Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng Sài Gòn Hà Nội (SHB) trong hoạt động tài trợ thương mại quốc tế tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.95 KB, 87 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG




TRỊNH THỊ NGÀ



NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG
SÀI GÒN – HÀ NỘI (SHB) TRONG HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ
THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành : Thƣơng mại
Mã số : 60.34.10



LUẬN VĂN THẠC SĨ THƢƠNG MẠI

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Đặng Thị Nhàn



Hà Nội - 2010


MỤC LỤC



MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI TRỢ THƢƠNG MẠI
QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 4
1.1. Lý luận chung về hoạt động tài trợ thƣơng mại quốc tế của Ngân hàng thƣơng
mại 4
1.1.1. Khái niệm tài trợ thương mại quốc tế của Ngân hàng thương mại 4
1.1.2. Vai trò của Ngân hàng thương mại trong hoạt động tài trợ thương mại
quốc tế 5
1.1.3. Các hình thức tài trợ thương mại quốc tế của Ngân hàng thương mại 6
1.1.4. Ý nghĩa hoạt động tài trợ thương mại quốc tế của Ngân hàng thương mại 14
1.2. Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thƣơng mại trong hoạt động tài trợ thƣơng
mại quốc tế 17
1.2.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại 17
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại trong
hoạt động tài trợ thương mại quốc tế 18
1.2.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại
trong hoạt động tài trợ thương mại quốc tế 22
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG HOẠT
ĐỘNG TÀI TRỢ THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG SÀI GÒN –
HÀ NỘI 28
2.1. Khái quát về Ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội (SHB) 28
2.1.1 Tóm tắt quá trình hình thành và phát triển của SHB 28
2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của SHB 31
2.2. Thực trạng hoạt động tài trợ thƣơng mại quốc tế tại SHB 37
2.2.1 Các văn bản quy định về hoạt động tài trợ thương mại quốc tế tại SHB 37
2.2.2 Các hình thức tài trợ thương mại quốc tế tại SHB 37
2.2.3Thực trạng hoạt động tài trợ thương mại quốc tế tại SHB 42



2.3. Năng lực cạnh tranh trong hoạt động tài trợ thƣơng mại quốc tế của SHB 45
2.3.1 Năng lực tài chính 45
2.3.2 Năng lực phi tài chính 48
2.4 Đánh giá chung về hoạt động tài trợ TMQT của SHB và năng lực cạnh tranh của
SHB trong hoạt động này 52
2.4.1 Những kết quả đạt được 52
2.4.2 Những bất cập, hạn chế và nguyên nhân 54
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÂN HÀNG SÀI GÒN – HÀ NỘI TRONG HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ
THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ 63
3.1 Xu hƣớng phát triển hoạt động tài trợ thƣơng mại quốc tế của các Ngân hàng
thƣơng mại tại Việt Nam 63
3.1.1 Bối cảnh kinh tế tài chính quốc tế 63
3.1.2 Xu hướng phát triển hoạt động tài trợ TMQT của các NHTM tại Việt Nam 64
3.2 Định hƣớng phát triển hoạt động tài trợ TMQT tại SHB 66
3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của SHB trong hoạt động
tài trợ TMQT tại Việt Nam 66
3.3.1 Nhóm giải pháp nâng cao năng lực tài chính 66
3.3.2 Nhóm giải pháp về quản trị điều hành 68
3.3.3 Nhóm giải pháp về nghiệp vụ tài trợ TMQT 72
3.3.4 Nhóm giải pháp liên quan đến nhân sự và công nghệ ngân hàng 74
3.3.5 Nhóm giải pháp liên quan đến hoạt động Marketing và chính sách chăm sóc
khách hàng 76
3.4 Đề xuất một số kiến nghị 77
3.4.1 Đối với Chính phủ và các bộ ngành 77
3.4.2 Đối với NHNN Việt Nam 79
KẾT LUẬN 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

SHB
: Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Sài Gòn- Hà Nội
NHTM
: Ngân hàng thƣơng mại
NHTMCP
: Ngân hàng thƣơng mại cổ phần
NHNN
: Ngân hàng nhà nƣớc
TMQT
: Thƣơng mại quốc tế
XNK
: Xuất nhập khẩu
TCTD
: Tổ chức tín dụng
ROA
: Tỉ suất lợi nhuận trên tài sản (Returns on Assets)
ROE
: Tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (Return on Equity)
CAR
: Hệ số an toàn vốn (Capital Adequacy Ratio)
CIC
: Trung tâm thông tin tín dụng
L/C
: Thƣ tín dụng
D/A
: Phƣơng thức nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ
D/P
: Phƣơng thức nhờ thu thanh toán đổi chứng từ

TTR
: Phƣơng thức chuyển tiền
WTO
: Tổ chức thƣơng mại thế giới (World Trade Organization)
UCP 600

: Các quy tắc thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ số 600
(Uniform Custom and Pratice for the Documentary Credit No 600)
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
















DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Cơ cấu tổ chức của SHB 30
Bảng 2.2: Tình hình huy động vốn của SHB giai đoạn 2007-2009 31

Bảng 2.3: Huy động tiền gửi tại thị trƣờng I của SHB tính đến thời điểm
31/12/2009 32
Bảng 2.4: Dƣ nợ tín dụng của SHB giai đoạn 2007-2009 33
Bảng 2.5: Cơ cấu dƣ nợ tín dụng đến 31/12/2009 34
Bảng 2.6: Doanh số thanh toán quốc tế giai đoạn 2007-2009 35
Bảng 2.7: Kết quả hoạt động kinh doanh SHB giai đoạn 2007- 2009 35
Bảng 2.8: Doanh số cho vay phục vụ hoạt động XNK 42
Bảng 2.9: Tỷ trọng dƣ nợ cho vay phục vụ XNK 42
Bảng 2.10: Dƣ nợ cho vay phục vụ hoạt động XNK 43
Bảng 2.11: Tỷ trọng cho vay phục vụ hoạt động XNK giai đoạn 2007-2009 44
Bảng 2.12:Dƣ nợ cho vay phục vụ XNK tính đến thời điểm 31/12/2009 45
Bảng 2.13: Dƣ nợ cho vay phục vụ hoạt động XNK tại các ngân hàng tính đến thời
điểm 31/12/2009 47









