỏ cạnh tranh
không công bằng giữa các ngân hàng. Hiệp ước này được coi là một thể chế pháp lý
quan trọng, có ảnh hưởng đến sự ổn định của toàn hệ thống ngân hàng trên thế giới.
Hiện nay có trên 100 nước áp dụng các quy chuẩn quốc tế của hiệp ước này.


Theo Hiệp ước Basel I, các tài sản của ngân hàng trong và ngoài bảng cân
đối kế toán được phân thành 4 nhóm, tương ứng từng nhóm sẽ có mức độ rủi ro ứng
với một hệ số rủi ro.
Nhóm 1: tiền mặt và vàng nằm trong ngân hàng, các nghĩa vụ trả nợ của
Chính Phủ, Bộ Tài chính. Nhóm này có trọng số rủi ro 0%.
Nhóm 2: Các khoản trả nợ của ngân hàng có quy mô lớn, chứng khoán phát
hành bởi các cơ quan Nhà nước. Nhóm này có trọng số rủi ro 20%.
Nhóm 3: các khoản vay thế chấp nhà ở có trọng số rủi ro 50%.
Nhóm 4: tất cả các khoản vay khác như trái phiếu của doanh nghiệp, các
khoản nợ từ các nước kém phát triển, các khoản vay thế chấp cổ phiếu, bất động
sản Nhóm này có trọng số rủi ro 100%.
Basel I đề cập đến và lượng hóa các loại rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và

rủi ro hoạt động.
Hệ số chuẩn (CAR) = Vốn tự có của ngân hàng/ Tổng tài sản Có rủi ro
Theo Basel I, hệ số CAR phải trên 8% mới đảm bảo được hoạt động an toàn
của tổ chức tín dụng. Basel I đặt ra các tiêu chuẩn cấp tín dụng và các quy trình
giám sát cho vay thông qua việc duy trì các chính sách cho vay, mục đích cho vay
và thủ tục cho vay. Bên cạnh đó, ngân hàng cần có một chính sách quy trình giám
sát quan hệ tín dụng hiện tại của khách hàng.
Tuy nhiên hiệp ước Basel I có những nhược điểm sau:
Thứ nhất, không phân biệt theo loại rủi ro, như một khoản nợ đối với tổ chức
xếp hạng AA được coi như một khoản nợ đối với tổ chức xếp hạng B (ví dụ như
một khoản nợ cho một ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ chỉ cần một lượng vốn bằng 1/5
khoản nợ cho công ty General Electric – xếp hạng AAA).
Thứ hai, không có lợi ích từ việc đa dạng hóa: một khoản nợ riêng lẻ yêu cầu
một lượng vốn giống như một danh mục đầu tư được đa dạng hóa, với cùng một giá
trị (ví dụ như không có sự khác biệt nào giữa một khoản vay 100 USD với 100
khoản vay 1 USD).
Thứ ba, chưa có yêu cầu vốn dự phòng cho rủi ro vận hành.


Hiệp ước Basel II ra đời năm 2001, bao gồm những khuyến nghị về luật và
quy định ngành ngân hàng, nhấn mạnh đến việc kiểm soát nội bộ trong các ngân
hàng, tăng cường sự linh hoạt trong quản lý rủi ro thông qua độ nhạy cảm rủi ro. So
với Basel I, Basel II đã tạo một bước hoàn thiện hơn trong việc xác định tỷ lệ an
toàn vốn nhằm khắc phục hạn chế của Basel I và khuyến khích các ngân hàng thực
hiện phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến. Hiệp ước Basel II đưa ra một loạt các
phương án lựa chọn, cho phép quyền tự quyết lớn trong việc giám sát hoạt động
ngân hàng thông qua các chuẩn mực giám sát nhằm hoàn thiện các kỹ thuật quản trị
rủi ro và có cấu trúc theo 3 cấp độ:
Cấp độ I quy định yêu cầu tỷ lệ vốn tối thiểu đối với rủi ro tín dụng và rủi ro
hoạt động. Cấp độ này liên quan tới việc duy trì tỷ lệ vốn bắt buộc. Lượng vốn này

