Tải bản đầy đủ (.docx) (184 trang)

Phát triển ctgd giáo trình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.13 MB, 184 trang )









Chương 1
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC TRONG BỐI CẢNH MỚI
1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
1.1. Bối cảnh quốc tế
Trong suốt gần 60 năm qua, chương trình giáo dục(CTGD) ở các cấp học, bậc học trong
nền giáo dục của ta được biên soạn, thực thi, v.v trên cơ sở kế thừa các CTGD có trước
đó, rồi cải tiến, cập nhật, nâng cao cho phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội, khoa học
công nghệ của giai đoạn sau. Các nhà giáo dục đã đưa vào CTGD những tư tưởng lớn,
những tác phẩm có giá trị, các phát minh khoa học, những sự kiện chính trị xã hội to lớn
v.v với mong muốn truyền lại cho các thế hệ sau những thành tựu to lớn của nhân loại
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống con người.
Tuy nhiên, chỉ trong vòng 15 năm của thập kỉ đầu thế kỉ XXI, những điều chúng ta tích
luỹ được trong hàng chục năm qua dường như khơng đủ để giải thích cho những điều
đang và sẽ diễn ra.
Thập niên cuối của thế kỉ trước đã chứng kiến một điều mà Kenneth Boulding, nhà tương
lai học của những năm 60, gọi là sự phá vỡ của hệ thống (system break). Boulding xem
sự phá vỡ của hệ thống như sự tan vỡ của các mơ hình tư duy liên quan đến các hệ thống
của con người. Nói cách khác, sự phá vỡ như vậy tạo ra cái mà Alvin Tofler gọi là “cú
sốc của tương lai”, ở đó lối tư duy có tính truyền thống khơng cịn có thể giúp chúng ta
giải quyết vấn đề. Kenneth Clark, một đồng nghiệp của Boulding trong những năm 60, đã
lưu ý rằng, trong những điều kiện như vậy, sự tiên đốn có thể trở thành những thơng tin
chính xác nhất về tương lai. “Định luật” của Clark khẳng định: “Khi một nhà thông thái
cho rằng một điều gì đó có thể xảy ra, ơng ta có thể đúng. Nhưng nếu ơng ta cho rằng


một điều gì đó khơng thể xảy ra, thì gần như có thể nói rằng ơng ấy sai.”
Đó cũng chính là đặc điểm của giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Các nhà giáo dục đang
bị choáng ngợp trước những thay đổi to lớn do con người tạo ra trong mọi lĩnh vực, và
không biết lựa chọn những yếu tố gì để truyền đạt cho con cháu mai sau.
Trong những năm 90 của thế kỉ trước, Internet xuất hiện và làm thay đổi mọi quan điểm
truyền thống của giáo dục về nhà trường, lớp học, về dạy, học…
Tháng 5/2000, Bill Gates, người sáng lập ra Microsoft đã nói: “Chúng ta thật ra mới ở
giai đoạn đầu của cuộc cách mạng. Trong vòng 10 năm tới, chúng ta sẽ thực hiện nhiều
thay đổi đối với xã hội hơn là những gì đã làm trong 25 năm qua.”
Ở Hoa Kì, năm 1997, 60% hộ gia đình, trong đó trẻ em có máy tính cá nhân và 11 triệu
trẻ em dưới 15 tuổi dùng Internet. Từ 1996-1998, địa chỉ trang Web tăng từ 300.000 lên
2,5 triệu, đến tháng 7/2000 là 10 triệu.
Cuối năm 2002, số người không nói tiếng Anh sử dụng Internet lớn hơn số người nói
tiếng Anh. Năm 2005, số người nói tiếng Trung Quốc dùng Internet lớn hơn số người nói
tiếng Anh dùng Internet. Những số liệu trên có ý nghĩa gì đối với các nhà giáo dục?