1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Lý luận cũng nhƣ thực tiễn phát triển kinh tế thế giới đã cho thấy hoạt động xuất
nhập khẩu (XNK) là một trong những lĩnh vực trung tâm quan trọng nhất trong toàn
bộ các hoạt động kinh tế của nhiều quốc gia. Hoạt động XNK đã góp phần đáng kể
vào việc tăng nguồn thu ngân sách, đặc biệt là thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh
toán giải quyết công ăn việc làm cho ngƣời dân, thúc đẩy nhanh quá trình tăng

trƣởng và phát triển kinh tế, nâng cao vị thế của đất nƣớc trong nền kinh tế toàn cầu.
Việt Nam từ nền kinh tế lạc hậu và kém phát triển chuyển sang xây dựng nền
kinh tế thị trƣờng thì việc mở rộng buôn bán, quan hệ với nƣớc ngoài là hết sức cần
thiết. Vì vậy, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn quyết tâm thực hiện công cuộc đổi mới
theo hƣớng "mở cửa" nền kinh tế hƣớng mạnh về xuất khẩu, không ngừng mở rộng
quan hệ hợp tác toàn diện với các nƣớc trên thế giới, phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc. Nhờ vậy,
hoạt động ngoại thƣơng nói chung và hoạt động XNK nói riêng của Việt Nam trong
thời gian qua đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể và ngày càng khẳng định vị trí
của mình trong toàn bộ nền kinh tế.
Để tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kinh doanh XNK cần phải nâng cao chất lƣợng
và đa dạng hoá các mặt hàng, muốn vậy có sự đầu tƣ thích đáng cho quá trình sản
xuất, kinh doanh cũng nhƣ đổi mới công nghệ, máy móc, trang thiết bị. Nhƣng trên
thực tế, vốn của các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trên lĩnh vực này còn ít ỏi,
không thể giúp cho các doanh nghiệp tự đổi mới công nghệ nâng cao chất lƣợng.
Xuất phát từ thực tế này và để đạt đƣợc mục tiêu của Đảng và Nhà nƣớc đề ra, các
doanh nghiệp XNK rất cần có sự hỗ trợ của các Ngân hàng thƣơng mại (NHTM)
với tƣ cách là trung tâm cung ứng vốn và tài trợ cho các hoạt động thƣơng mại quốc
tế (TMQT).
Thực tế hiện nay cho thấy các NHTM nói chung và Ngân hàng TMCP Sài Gòn
– Hà Nội (SHB) nói riêng mặc dù đã chú trọng tới hoạt động tài trợ TMQT song
vẫn chƣa thể đáp ứng đƣợc nhu cầu ngày càng tăng về vốn ngắn, trung và dài hạn từ


2
phía các doanh nghiệp XNK. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Nâng cao năng lực
cạnh tranh của Ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội (SHB) trong hoạt động tài trợ thương
mại quốc tế tại Việt Nam " làm đề tài cho luận văn thạc sỹ của mình
2. Tình hình nghiên cứu:
Ở Việt Nam hoạt động tài trợ TMQT tại các NHTM đã đƣợc chọn làm đề tài

nghiên cứu trong rất nhiều luận án, công trình nghiên cứu khoa học, cụ thể:
– TS Lê Văn Tƣ (2003), Tín dụng thanh toán XNK, thanh toán quốc tế và kinh
doanh ngoại tệ
– PGS.TS Nguyễn Văn Tiến (2008), Tài trợ Thương mại quốc tế
Trên thế giới nhiều học giả cũng đã nghiên cứu về lĩnh vực tài trợ ngoại thƣơng
nhƣ:
– Alasdair Watson (1995), Finance of International Trade
– Howard Palmer (1999), International trade and Pre-export Finance – A
practitioner’s guide
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu mới chỉ tiếp cận đến hoạt động tài trợ
TMQT từ giác độ lý luận nhiều hơn mà chƣa nghiên cứu chuyên sâu về năng lực
cạnh tranh của một NHTM trong hoạt động tài trợ TMQT.
3. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận chung và đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh trong hoạt
động tài trợ TMQT tại SHB, từ đó đƣa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của SHB trong hoạt động tài trợ TMQT tại Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
– Nghiên cứu lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh của NHTM và hoạt động tài
trợ TMQT của NHTM
– Tìm hiểu thực trạng và đánh giá chung về năng lực cạnh tranh trong hoạt động
tài trợ TMQT của SHB.
– Đề xuất các định hƣớng và giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của SHB
trong hoạt động tài trợ TMQT tại Việt Nam


3
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động tài trợ TMQT tại SHB trong 3 năm:
2007, 2008, 2009; đánh giá thực trạng hoạt động tài trợ TMQT nhằm tìm ra giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của SHB trong hoạt động tài trợ TMQT.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đƣợc mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng các phƣơng
pháp nghiên cứu sau đây:
– Các phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết: Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp lý
thuyết, phƣơng pháp mô hình hóa.
– Các phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn : Phƣơng pháp điều tra, phƣơng pháp
phân tích.
7. Kết cấu:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng:
Chương 1 - Những vấn đề lý luận về tài trợ thương mại quốc tế của Ngân hàng
thương mại
Chương 2 - Thực trạng năng lực cạnh tranh trong hoạt động tài trợ thương mại
quốc tế của Ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội
Chương 3 - Giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Sài
Gòn – Hà Nội trong hoạt động tài trợ thương mại quốc tế












4
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI TRỢ
THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI


1.1. Lý luận chung về hoạt động tài trợ thƣơng mại quốc tế của Ngân hàng
thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm tài trợ thương mại quốc tế của Ngân hàng thương mại
Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt, tài trợ nghĩa là sự hỗ trợ, trợ giúp về
mặt tài chính. Vậy, tài trợ thƣơng mại có thể hiểu đơn giản là hỗ trợ, trợ giúp về mặt
tài chính cho hoạt động thƣơng mại, làm cho hoạt động thƣơng mại đƣợc diễn ra
suôn sẻ thuận lợi hơn.
Theo định nghĩa tại Luật thƣơng mại nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam 2005,
hành vi thƣơng mại của thƣơng nhân bao gồm việc mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ. Vậy, hoạt động thƣơng mại quốc tế (TMQT) hay còn gọi là hoạt động
XNK là việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ nhƣng mang yếu tố quốc tế: nhƣ
những ngƣời mua và ngƣời bán có trụ sở kinh doanh ở các nƣớc khác nhau, đồng
tiền thanh toán có thể là ngoại tệ đối với một trong hai bên hoặc có thể là cả hai bên;
hàng hóa và/hoặc dịch vụ có thể đƣợc di chuyển khỏi biên giới một nƣớc.
Từ những khái niệm, định nghĩa trên, có thể hiểu một cách khái quát nhƣ
sau: tài trợ TMQT là tập hợp các biện pháp và hình thức hỗ trợ về mặt tài chính
trực tiếp hoặc gián tiếp cho các doanh nghiệp hoặc đơn vị kinh tế tham gia hoạt
động kinh doanh thƣơng mại trong một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình
đầu tƣ, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trƣờng thế
giới nhằm mục đích sinh lợi.
Có rất nhiều cách để phân loại tài trợ TMQT. Một trong những cách phân
loại quan trọng là căn cứ vào ngƣời cung ứng tài trợ là ai. Theo đó, tài trợ TMQT có
thể chia thành: tài trợ TMQT của nhà nƣớc, tài trợ TMQT của các tổ chức tín dụng,
tài trợ TMQT trực tiếp giữa các doanh nghiệp.
Do giới hạn bởi phạm vi nghiên cứu, đề tài chỉ tập trung giới thiệu loại hình
Tài trợ TMQT của các NHTM, theo đó tài trợ TMQT của các NHTM là tập hợp