được tính toán theo ba yếu tố rủi ro chính mà ngân hàng phải đối mặt, đó là rủi ro
tín dụng, rủi ro vận hành và rủi ro thị trường. Những loại rủi ro khác không được
coi là có thể lượng hóa hoàn toàn ở bước này.
Cấp độ II đưa ra các hướng dẫn liên quan đến quá trình giám sát, trong đó
nhấn mạnh tới bốn nguyên tắc để xem xét giám sát:
 Ngân hàng nên có một quy trình xác định mức độ vốn nội bộ theo mức
rủi ro và phải có chiến lược nhằm duy trì mức vốn đó.
 Các giám sát viên nên xem xét và đánh giá việc xác định mức độ vốn
nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và
đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu.
 Khuyến nghị rằng ngân hàng nên giữ mức vốn cao hơn mức tối thiểu
theo quy định.
 Những người giám sát sẽ tìm cách thâm nhập, can thiệp vào những giai
đoạn đầu tiên để không làm mức vốn của ngân hàng giảm xuống dưới
mức tối thiểu.
Cấp độ III yêu cầu các ngân hàng cung cấp thông tin cơ bản liên quan đến
vốn, rủi ro để đảm bảo khuyến khích các nguyên tắc thị trường nhằm nâng cao tính
ổn định trong hệ thống tài chính. Phần này được thiết kế để cho phép thị trường có


một bức tranh toàn diện hơn về vị thế rủi ro tổng thể của ngân hàng và cho phép các
đối tác của ngân hàng định giá và tham gia chuyển giao một cách hợp lý. Với cấp
độ này, Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công
khai thông tin, đó là các thông tin về cơ cấu vốn, về mức độ đầy đủ của vốn, các
thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro
thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng với từng loại rủi
ro.
Như vậy, đối với rủi ro tín dụng, nếu Basel I chỉ có một phương pháp chung,
duy nhất áp dụng cho tất cả các trường hợp thì Basel II lại linh động hơn, đưa ra
nhiều phương pháp hơn (phương pháp chuẩn, phương pháp IRB, phương pháp A-

IRB) để các ngân hàng có thể lựa chọn, và từ đó quản lý rủi ro tín dụng tốt hơn.
Theo nhận định chung của các chuyên gia, hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam hiện vẫn đang ở trong những bước đầu tiên trong quá trình áp dụng các
chuẩn mực quốc tế vào việc xây dựng một hệ thống an toàn, giảm thiểu rủi ro trong
quá trình hoạt động. Các ngân hàng thương mại hiện đang áp dụng theo phương
pháp đánh giá rủi ro tín dụng dựa trên Hiệp ước Basel I để đánh giá tương đối về
mức độ rủi ro tín dụng cũng như tính toán mức độ rủi ro tín dụng [9]. Tại Việt Nam
trước xu hướng mở rộng, sát nhập các công ty hay sự ra đời của các tập đoàn, các
công ty đa quốc gia, việc quy định về tỷ lệ dư nợ cho vay không vượt quá 15% vốn
tự có (với một khách hàng) hoặc 25% vốn tự có (với một nhóm khách hàng liên
quan) [16] hay đưa ra quy định một số đối tượng hạn chế, không được phép cho vay
cũng nhằm hạn chế rủi ro tín dụng nhưng những quy định này vẫn còn cứng nhắc và
chưa thực sự thuyết phục [15].
1.2.4 Rủi ro tín dụng theo quy định của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam
Đáp ứng các yêu cầu của tổ chức quốc tế, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành
các quyết định có liên quan đến việc ngăn ngừa, hạn chế, cũng như đánh giá rủi ro
tín dụng:


 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 22/04/2005 quy định
về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng.
 Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ban hành ngày 25/04/2007 về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN.
 Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 19/04/2005 quy định
về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, như
các quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, giới hạn tín dụng với khách
hàng/nhóm khách hàng có liên quan, tỷ lệ về khả năng chi trả, tỷ lệ tối
đa của nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 22/04/2005, nợ được