Những thay đổi to lớn nói trên như đang nói lên một điều là kỉ nguyên cũ đã qua và một
kỉ nguyên mới đang đến; sự phá vỡ của hệ thống, một sự kiện chưa được hiểu một cách
đầy đủ đã xảy ra và còn làm biến đổi nền giáo dục của cả nhân loại. Và những người làm
giáo dục cần có cách suy nghĩ mới để định hướng nền giáo dục trong kỉ nguyên mới này.
1.1.1. Các xu thế chuyển đổi của thời đại
Theo Phan Trọng Ngọ và các cộng sự, bối cảnh thế giới hiện đại có những đặc trưng sau:
a) Bước chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội trí thức
Xã hội cơng nghiệp, với nền tảng của nó là nền kinh tế cơng nghiệp, là một mốc
quan trọng trong tiến trình phát triển của xã hội lồi người. Xã hội cơng nghiệp đã tạo ra
những bước tiến lớn về năng suất lao động, về lượng của cải vật chất, về tốc độ đơ thị
hố, tạo điều kiện để phát triển khoa học công nghệ, văn hố, giáo dục. Đi liền với trình
độ phát triển của xã hội công nghiệp, những đặc trưng khác của xã hội như kiến trúc
thượng tầng, phương thức tư duy, lối sống, quan hệ xã hội... cũng được phát triển và vận

hành trên cơ sở của xã hội công nghiệp. Xã hội cơng nghiệp cũng để lại sau nó những hệ
luỵ không nhỏ: sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm mơi trường, phân hố giàu
nghèo, thất nghiệp, bệnh tật,…
Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và cơng nghệ, nhất là công nghệ
thông tin và truyền thông (CNTT&TT), loài người đang bước sang một kỉ nguyên mới, kỉ
nguyên thơng tin và kinh tế trí thức, và đương nhiên xã hội cũng dần chuyển sang xã hội
tri thức.
Trong xã hội trí thức, mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội được vận hành và phát
triển nhờ cậy vào trí thức. Giá trị của mọi sản phẩm trong nền kinh tế trí thức khơng phụ
thuộc vào khối lượng vật chất làm ra nó, mà được quy định bởi hàm lượng chất xám tích
tụ trong đó. Với cách hiểu như vậy, xã hội trí thức sẽ phát triển dựa trên 4 trụ cột là: thể
chế kinh tế, giáo dục và đào tạo, khoa học-công nghệ và hạ tầng thông tin. Điều này làm
thay đổi tận gốc quan niệm truyền thống về giáo dục và đào tạo, đưa giáo dục và đào tạo,
cùng với khoa học và công nghệ, lên tầm cao mới, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
quyết định tương lai của cả quốc gia, dân tộc.
b) Cuộc cách mạng CNTT &TT
Gắn liền với bước chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội tri thức, tạo tiền đề
cho xã hội tri thức hình thành và phát triển là cuộc các mạng về CNTT &TT. Cuộc các
mạng này vẫn đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, nhào nặn lại mọi mặt của đời
sống chính trị, kinh tế - xã hội, văn hoá, xã hội, giáo dục và đào tạo buộc mỗi ngành, mỗi
người phải tư duy lại về cách làm việc trong hiện tại và tương lai. CNTT &TT đang trở
thành công cụ không thể thiếu không những trong lao động nghề nghiệp mà còn là nguồn
năng lượng vô tận cho tư duy, là kho tàng thông tin khổng lồ cho tìm tịi, sáng tạo. CNTT
&TT cũng đang làm thay đổi tận gốc quan niệm truyền thống về nhà trường, về dạy, về
học, về người dạy, người học. Giáo dục khơng cịn là sự truyền thụ kiến thức của thế hệ
trước cho thế hệ sau, người thầy lên lớp không phải để truyền thụ kiến thức, mà để chia


sẻ thơng tin, giúp người học xử lí thơng tin, đồng hố với các tri thức đã có để chiếm lĩnh
những kiến thức mới. Người học sẽ trở thành đồng chủ thể trong quá trình chiếm lĩnh