5

các hình thức hỗ trợ về mặt tài chính của các NHTM cho các doanh nghiệp tham gia
hoạt động TMQT nhằm mục đích kiếm lời. [1]
Nhƣ vậy, tài trợ thƣơng mại của NHTM về bản chất chính là sự hỗ trợ của
NHTM cho các doanh nghiệp XNK dƣới hình thức cung ứng vốn và các hình thức
khác nhằm giúp các doanh nghiệp này thực hiện thành công các thƣơng vụ và gia
tăng hiệu quả kinh doanh trong TMQT.
1.1.2. Vai trò của Ngân hàng thương mại trong hoạt động tài trợ thương mại
quốc tế
Nhƣ chúng ta biết, hàng hóa dịch vụ đƣợc đƣa vào lƣu thông là kết quả của
cả một quá trình. Trên thực tế, không phải lúc nào các doanh nghiệp XNK cũng đủ
vốn để hoạt động TMQT. Do vậy, muốn có sản phẩm chất lƣợng cao, chi phí rẻ,
hợp với thị hiếu tiêu dùng của xã hội và có khả năng cạnh tranh thì phải tài trợ cho
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tƣ, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trƣờng. Măt khác, hoạt động kinh doanh
thƣơng mại quốc tế là nhằm vào các thị trƣờng nƣớc ngoài. Phong tục, tập quán,
luật lệ, môi trƣờng đều rất khác với thị trƣờng trong nƣớc, cho nên không thể
tránh khỏi rủi ro, ảnh hƣởng xấu đến kết quả kinh doanh thƣơng mại. Do vây, sự tài
trợ cho các doanh doanh kinh doanh TMQT, cụ thể là các doanh nghiệp XNK là hết
sức cần thiết.
Xác định đƣợc tầm quan trọng của TMQT đối với sự phát triển của nền kinh
tế đất nƣớc, chính phủ cũng đã thực hiện rất nhiều biện pháp cả trực tiếp và gián
tiếp để tài trợ cho hoạt động XNK. Tuy nhiên, với việc trở thành thành viên của
WTO, Việt Nam đang hoạt động trên một sân chơi bình đẳng, đƣợc bảo vệ các
quyền và lợi ích chính đáng của mình nhƣng đồng thời cũng phải có nghĩa vụ thực
hiện đầy đủ các luật chơi của WTO. Các chính sách, hình thức hỗ trợ xuất khẩu mà
Việt Nam áp dụng trong thời gian trƣớc phải nhanh chóng đƣợc thu hẹp và dỡ bỏ
theo các cam kết gia nhập WTO. Chính vì thế, một khi chính phủ không đƣợc can
thiệp sâu vào việc tài trợ TMQT thì sự tham gia của các tổ chức tài chính mà đặc
biệt là NHTM là tất yếu và hết sức cần thiết. Với các dịch vụ thuận tiện và nguồn



6
vốn cung ứng kịp thời, các NHTM đã cung cấp cho các doanh nghiệp XNK một
điểm tựa vững chắc và cho họ những cơ hội phát triển để góp phần thúc đẩy hoạt
động XNK phát triển ổn định và ngày càng mở rộng.
Trong TMQT, ngƣời mua có thể phải giao dịch với một ngƣời bán mà họ
không biết, cách xa biên giới, hàng rào ngôn ngữ, phong tục tập quán xa lạ Nhƣ
vậy, ngƣời mua và ngƣời bán không thể nắm bắt chắc chắn về khả năng tài chính,
uy tín và khả năng thực hiện trách nhiệm thanh toán của nhau, do đó khó lƣờng
trƣớc những rủi ro có thể xảy ra. Với những biện pháp kỹ thuật đặc thù TMQT,
ngân hàng sẽ bảo vệ quyền lợi của ngƣời bán và ngƣời mua, loại trừ rủi ro giúp cho
tiến trình mậu dịch diễn ra thuận lợi hơn.
Đặc biệt, trao đổi quốc tế có liên quan đến các phƣơng thức tín dụng, bảo
lãnh thanh toán hay tài trợ làm phức tạp thêm việc trao đổi và làm phát sinh rất
nhiều kỹ thuật hay các thủ tục gắn liền với các nhu cầu của hai bên mua bán. Trong
bối cảnh phức tạp đó, các ngân hàng là những chuyên gia trong hoạt động TMQT,
có khả năng cung cấp các thông tin và lời khuyên nhằm đƣa đến việc ký kết các hợp
đồng và thực hiện việc tài trợ cần thiết. Bằng các nghiệp vụ của mình, ngân hàng trở
thành gạch nối giữa các bên mua bán cách nhau bởi các châu lục.
1.1.3. Các hình thức tài trợ thương mại quốc tế của Ngân hàng thương mại
Theo quy định tại Khoản 10 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam
(đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2004), cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả
thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng
các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và
các nghiệp vụ khác.
Nhƣ vậy, có thể hiểu hoạt động tài trợ TMQT sẽ bao gồm các hình thức cho
vay, bảo lãnh, chiết khấu, bao thanh toán, cho thuê tài chính và các hình thức cấp tín
dụng khác đƣợc các Ngân hàng cấp cho doanh nghiệp XNK nhằm hỗ trợ cho các
doanh nghiệp này trong quá trình giao dịch TMQT.
1.1.3.1 Tài trợ dưới hình thức cho vay

- Tài trợ hoạt động xuất khẩu:


7
Tài trợ xuất khẩu là loại hình tài trợ ở khâu lƣu thông, tùy theo loại hàng hóa
xuất khẩu mà thời hạn tín dụng dài ngắn khác nhau, có thể tài trợ bằng đồng Việt
Nam hoặc ngoại tệ. Hoạt động này thƣờng đƣợc chia theo hai công đoạn của quá
trình sản xuất và quá trình lƣu thông: tài trợ xuất khẩu trƣớc khi giao hàng dƣới
hình thức cho vay và tài trợ xuất khẩu sau khi giao hàng dƣới hình thức chiết khấu
bộ chứng từ hoặc cho vay ứng trƣớc tiền hàng.
Tài trợ xuất khẩu trước giao hàng là loại hình tín dụng mà Ngân hàng cấp
cho doanh nghiệp xuất khẩu vay vốn để mua nguyên nhiên vật liệu (đầu vào), sản
xuất, chế biến hàng hóa xuất khẩu; chủ yếu dƣới hình thức cho vay ngắn hạn – tài
trợ vốn lƣu động. Hình thức này thông thƣờng đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp Ngân
hàng tài trợ vừa là Ngân hàng thanh toán cho L/C xuất, nhà xuất khẩu xuất trình bộ
chứng từ và đƣợc thanh toán tại ngân hàng.
Tài trợ xuất khẩu sau giao hàng là loại tín dụng cấp cho doanh nghiệp sản
xuất hàng xuất khẩu khi đã có bộ chứng từ gửi hàng. Từ lúc giao hàng, nộp bộ
chứng từ vào ngân hàng thông báo L/C cho đến khi đƣợc ghi Có trên tài khoản phải
trải qua một khoảng thời gian nhất định để xử lý và luân chuyển chứng từ. Nhà xuất
khẩu cần tiền có thể thƣơng lƣợng bộ chứng từ để chiết khấu hoặc ứng trƣớc tiền tại
ngân hàng đã đƣợc chỉ định rõ trong L/C hoặc ở bất kỳ ngân hàng nào. Để đảm bảo
cho khoản tín dụng thu hồi nợ dễ dàng nhanh chóng, NHTM thƣờng yêu cầu các
L/C xuất của khách hàng phải đƣợc thông báo qua ngân hàng, ngân hàng tài trợ vừa
là ngân hàng thông báo hoặc vừa là ngân hàng thanh toán L/C, đƣợc thể hiện qua
các hình thức sau:
- Tài trợ hoạt động nhập khẩu:
NHTM cho các doanh nghiệp vay vốn để thực hiện phƣơng án nhập khẩu máy
móc thiết bị hoặc hàng hóa nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Căn cứ
vào nhu cầu vốn, phƣơng án kinh doanh, khả năng trả nợ và giá trị tài sản đảm bảo