chia thành 5 nhóm như sau:
Theo phƣơng pháp định lƣợng:
Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn), bao gồm các khoản nợ trong hạn được tổ chức
tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc, lãi đúng hạn và các khoản nợ
có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay và chấp
nhận thanh toán; Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá
là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi
đúng thời hạn còn lại; Các khoản nợ quá hạn được xếp vào nhóm 1 khi khách hàng
trả đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn (kể cả lãi áp dụng đối với nợ gốc quá hạn) và nợ
gốc và lãi của các kỳ hạn tiếp theo trong thời gian tối thiểu 6 tháng với các khoản
nợ trung và dài hạn, 3 tháng với các khoản nợ ngắn hạn, kể từ ngày bắt đầu trả đầy
đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn.
Nhóm 2 (nợ cần chú ý): bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại
thời hạn trả nợ lần đầu; các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 2.
Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn): bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày
và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ
lần đầu phân loại vào nhóm 2 ở trên; các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do


khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng; các khoản nợ
khác được phân loại vào nhóm 3.
Nhóm 4 (nợ nghi ngờ): bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; nợ
cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ
cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2; các khoản nợ khác
được phân loại vào nhóm 4.
Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn): bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2 quá
hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ 2; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn
trả nợ lần thứ 3 trở lên kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; và các khoản nợ

khoanh, nợ chờ xử lý.
Theo phƣơng pháp định tính:
Ngân hàng Nhà nước quy định các tổ chức tín dụng có đủ khả năng và điều
kiện thì thực hiện phân loại nợ theo phương pháp định tính. Theo phương pháp này,
nợ cũng được phân loại thành 5 nhóm tương ứng như phương pháp định lượng. Tuy
nhiên, phương pháp này không căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ, mà
dựa trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro của ngân
hàng, được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Các nhóm nợ bao gồm:
Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn): bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 2 (nợ cần chú ý): bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi
đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn): bao gồm nợ được đánh giá là không có khả
năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn.
Nhóm 4 (nợ nghi ngờ): bao gồm nợ được đánh giá có khả năng tổn thất cao.
Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm nợ được đánh giá là không còn
khả năng thu hồi, mất vốn.


Theo hai cách phân loại nợ theo phương pháp định lượng và định tính như
trên thì rủi ro tín dụng sẽ bao gồm nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nợ nhóm 4 (nợ
nghi ngờ) và nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn).
Dù nhóm nợ của khách hàng được phân loại theo phương pháp nào, tỷ lệ
trích lập dự phòng cụ thể tối đa cho các nhóm nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5 sẽ tương
ứng là 0%, 5%, 20%, 50%, 100%. Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính
phủ xử lý, tổ chức tín dụng trích lập dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của
mình.
1.2.5 Các nhân tố ảnh hƣởng đến rủi ro tín dụng ngân hàng
1.2.5.1 Xét theo các nhân tố định tính
Nguyên nhân khách quan:

Nhóm nguyên nhân này xuất phát từ những yếu tố tác động từ bên ngoài, xảy
ra ngoài ý muốn và tầm kiểm soát của con người như sự thay đổi của môi trường
chính trị, pháp lý, kinh tế xã hội, tự nhiên làm cho người đi vay không kịp thích
nghi, bị tổn thất khiến ngân hàng có nguy cơ không thu hồi được vốn và lãi đúng
hạn, gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Cụ thể, những nguyên nhân khách quan
gây nên rủi ro tín dụng thường là sự thay đổi về cơ chế, chính sách kinh tế, chính
sách tiền tệ; tác động của suy thoái kinh tế, lãi suất, lạm phát; thiên tai, dịch bệnh,
Trước hết, sự thay đổi môi trường chính trị, pháp lý có ảnh hưởng lớn đến
hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. Khi có sự thay đổi
chính trị, điều chỉnh chính sách, chế độ luật pháp của Nhà nước sẽ tác động tới
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cá nhân, từ đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng
hoàn trả vốn vay, lãi vay của khách hàng với ngân hàng. Việc các quy định thường
xuyên thay đổi sẽ khiến người đi vay không kịp thích nghi là nguyên nhân khá phổ
biến gây nên rủi ro tín dụng. Ngoài ra, ý thức thi hành pháp luật của người dân cũng
có ảnh hưởng không nhỏ đến rủi ro đạo đức của người đi vay.
Sự thay đổi môi trường kinh tế xã hội là nguyên nhân khách quan thứ hai gây
nên rủi ro tín dụng. Kinh doanh tiền tệ là chức năng chính của ngân hàng, do đó
ngân hàng sẽ rất nhạy cảm với những biến động về kinh tế. Bất kì nền kinh tế nào,

×