kiến thức mới, tự học, tự nghiên cứu và tự chịu trách nhiệm về kết quả học tập của bản
thân.
c) Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Cụm từ Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được sử dụng trong Diễn đàn kinh
tế thế giới đã khai mạc với chủ đề Làm chủ Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào
Ngày 20/01/2016, với sự tham dự của 2.500 đại biểu từ hơn 100 quốc gia, cùng nhiều
quan chức lớn Phó tổng thống Mỹ Joe Biden, Thủ tướng Anh David Cameron, Bill Gates,
CEO của Microsoft Satya Nadella, Chủ tịch của Alibaba Jack Ma.
Khái niệm Industry 4.0 hay là Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư lần đầu tiên
được đề cập trong bản Kế hoạch hành động chiến lược công nghệ cao được chính phủ
Đức thơng qua vào năm 2012.
Theo GS. Klaus Schwab, chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Industry 4.0 (tiếng
Đức là Industrie 4.0) hay Cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư (FIR), là một thuật ngữ bao
gồm một loạt các cơng nghệ tự động hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu và chế tạo. FIR được
định nghĩa là một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi
giá trị đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet của vạn vật và
Internet của các dịch vụ.
FIR tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các nhà máy thông minh. Trong các nhà
máy thông minh này, các hệ thống vật lý không gian ảo sẽ giám sát các quá trình vật lý,
tạo ra một bản sao ảo của thế giới vật lý. Với Internet của vạn vật, các hệ thống vật lý
không gian ảo này tương tác với nhau và với con người theo thời gian thực, và thông qua
Internet của các dịch vụ thì người dùng sẽ được tham gia vào chuỗi giá trị thông qua việc
sử dụng các dịch vụ này.
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, nhiều cuộc cách mạng công nghiệp đã diễn
ra. Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên trải dài từ năm 1760 đến khoảng năm 1840,
được bắt đầu bằng việc xây dựng các tuyến đường sắt và phát minh ra động cơ hơi nước,
mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại kỷ nguyên sản xuất cơ khí. Tiếp theo,
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai được bắt đầu vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ
20, với sản xuất hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của điện và dây chuyền lắp ráp.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu vào những năm thập niên 1960 và

thường được gọi là cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng số bởi vì nó được xúc tác
bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập
niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990). Bối cảnh lịch sử FIR: Trước sự phát
triển của các công nghệ số với phần cứng máy tính, phần mềm và hệ thống mạng đang
trở nên ngày càng phức tạp hơn, được tích hợp nhiều hơn và vì vậy đang làm biến đổi xã
hội và nền kinh tế toàn cầu.


FIR đã bắt đầu vào thời điểm chuyển giao sang thế kỷ này và xây dựng dựa trên
cuộc cách mạng số, đặc trưng bởi Internet ngày càng phổ biến và di động, bởi các cảm
biến nhỏ và mạnh mẽ hơn với giá thành rẻ hơn, bởi trí tuệ nhân tạo và học máy.

Hình 1:Bốn cuộc cách mạng cơng nghiệp
Bối cảnh đó đang đặt ra cho các nhà giáo dục những thách thức chưa từng có:
cung cấp những cơng dân tồn cầu, sáng tạo và khởi nghiệp, có hồi bão vươn lên
trong một thế giới khi “impossible is nothing”.Cuộc cách mạng lần thứ 4 đã và đang
đặt ra những thách thức cho nền giáo dục Việt Nam.
d) Tồn cầu hố
Cùng với sự xuất hiện của Internet và sự phát triển như vũ bão của khoa học và
cơng nghệ thì xu thế và các q trình tồn cầu hố đang diễn ra là một hệ quả tất yếu.
Tồn cầu hố là dịng chảy xuyên biên giới của thông tin, tri thức, ý tưởng, công
nghệ, là sự luân chuyển tự do giữa các quốc gia về hàng hoá, dịch vụ, nguồn vốn, kể cả
vốn con người. Dịng chảy đó dẫn đến các tiến trình hội nhập tất yếu về kinh tế, văn hố,
giáo dục giữa các quốc gia, tạo ra một thế giới phẳng dần; trong đó các quốc gia, dân tộc
xích lại gần nhau, hợp tác, cạnh tranh để cùng tồn tại và phát triển. Trong bối cảnh đó,
các hệ thống giáo dục được quốc tế hoá, yếu tố địa giáo dục bị thu hẹp; con người được
học, được giáo dục không phải chỉ để biết, để làm mà còn để chung sống trong một mái
nhà chung là Trái Đất.
e) Đấu tranh xác lập những giá trị văn hoá cốt lõi
Về cơ bản, các giá trị cốt lõi của nhân loại, như hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ,

hợp tác và phát triển vẫn đang được gìn giữ và tơn trọng, nhưng những vấn đề như xung


đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo vẫn tiếp tục diễn biến phức
tạp và chưa có hồi kết.
Mặt khác, sự phát triển của xã hội tiêu dùng với sự trợ giúp của CNTT &TT đã
làm cuộc sống của con người ngày càng phụ thuộc vào những sản phẩm do chính mình
tạo ra và trượt theo những giá trị thực dụng, tầm thường.
Trong bối cảnh đó, con người đang dần ý thức được mối nguy hại tiềm tàng về sự
xói mịn các giá trị văn hố cốt lõi được sàng lọc và tích tụ qua các thời đại và hướng
giáo dục đến việc củng cố, phát triển trong thế hệ trẻ những giá trị này, làm cơ sở cho
việc xây dựng một ngôi nhà chung cho cả thế giới.
1.1.2. Sự tác động của các xu thế thời đại tới sự phát triển của giáo dục thế giới
Cũng theo các tác giả trên, những xu thế này có tác động to lớn tới sự phát triển của giáo
dục. Đó là:
a) Sự thay đổi vai trị của giáo dục
Giáo dục với tư cách là một lĩnh vực gắn liền với lịch sử phát triển của nhân loại
với vai trị ngun thuỷ của nó là “xã hội hố cá nhân, phát triển con người, giữ gìn và
phát triển văn hố”.
Trong xã hội cơng nghiệp, giáo dục có vai trò mới là động lực phát triển kinh tế xã hội thơng qua đào tạo nguồn nhân lực; mơ hình phát triển kinh tế được mở rộng thành
mơ hình phát triển con người, trong đó con người khơng chỉ là phương tiện mà chủ yếu
và trước hết là mục tiêu của tăng trưởng kinh tế.
Như vậy giáo dục có thêm vai trò mới là phát triển con người và là chìa khố để
giải quyết các vấn đề xã hội; tức là giáo dục không chỉ tạo ra vốn con người mà còn tạo
ra vốn xã hội, đảm bảo sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, cũng như góp phần giải
quyết thành cơng những vấn đề của tồn nhân loại, như bảo vệ môi trường, ngăn chặn các
hiểm hoạ bệnh tật, chiến tranh,…
Và cũng chính vì những ngun nhân đó, trong hầu hết các quốc gia, giáo dục
được xác định là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển bền
vững.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang đặt ra cho giáo dục Việt Nam
nhiều thách thức. Chúng ta cần đổi mới tư duy về vai trò của giáo dục trong cuộc cách
mạng cơng nghiệp 4
Nói đến cuộc cách mạng công nghiệp thứ 4 là người ta cứ nghĩ đến là cuộc cách
mạng dành cho các ngành khoa học kĩ thuật với những công nghệ mới tạo ra nhiều sản
phẩm máy móc đa dạng, hiện đại rất có giá trị sử dụng cao, thậm chí có thể thay thế con
người trong nhiều lĩnh vực hoạt động. Đó là các loại hệ thống tự động : Máy cảm ứng từ,
cửa tự đóng, báo động khi có nguy hiểm, xe ơ tơ tự lái, máy bay không người lái và nhiều
loại phương tiện tự lái khác. Hay công nghệ Robot đã đã thay thế con người trong đời
sống hàng ngày làm các công việc nhà, thay cho nhân viên bảo vệ, thay thế công nhân lắp