của doanh nghiệp, NHTM quyết định loại tiền cho vay, mức cho vay, thời gian cho
vay và phƣơng thức cho vay tƣơng ứng. Thông thƣờng, nếu nhập khẩu máy móc


8
thiết bị, phƣơng tiện vận tải… để đầu tƣ tài sản cố định thì sẽ cấp tín dụng trung dài
hạ, còn nếu nhập khẩu hàng hóa, nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất thì sẽ cấp
tín dụng ngắn hạn.
Đối với nhà nhập khẩu, hàng vừa cập bến phải nộp tiền cho ngân hàng để
thanh toán cho nhà xuất khẩu thì mới nhận đƣợc chứng từ để nhận hàng, bán hàng
và thu hồi vốn. Đó là khoảng thời gian khá dài, do đó nhà nhập khẩu cần có khoản
tài trợ từ ngân hàng, vay ngân hàng để thanh toán hàng nhập khẩu. Ngân hàng sẽ
tiến hành thẩm định tính hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng tài chính, khả năng
trả nợ, thế chấp tài sản để quyết định. Tuy nhiên trên thực tế đối với những doanh
nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định, có uy tín với ngân hàng thì không ký
quỹ mở L/C, không cần tài sản thế chấp vẫn đƣợc vay vốn ngân hàng, hàng hoá
nhận về đem thẳng đến kho của doanh nghiệp nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.3.2 Tài trợ dưới hình thức mở L/C
L/C là bất cứ một sự thỏa thuận nào, dù cho đƣợc mô tả hoặc đặt tên nhƣ thế
nào, là không thể hủy bỏ và theo đó là một sự cam kết chắc chắn của ngân hàng phát
hành để thanh toán cho ngƣời hƣởng lợi khi xuất trình các chứng từ phù hợp. (Điều
2 – UCP 600, ICC 2007)
Xét trên góc độ thực tế, L/C không những là một phƣơng thức thanh toán quốc
tế mà còn là một hình thức tài trợ TMQT cho nhà nhập khẩu. Có thể giải thích cụ
thể điều này nhƣ sau:
- Theo yêu cầu của nhà nhập khẩu, ngân hàng phát hành L/C cam kết trả tiền
cho nhà xuất khẩu nếu nhà xuất khẩu thực hiện đầy đủ các điều kiện quy định trong
L/C đó. Nhƣ vậy, ngân hàng đã mang toàn bộ địa vị và chữ tín của mình thay mặt
nhà nhập khẩu đứng ra cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu. Đây là hình thức tài trợ

đặc biệt dành cho nhà nhập khẩu.


9
- Theo quy định của UCP 600, sau khi ngân hàng phát hành trả tiền cho nhà
xuất khẩu thì ngân hàng mới đòi lại tiền nhà nhập khẩu, nhƣ vậy ở góc độ này, ngân
hàng đã cho nhà nhập khẩu vay tiền. Với ý nghĩa này, ngân hàng đã trực tiếp tài trợ
chính cho nhà nhập khẩu. [3]
Rõ ràng, đây là hình thức tài trợ của ngân hàng dành cho các nhà nhập khẩu
trong trƣờng hợp Khách hàng không ký quỹ 100% giá trị L/C. Thực tế, rất hiếm
trƣờng hợp Khách hàng chịu ký quỹ 100% giá trị L/C nên chủ yếu các NHTM mở
L/C trên cơ sở cấp hạn mức tín dụng cho khách hàng. Ký quỹ L/C đƣợc coi là một
hình thức bắt buộc tại NHTM nhằm bảo đảm khách hàng nhận hàng và thanh toán
L/C. Thông thƣờng mức ký quỹ cao hay thấp phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Khả năng thanh toán của khách hàng: khả năng thanh toán của khách hàng
càng cao mức ký quỹ càng thấp và ngƣợc lại.
- Đối tƣợng khách hàng: khách hàng có uy tín đối với ngân hàng thì mức ký
quỹ thấp và ngƣợc lại.
- Loại L/C: L/C trả chậm thì mức ký quỹ thƣờng thấp hơn L/C trả ngay, vì
mục đích L/C trả chậm là để vay vốn nƣớc ngoài, thời gian khá dài, mức ký quỹ cao
sẽ làm ứ đọng vốn của khách hàng.
- Loại hàng hoá nhập, khả năng tiêu thụ hàng và tình hình biến động giá cả
hàng hoá trên thị trƣờng. Những mặt hàng dễ tiêu thụ, thị trƣờng ổn định, giá cả ít
biến động thì mức ký quỹ có thể thấp.
1.1.3.3 Tài trợ dưới hình thức Chiết khấu hối phiếu
Theo quy định tại Khoản 14 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam
(đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2004), chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua thƣơng
phiếu, giấy tờ có giá khác của ngƣời thụ hƣởng trƣớc khi đến hạn thanh toán.
Hối phiếu là một mệnh lệnh đòi tiền vô điều kiện do ngƣời xuất khẩu ký phát
cho ngƣời nhập khẩu hoặc ngân hàng của ngƣời nhập khẩu, yêu cầu ngƣời này khi



10
nhìn thấy hối phiếu hoặc đến một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể
xác định trong tƣơng lai phải trả một số tiền nhất định cho ngƣời hƣởng lợi hối
phiếu hoặc theo lệnh của ngƣời hƣởng lợi trả cho một ngƣời khác hoặc trả cho
ngƣời cầm giữ hối phiếu.
Ngƣời hƣởng lợi hối phiếu muốn thu tiền của hối phiếu hoặc nhờ ngân hàng
thu hộ theo phƣơng thức thanh toán nhờ thu hoặc cầm cố hối phiếu cho ngân hàng
để vay tiền hoặc bán tờ hối phiếu đó cho ngân hàng với giá thấp hơn mệnh giá hối
phiếu để thu hồi tiền về sớm hơn. Việc bán hối phiếu cho ngân hàng để sớm thu tiền
về với một giá thấp hơn mệnh giá hối phiếu đƣợc gọi là chiết khấu hối phiếu. [3].
Thông thƣờng các NHTM chỉ chấp nhận chiết khấu khi bộ chứng từ phải
hoàn hảo, xuất trình đúng thời gian quy định và khách hàng có quan hệ giao dịch
thƣờng xuyên với ngân hàng Có hai hình thức chiết khấu:
- Chiết khấu truy đòi là hình thức chiết khấu mà ngân hàng sau khi thanh toán
tiền cho nhà xuất khẩu có quyền đòi tiền nếu bộ chứng từ không đƣợc thanh toán.
- Chiết khấu miễn truy đòi là hình thức chiết khấu mà ngân hàng sau khi
thanh toán cho nhà xuất khẩu không có quyền truy đòi tiền nếu bộ chứng từ không
đƣợc thanh toán.
Hiện nay các ngân hàng tại Việt Nam thực hiện chiết khấu có truy đòi.
1.1.3.4 Tài trợ dưới hình thức Bảo lãnh
Theo quy định tại Khoản 12 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam
(đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2004), bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của
tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng
phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã đƣợc trả thay.
Trong thƣơng mại quốc tế, rủi ro là một yếu tố luôn luôn xuất hiện trong các
thƣơng vụ khác nhau (rủi ro thanh toán, rủi ro không thực hiện hợp đồng ). Từ đó
nảy sinh nhu cầu bảo lãnh để hạn chế rủi ro. Đôi khi nhà xuất khẩu không nắm rõ

khả năng tài chính để thanh toán và mức độ tín nhiệm của nhà nhập khẩu, do vậy


11
nhà xuất khẩu sẽ yêu cầu nhà nhập khẩu phải có một tổ chức thƣờng là ngân hàng
đứng ra bảo lãnh thanh toán. Ngƣợc lại, do không biết rõ hoặc không tin tƣởng
nhau, nhà nhập khẩu có thể yêu cầu nhà xuất khẩu có ngân hàng đứng ra bảo lãnh
giao hàng hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng Lợi thế của các bên trong nghiệp vụ này:
- Đối với nhà nhập khẩu: đƣợc hƣởng một khoản vốn từ nhà xuất khẩu không
phải trả lãi (thực chất có thể giá bán đã tính vào lãi rồi). Chỉ phải trả một khoản phí
cho ngƣời bảo lãnh.
- Đối với nhà xuất khẩu: hoàn toàn yên tâm đến hạn sẽ đƣợc thanh toán nợ.
Nếu cần tiền, nhà xuất khẩu có thể đem bộ chứng từ chiết khấu tại ngân hàng khác.
- Đối với ngân hàng bảo lãnh: với bất cứ ngân hàng nào khi tiến hành nghiệp
vụ bảo lãnh có nghĩa là có đƣợc sự tín nhiệm về uy tín của bên nhập khẩu và bên
xuất khẩu. Khi bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng không phải bỏ ra một khoản
vốn nào cả mà chỉ lấy uy tín, danh dự của ngân hàng làm cơ sở đảm bảo sẽ thực hiện
nghĩa thay.
1.1.3.5 Tài trợ dưới hình thức Cho thuê tài chính
Theo quy định tại Khoản 11 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam
(đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2004), cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung
hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính giữa bên cho thuê là tổ chức tín
dụng với khách hàng thuê.
Cụ thể hoá những đặc trƣng của nghiệp vụ cho thuê tài chính, quy định của
pháp luật hiện hành ghi nhận giao dịch cho thuê tài chính phải có một trong những
dấu hiệu sau đây:
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê đƣợc chuyển quyền
sở hữu tài sản thuê hoặc đƣợc tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên;
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê đƣợc quyền ƣu tiên
mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời

điểm mua lại;
- Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết
để khấu hao tài sản thuê;


12
- Tổng số tiền thuê tài sản theo thoả thuận ít nhất phải tƣơng đƣơng với giá
trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
Vậy, xét về mặt bản chất giao dịch cho thuê tài chính có những đặc điểm nổi
bật sau đây:
Thứ nhất, cho thuê tài chính là phƣơng thức cấp tín dụng mà đối tƣợng là
một tài sản cụ thể. Khác với các hình thức cấp tín dụng khác mà trong đó tiền đƣợc
coi là phƣơng tiện tài trợ, trong hình thức cho thuê tài chính, công ty cho thuê tài
chính tiến hành cấp tín dụng bằng cách chuyển giao cho khách hàng (bên thuê) một
tài sản cụ thể (máy móc, dây chuyền sản xuất, phƣơng tiện vận tải hoặc động sản
khác) để bên thuê sử dụng trong một thời gian nhất định. Bên thuê có nghĩa vụ trả
toàn bộ tiền thuê theo thoả thuận. Tính chất thanh toán trọn vẹn của giao dịch cho
thuê tài chính cho thấy bản chất tín dụng của hoạt động này. Cũng tƣơng tự nhƣ
pháp luật một số quốc gia trên thế giới, pháp luật Việt Nam ghi nhận cho thuê tài
chính là hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, nhằm phù hợp với đặc điểm của
đối tƣợng cho thuê là những động sản có giá trị, thời gian cần thiết để khấu hao
thƣờng từ một năm trở lên.
Thứ hai, cho thuê tài chính là hình thức cho thuê mà hầu hết các quyền năng
của chủ sở hữu (bên cho thuê) đƣợc chuyển giao cho bên thuê. Khác với các hình
thức thuê tài sản thông thƣờng theo quy định của pháp luật dân sự, trong hoạt động
cho thuê tài chính, bên cho thuê thƣờng chỉ giữ quyền sở hữu “danh nghĩa” đối với
tài sản cho thuê (quyền này cho phép công ty cho thuê tài chính có thể thu hồi tài
sản cho thuê nếu bên thuê vi phạm hợp đồng), còn những quyền năng cụ thể đối với
tài sản cho thuê đƣợc chuyển giao hầu nhƣ hoàn toàn cho bên thuê. Đặc điểm này
đã đƣợc Uỷ ban về chuẩn mực kế toán quốc tế ghi nhận: “Cho thuê tài chính là loại

cho thuê có khả năng dịch chuyển về cơ bản tất cả những rủi ro và lợi ích gắn liền
với quyền sở hữu tài sản”.
Cho thuê tài chính quốc tế là một thỏa thuận hợp đồng trong đó bên đi thuê
đƣợc sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê và thực hiện chi trả các