ráp sản xuất ô tô; trong nhiều công đoạn của các dây chuyền sản xuất thuốc chữa bệnh
Chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh nối mạng Internet, mọi người dân đều có thể
theo dõi các buổi chất vấn của Quốc hội với các thành viên Chính phủ cũng như theo dõi
những biến chuyển từng giờ trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ diễn ra vào ngày 8-11vừa
quaCũng có thể dùng những phương tiện đó để gửi tiền, gọi taxi Uber (với giá rẻ), hay
đặt vé máy bay, mua một sản phẩm ưng ý giao bán trên mạng; thực hiện thanh toán qua
mạng; kết nối bạn bè trên Facebook, nghe nhạc hay xem phim đều có thể được thực hiện
từ xa.
Cũng chính trong bối cảnh đó CMCN4 đã đặt giáo dục, khoa học cơng nghệ vào
một vị trí hồn tồn khác. Giáo dục không chỉ là dịch vụ công, hay một loại hình phúc lợi
xã hội, mà đã trở thành động lực phát triển xã hội, và thông qua việc cung ứng nguồn
nhân lực chất lượng cao, giáo dục, đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ đang trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, làm ra các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, giá
trị cao. Vì vậy cần có nhận thức đúng về vai trị rất mới của giáo dục để có các chính
sách phù hợp.
b) Một bộ phận của giáo dục cùng với khoa học và công nghệ trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp
Khi thế giới chuyển sang nền kinh tế trí thức với đặc trưng là các sản phẩm có giá

trị được quy định bởi hàm lượng chất xám và độ tiêu hao ngun liệu thì thơng tin trở
thành năng lượng cho sản xuất, và trí thức được xem là tư liệu sản xuất. Điều đó làm cho
khoa học, với tư cách là cỗ máy sản sinh trí thức, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Mặt khác, nếu khoa học được coi là cỗ máy vận hành nền kinh tế trí thức, th• giáo
dục chính là nguồn cung cấp nhiên liệu cho cỗ máy đó. Như vậy khơng chỉ khoa học, mà
giáo dục (đặc biệt là giáo dục đại học) cũng đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
(Phạm Đỗ Nhật Tiến 2008).
Nếu một bộ phận của giáo dục trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì vị trí của
giáo dục cũng có sự chuyển dịch căn bản từ “thượng tầng kiến trúc sang hạ tầng kinh tế”.
Để hội nhập với thế giới văn minh đang tiến bước mạnh mẽ vào kỷ nguyên cách mạng
công nghiệp thứ 4, điều quan trọng trước hết là phải đổi mới đúng hướng hiện đại hóa
của nền giáo dục. Phải tạo ra nguồn lực tài năng, có trình độ học vấn và chun mơn kĩ
thuật cao, sắc sảo có khả năngthích ứng nhanh, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, biết vận
dụng CNTT để trao đổi tri thức, biết kế thừa tri thức khổng lồ- nguồn liệu mở, biết tạo
kiến thức mới nhằm đem lại năng suất, chất lượng vào quá trình đào tạo.
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là sẽ là cách mạng cơng nghệ số, chính vì vậy
nguồn nhân lực CNTT có kỹ năng cao là rất cần thiết trong quá trình phát triển chung của
đất nước".
Giờ đây, trường học khơng còn là nơi độc quyền trong việc tạo ra tri thức mới và
chuyển giao tri thức qua các thế hệ. Hoạt động nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học
ứng dụng đã và đang tiếp tục chuyển dịch sang khu vực doanh nghiệp với ngân quỹ dành
cho nó ngày càng lớn. Đối với việc đào tạo, trường học cũng không còn là nguồn cung


cấp kiến thức duy nhất hay chủ yếu như xưa nữa. Kiến thức và thông tin tăng với cấp số
nhân, và có thể tiếp cận rất dễ dàng, khiến câu hỏi cốt lõi ngày nay trên thị trường lao
động khôn phải là “bạn đã biết được những gì?” mà là “bạn có khả năng học hỏi được
điều gì?” và đặc biệt là “bạn có khả năng thay đổi suy nghĩ và quan điểm của bạn để học
một cách tiếp cận hồn tồn mới hay khơng?”. Năng lực chọn lọc, đánh giá, sử dụng
thông tin, năng lực tự học trở thành điều kiện sống còn trong nền kinh tế tri thức.