13
khoản tiền định kỳ đƣợc quy định cụ thể trong hợp đồng cho thuê. Bên đi thuê có
thể thuê từ công ty cho thuê nội địa thông qua việc công ty này nhập khẩu đối tƣợng
thuê từ nhà xuất khẩu nƣớc ngoài, hoặc có thể thuê trực tiếp từ công ty cho thuê
nƣớc ngoài.
Điểm mấu chốt của hợp đồng thuê mua tài chính quốc tế là quyền sở hữu về
mặt pháp lý đối với tái sản của công ty cho thuê đƣợc tách khỏi việc sử dụng về mặt
kinh tế của tài sản đó (do bên đi thuê nắm giữ). Công ty cho thuê tập trung xem xét
khả năng của bên đi thuê trong việc tạo ra số thu đủ để chi trả tiền thuê chứ không
dự vào lịch sử tín dụng, tài sản hay số vốn của bên đi thuê. Bên thuê sử dụng tài sản
thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê đã đƣợc hai bên thỏa thuận và
không đƣợc hủy bỏ hợp đồng trƣớc hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê có thể
mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp
đồng thuê.
1.1.3.6 Tài trợ dưới hình thức Bao thanh toán
Tại Việt Nam, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 1096/2004/QĐ-
NHNN về Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên
theo quy định của Quy chế, Bao thanh toán chỉ là từ dịch của riêng Factoring, còn
Fofaiting lại chƣa có một tên gọi chuẩn bằng Tiếng Việt. Vì vậy, một số nhà kinh tế
có quan điểm muốn giữ nguyên từ Factoring và Fofaiting, đồng thời Factor và
Fofaiter lần lƣợc đƣợc hiểu là các nhà cung cấp dịch vụ Factoring và Forfaiting nói
trên mà không dịch tƣơng đƣơng sang tiếng Việt. Quan điểm của tác giả là thuật
ngữ Bao thanh toán bao gồm cả Factoring và Fofaiting.
Bao thanh toán Factoring là một cơ chế tài trợ vốn ngắn hạn, là sự thỏa

thuận giữa ngƣời xuất khẩu và nhà Factor, trong đó quy định ngƣời xuất khẩu
“bán’’ cho nhà Factor quyền đòi nợ từ ngƣời nhập khẩu trong một thời gian nhất
định. Với cơ chế này, ngƣời xuất khẩu sẽ đƣợc tài trợ ngay sau khi giao hàng; còn
nhà Factor sẽ giành lấy quyền đòi tiền từ ngƣời nhập khẩu với chi phí và rủi ro mà
hai bên đã thỏa thuận trƣớc.


14
Nhà Factor sẽ ứng trƣớc khoảng 80% số tiền sẽ đƣợc báo có trên tài khỏan
và sẽ quyết toán với ngƣời xuất khẩu sau khi đã thu tiền bằng phƣơng thức thanh
toán nhờ thu. Lãi ứng trƣớc bao thanh toán đƣợc tính theo số ngày thực ứng trƣớc.
Vì vậy, lãi này đƣợc thu định kỳ hàng tháng nhƣ một khoản vay thông thƣờng và tất toán
gốc một lần khi thu đƣợc tiền thanh toán, cộng thêm lãi chƣa trả tính đến thời điểm tất
toán. Với ý nghĩa nói trên ngƣời ta gọi Factoring là “Bao thanh toán tương đối’’
Factoring trong TMQT phần lớn dựa vào phƣơng thức thanh toán bằng
phƣơng thức ghi sổ ngắn hạn giữa các công ty hoặc là mới quan hệ hoặc quan hệ
với nhau đã lâu.
Bao thanh toán Forfaiting là một hình thức tài trợ vốn cho các công trình
hoặc việc xuất khẩu hàng hóa tƣ liệu sản xuất với thời hạn thanh toán năm bảy năm
trong tƣơng lai bằng một lãi suất cố định. Các nhà Forfaiter tài trợ loại hình này
theo nguyên tắc không hoàn lại, có nghĩa là Nhà cung cấp đƣợc chiết khấu toàn bộ
số tiền bán hàng miễn truy đòi (factoring cũng có loại miễn truy đòi đối với trƣờng
hợp ngƣời mua mất khả năng thanh toán, phá sản, không thanh toán trong vòng 90
ngày kể từ ngày đến hạn của hóa đơn, với điều kiện không có tranh chấp giữa ngƣời
mua và ngƣời bán). Forfaiting là chiết khấu miễn truy đòi trên cơ sở có bảo lãnh của ngân
hàng. Với ý nghĩa nói trên ngƣời ta gọi Forfaiting là “Bao thanh toán tuyệt đối’’
Forfaiting là một loại tài trợ có lợi cho nhà xuất khẩu, giúp nhà xuất khẩu
tránh đƣợc nhiều rủi ro nhƣ:
+ Rủi ro tín dụng do Ngân hàng bảo lãnh hoặc nhà nhập khẩu không thanh
toán đƣợc

+ Rủi ro chính trị do chiến tranh, bạo động, đảo chính gây ra khiến ngân
hàng và nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán
+ Rủi ro chuyển tiền khi mà chính phủ ở nƣớc nhập khẩu có thể quy định các
luật lệ hạn chế, ngăn cấm việc chuyển tiền ra nƣớc ngoài [1].
1.1.4 Ý nghĩa hoạt động tài trợ thương mại quốc tế của Ngân hàng thương mại
1.1.4.1 Đối với Ngân hàng thương mại
Đứng trên khía cạnh của ngân hàng, hoạt động tài trợ TMQT chiếm một vị
trí quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh doanh ngân
hàng. Bởi lẽ việc tài trợ TMQT không chỉ đơn thuần là cung cấp các dịch vụ và đáp


15
ứng nguồn vốn cho hoạt động XNK mà nó còn liên quan đến nhiều nghiệp vụ quan trọng
khác của ngân hàng nhƣ: thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, huy động vốn…
Ngoài ra, hoạt động tài trợ thƣơng mại quốc tế của NHTM có kỳ hạn gắn liền
với thời gian thực hiện thƣơng vụ, đối tƣợng tài trợ là các doanh nghiệp XNK trực
tiếp hoặc ủy thác. Đây là hình thức tài trợ mang lại hiệu quả cao, an toàn, đảm bảo
sử dụng vốn đúng mục đích và thời gian thu hồi vốn nhanh.
Thời gian tài trợ chủ yếu là ngắn hạn do gắn liền với thời gian thực hiện
thƣơng vụ, thƣờng kể từ lúc gom hàng, xuất hàng cho đến lúc nhận đƣợc tiền thanh
toán của ngƣời mua. Đối với ngƣời nhập khẩu thời gian này kể từ lúc nhận hàng tại
cảng cho đến khi bán hết hàng và thu tiền về. Kỳ hạn tài trợ ngắn phù hợp với kỳ
hạn huy động vốn của các NHTM thƣờng là dƣới một năm. Điều này giúp ngân
hàng tránh đƣợc rủi ro về thanh khoản.
Tài trợ TMQT đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích. Đồng vốn tài trợ gắn
liền với thƣơng vụ. Trong nhiều trƣờng hợp, vốn tài trợ đƣợc thanh toán thẳng cho
bên thứ ba mà không qua bên xin tài trợ nhƣ thanh toán tiền hàng nhập khẩu, thanh
toán tiền nguyên vật liệu cho các đại lý gom hàng cho ngƣời xuất khẩu Rõ ràng
việc làm này tránh đƣợc tình trạng ngƣời xin tài trợ vốn sử dụng vốn sai mục đích,
hạn chế đƣợc rủi ro tín dụng.

Tài trợ TMQT nâng cao tính an toàn cho ngân hàng thông qua việc quản lý
thu các nguồn thanh toán. Đối với ngƣời xuất khẩu, khi ngân hàng chuyển bộ chứng
từ giao hàng để đòi tiền ngƣời nhập khẩu nƣớc ngoài đã chỉ định việc thanh toán
tiền hàng phải thông qua tài khoản của ngƣời xuất khẩu mở tại ngân hàng. Đối với
ngƣời nhập khẩu, trong trƣờng hợp có tài trợ, ngân hàng sẽ buộc ngƣời nhập khẩu
tập trung tiền bán hàng vào tài khoản mở tại ngân hàng. Do vậy, nguồn thu để trả
các khoản tài trợ đƣợc ngân hàng quản lý rất chặt chẽ, tránh đƣợc tình trạng xoay
vốn của doanh nghiệp trong thời gian vốn tạm thời nhàn rỗi, dễ xảy ra rủi ro.
Hiệu quả của ngân hàng trong tài trợ XNK còn thể hiện thông qua lãi suất.
Có nhiều loại lãi suất trong quá trình tài trợ: lãi cho vay, lãi chiết khấu, lãi cho vay
bắt buộc Thêm vào đó, để đƣợc tài trợ XNK ngân hàng thƣờng yêu cầu doanh


16
nghiệp sử dụng thêm các sản phẩm dịch vụ khác của ngân hàng nhƣ thanh toán
quốc tế, thanh toán nội địa, bảo lãnh, mua bán ngoại tệ , qua đó tăng thêm thu
nhập cho Ngân hàng nhờ việc thu phí.
Cuối cùng, thông qua tài trợ TMQT, ngân hàng còn mở rộng đƣợc các quan
hệ với các doanh nghiệp và ngân hàng nƣớc ngoài, nâng cao uy tín ngân hàng trên
trƣờng quốc tế.
1.1.4.2 Đối với doanh nghiệp
Tài trợ XNK của ngân hàng giúp doanh nghiệp thực hiện đƣợc những thƣơng
vụ lớn: có những thƣơng vụ trong ngoại thƣơng đòi hỏi nguồn vốn rất lớn để thanh
toán tiền hàng. Do đặc điểm của vận chuyển hàng hải, các mặt hàng thiết yếu nhƣ
phân bón, sắt thép, gạo thƣơng hai bên mua bán với số lƣợng nguyên tàu hàng
nhằm tiết kiệm chi phí vận chuyển, thuận lợi trong công tác giao nhận nên kéo theo
giá trị lô hàng cũng rất lớn. Trong trƣờng hợp này, vốn lƣu động của doanh nghiệp
không đủ để chuẩn bị hàng xuất hoặc thanh toán tiền hàng. Tài trợ ngân hàng cho
XNK là giải pháp giúp doanh nghiệp thực hiện đƣợc những hợp đồng dạng này.
Trong quá trình đàm phán, thƣơng lƣợng, ký kết hợp đồng ngoại thƣơng, nếu

doanh nghiệp trƣớc đó đã thông qua ngân hàng về việc tài trợ và thanh toán quốc tế,
có nghĩa là doanh nghiệp đã xác định ngân hàng phục vụ mình thì sẽ tạo đƣợc lợi
thế trong quá trình này. Vì, nhƣ đã rõ, hợp đồng ngoại thƣơng đƣợc thực hiện thông
qua ngân hàng phục vụ ngƣời mua và ngƣời bán, đã thỏa thuận trƣớc với ngân hàng
nghĩa là doanh nghiệp đã xác định đƣợc năng lực thực hiện hợp đồng. Điều này có ý
nghĩa quan trọng trong tiến trình thƣơng lƣợng, đàm phán.
Tài trợ TMQT làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện
hợp đồng: thông qua tài trợ của ngân hàng, doanh nghiệp nhận đƣợc vốn để thực
hiện thƣơng vụ. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, vốn tài trợ giúp doanh nghiệp thu
mua hàng đúng thời vụ, gia công chế biến và giao hàng đúng thời điểm. Ngoài ra,
việc tham gia tài trợ các dự án đầu tƣ thay đổi dây chuyền công nghệ, máy móc thiết
bị của ngân hàng cũng tạo điều kiện giúp doanh nghiệp phát triển đƣợc quy mô sản
xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.


17
Cuối cùng, tài trợ của ngân hàng giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín trên thị
trƣờng quốc tế: thông qua tài trợ của ngân hàng, doanh nghiệp thực hiện đƣợc
những thƣơng vụ lớn trôi chảy, quan hệ đƣợc với khách hàng tầm cỡ trên thế giới,
từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trƣờng thế giới.
1.1.4.3 Đối với nền kinh tế đất nước
Tài trợ TMQT của NHTM tạo điều kiện cho hàng hóa XNK lƣu thông trôi
chảy, liên tục, góp phần tăng tính năng động của nền kinh tế, ổn định thị trƣờng.
Ngoài ra, tài trợ của ngân hàng còn tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động doanh
nghiệp, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, làm động cơ thúc đẩy sự phát triển của
toàn bộ nền kinh tế.
Nhƣ vậy hoạt động tài trợ TMQT xuất hiện nhƣ là một yêu cầu khách quan
đã thể hiện đƣợc vai trò quan trọng của mình với hoạt động XNK cũng nhƣ đối với
nền kinh tế. Với sự phát triển ngày càng đa dạng và phong phú của các hình thức tài
trợ TMQT mà các NHTM Việt Nam đã cung cấp, các doanh nghiệp XNK có điều

kiện thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình, giảm bớt rủi ro trong
giao dịch ngoại thƣơng.
1.2. Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thƣơng mại trong hoạt động tài trợ
thƣơng mại quốc tế
1.2.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại
Mặc dù có rất nhiều các công trình nghiên cứu về năng lực hay lợi thế cạnh
tranh song cho đến nay tất cả các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng rất khó có thể đƣa
ra một định nghĩa chuẩn về khái niệm năng lực cạnh tranh đúng cho mọi trƣờng hợp.
Đã có rất nhiều các học thuyết đƣợc xây dựng để phân tích về năng lực cạnh
tranh của các quốc gia cũng nhƣ của các công ty, các doanh nghiệp. Nổi bật nhất
trong các học thuyết về năng lực cạnh tranh gần đây là học thuyết của Michael
Porter. Trong các tác phẩm của mình, ông đã có những nghiên cứu rất toàn diện về
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, công ty, của ngành cũng nhƣ của quốc gia.
Theo ông, “để có thể cạnh tranh thành công, các doanh nghiệp phải có được lợi thế
cạnh tranh dưới hình thức hoặc là có được chi phí sản xuất thấp hơn hoặc là có khả


18
năng khác biệt hóa sản phẩm để đạt được những mức giá cao hơn trung bình. Để
duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần ngày càng đạt được những lợi thế
cạnh tranh tinh vi hơn, qua đó có thể cung cấp những hàng hóa hay dịch vụ có chất
lượng cao hơn hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn”. Và ông cũng thừa nhận, không
thể đƣa ra một định nghĩa tuyệt đối về khái niệm năng lực cạnh tranh.
Trong khuôn khổ đề tài này, khái niệm năng lực cạnh tranh của các NHTM
có thể đƣợc tóm lại nhƣ sau: “Năng lực cạnh tranh của một ngân hàng là khả
năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở
rộng thị phần, đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành và liên
tục tăng đồng thời đảm bảo sự hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống
đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh”[2].
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại

trong hoạt động tài trợ thương mại quốc tế
Trên thế giới, trong lĩnh vực ngân hàng, chƣa có một phƣơng pháp luận
chung đƣợc kiểm nghiệm và chứng minh để đánh giá năng lực cạnh tranh của các
ngân hàng hay hệ thống các ngân hàng. Vì vậy, việc nghiên cứu đƣa ra một hệ
thống các chỉ tiêu đáng tin cậy để đánh giá năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực ngân
hàng, cụ thể là trong hoạt động tài trợ TMQT không phải là một việc dễ dàng.
Trong khuôn khổ đề tài này, tác giả mạnh dạn đƣa ra một số chỉ tiêu đánh giá năng
lực cạnh tranh của NHTM trong hoạt động tài trợ TMQT, bao gồm các chỉ tiêu tài
chính và chỉ tiêu phi tài chính.
1.2.2.1. Chỉ tiêu tài chính
Có thể nói, tiềm lực tài chính là thƣớc đo sức mạnh của một ngân hàng tại
một thời điểm nhất định. Tiềm lực tài chính thể hiện qua các chỉ tiêu:
Mức độ an toàn vốn và khả năng huy động vốn: Tiềm lực về vốn thể hiện
qua các chỉ tiêu cụ thể nhƣ: quy mô vốn chủ sở hữu, hệ số an toàn vốn (CAR). Hệ
số CAR đƣợc tính bằng Vốn chủ sở hữu/Tài sản có rủi ro (%), trong đó vốn chủ sở
hữu bao gồm vốn điều lệ và các quỹ, tài sản Có rủi ro bao gồm tài sản nội bảng và
ngoại bảng đƣợc điều chỉnh theo hệ số rủi ro tƣơng ứng. Tiềm lực về vốn chủ sở


19
hữu phản ánh sức mạnh tài chính của một ngân hàng và khả năng chống đỡ rủi ro
của ngân hàng đó. Cách thức mà một ngân hàng có khả năng cơ cấu lại vốn, huy
động thêm vốn cũng là một khía cạnh phản ánh tiềm lực về vốn của một ngân hàng.
Đây là một trong những nguồn lực quan trọng nhất quyết định khả năng cạnh tranh
của một ngân hàng nói chung và của hoạt động tài trợ TMQT của ngân hàng nói riêng.
Chất lượng tài sản Có phản ánh “sức khỏe” của một ngân hàng, thể hiện
thông qua các chỉ tiêu nhƣ tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản có, mức độ lập dự phòng và
khả năng thu hồi các khoản nợ xấu, mức độ tập trung và đa dạng hóa của danh mục
tín dụng, rủi ro tín dụng tiềm ẩn
Mức sinh lời là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của ngân hàng đồng thời

cũng phản ánh một phần kết quả cạnh tranh của ngân hàng. Chỉ tiêu mức sinh lời có
thể đƣợc phân tích thông qua những chỉ tiêu cụ thể nhƣ: tổng lợi nhuận sau thuế, chi
tiết hơn đó là lợi nhuận thu đƣợc từ hoạt động tài trợ TMQT, tốc độ tăng trƣởng lợi
nhuận, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài
sản Có (ROA), các chỉ tiêu về mức sinh lợi trong mối tƣơng quan với chi
phí Trong đó:
ROE =

ROA =

Khả năng thanh khoản đƣợc thể hiện thông qua các chỉ tiêu nhƣ khả năng
thanh toán tức thì, khả năng thanh toán nhanh, đánh giá định tính về năng lực quản
lý thanh khoản của các NHTM đặc biệt là khả năng quản lý rủi ro thanh khoản của
NHTM [2].
1.2.2.2. Chỉ tiêu phi tài chính
Các chỉ tiêu phi tài chính để đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM nói
chung và hoạt động tài trợ TMQT của ngân hàng nói riêng bao gồm các chỉ tiêu sau:
Thứ nhất: Chất lượng và mức độ đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ tài
trợ TMQT
Thu nhập sau thuế
Vốn chủ sở hữu
Thu nhập sau thuế
Tổng tài sản Có


20
Chất lƣợng luôn là chỉ tiêu quan trọng khi đánh giá năng lực cạnh tranh về
sản phẩm dịch vụ của các doanh nghiệp, đặc biệt là ngân hàng. Các yếu tố phản ánh
năng lực cạnh tranh về chất lƣợng bao gồm: khả năng đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu
của khách hàng, tốc độ và khả năng thao tác các nghiệp vụ, thái độ phục vụ Trong

các yếu tố này, yếu tố về khả năng đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của khách hàng là
quan trọng nhất. Khách hàng có thể sẵn sàng chi trả phí cao hơn cho một dịch vụ tốt
hơn. Hiện nay, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng về chất lƣợng sản phẩm dịch vụ
ngày càng trở nên gay gắt, vì vậy để nâng cao năng lực cạnh tranh đòi hỏi các ngân
hàng phải không ngừng hoàn thiện, nâng cao chất lƣợng sản phẩm dịch vụ hiện có,
đặc biệt là các sản phẩm dịch vụ tài trợ TMQT.
Một ngân hàng có nhiều loại hình dịch vụ cung cấp phù hợp với nhu cầu thị
trƣờng và năng lực quản lý của ngân hàng sẽ là một ngân hàng có lợi thế cạnh tranh
cao. Sự đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ tài trợ TMQT, một mặt tạo cho ngân
hàng sự phát triển ổn định hơn, mặt khác cho phép ngân hàng phát huy lợi thế nhờ
quy mô. Tất nhiên, sự đa dạng hóa cần phải đƣợc thực hiện trong tƣơng quan so với
các nguồn lực hiện có của ngân hàng và phải gắn liền với chất lƣợng và hiệu quả sử
dụng. Nếu không, việc triển khai quá nhiều sản phẩm dịch vụ có thể khiến ngân
hàng kinh doanh không hiệu quả do dàn trải quá mức các nguồn lực.
Thứ hai: Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nguồn lực không thể thiếu của bất kỳ doanh nghiệp cũng
nhƣ ngân hàng nào. Năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực nói chung thể hiện ở
những yếu tố nhƣ trình độ đào tạo, trình độ thành thạo nghiệp vụ, động cơ phấn đấu,
mức độ cam kết gắn bó với doanh nghiệp Nhân sự của một ngân hàng là yếu tố
mang tính kết nối các nguồn lực của ngân hàng đồng thời cũng là cái gốc của mọi
cải tiến hay đổi mới. Nhân lực trong hoạt động tài trợ TMQT có trình độ cao, nhiều
kinh nghiệm, và có tinh thần trách nhiệm với công việc sẽ là những ƣu thế lớn của
một ngân hàng và góp phần quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh của hoạt động
tài trợ TMQT của chính ngân hàng đó.

×