c) Giáo dục phát triển theo hướng mở, gắn liền với đời sống xã hội
Trong xã hội trí thức, lí luận mang bản chất cơng nghệ, được hình thành từ cơng
nghệ và trong sự phát triển của công nghệ, đan xen và cùng phát triển. Để phục vụ cho xu
thế đó, giáo dục cũng phải phát triển theo hướng mở, lấy những vấn đề trong cuộc sống
làm bối cảnh dạy học để đào tạo những người có năng lực sử dụng được kiến thức, kĩ
năng vào giải quyết thành công những vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống thực.
1.2. Bối cảnh trong nước
1.2.1. Xu thế về dân cư
- Cơ hội dân số vàng (cứ 2 người trong độ tuổi lao động thì chỉ có 1 người phụ
thuộc). Tuy nhiên có tới 86% số người từ 15 tuổi trở lên chưa qua đào tạo.
- Giảm sinh, tuổi thọ nâng cao, xu thế già hố, tỉ lệ HS đến trường giảm.Theo ước
tính, năm 2015 số giáo viên Tiểu học của năm 2015 sẽ ít hơn năm 2014 khoảng 14.700
người, tức giảm với tỉ lệ 0,4% năm.Ngay trong giai đoạn dân số vàng, Việt Nam cũng
bước vào giai đoạn dân số già hoá trong vịng 25 năm và sau đó là dân số già. Một vấn đề
đặt ra là bên cạnh 4 giai đoạn truyền thống, gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ cập,
giáo dục đào tạo sau phổ cập, đào tạo tiếp tục sau khi rời ghế nhà trường, cần đưa thêm
giai đoạn thứ năm là học tập sau khi về hưu.
1.2.2. Xu thế kinh tế
a) Hội nhập kinh tế dẫn tới hội nhập giáo dục
Việc Việt Nam gia nhập WTO (trong đó có GATS), APEC, TPP và trở thành
thành viên cộng đồng ASEAN vào năm 2015 đang đặt ra cho giáo dục những thách thức
và cơ hội mới. Giáo dục Việt Nam được tiếp cận với các nền giáo dục tiên tiến, có cơ hội
để học tập và hội nhập bình đẳng. Mặt khác đây cũng là thách thức khơng nhỏ, địi hỏi
các nhà quản lí giáo dục nâng cao sức cạnh tranh với các cơ sở giáo dục có yếu tố nước
ngoài. Ngoài việc các nhà đầu tư được tiếp cận thị trường giáo dục trong các lĩnh vực
giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và giáo dục người lớn, họ cịn có thể mở các cơ
sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông cho HS Việt Nam. Tất cả những vấn đề nêu
trên buộc chúng ta phải có những chính sách phù hợp để giáo dục Việt Nam có thể vừa
giữ được bản sắc dân tộc, vừa chủ động trên lộ trình hội nhập quốc tế.
b) Sự xuất hiện của kinh tế trí thức

Đại hội X và XI của Đảng ta đã khẳng định chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hố
hiện đại hố gắn với phát triển kinh tế trí thức. Để xây dựng nền kinh tế trí thức thì đại


chúng hoá giáo dục đại học là điều kiện tiên quyết; đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục
phổ thơng, lấy rèn luyện phẩm chất, năng lực là cốt lõi, là điều kiện bắt buộc.
c) Đổi mới mơ hình tăng trưởng
Chuyển từ mơ hình tăng trưởng theo chiều rộng, chủ yếu dựa và tận dụng nhân
công giá rẻ và khai thác tài ngun thiên nhiên, sang mơ hình tăng trưởng theo chiều sâu,
đẩy mạnh ứng dụng khoa học kĩ thuật và công nghệ, tăng năng suất lao động. Sự chuyển
đổi mơ hình tăng trưởng kinh tế địi hỏi sự chuyển đổi tương ứng của mơ hình phát triển
giáo dục. Trong Thơng báo 242-TB/TW, Bộ Chính trị đã nhấn mạnh: “Để đáp ứng u
cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố hiện đại hoáđất nước trong bối cảnh hội nhập quốc
tế, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta phải đổi mới căn bản, toàn diện và mạnh mẽ”.
d) Tiếp tục hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh đang được hoàn thiện trong tất cả các lĩnh vực,
kể cả các lĩnh vực được xem là nhạy cảm như tài chính, ngân hàng, viễn thông, giáo dục
và đào tạo. Các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường như giá trị, cạnh tranh, cung cầu
đang được vận hành dưới sự điều chỉnh của các bộ luật tương ứng, giúp Việt Nam hoàn
thiện nền kinh tế thị trường đầy đủ và được quốc tế thừa nhận.
Mặt khác định hướng XHCN cũng dần được khẳng định rõ nét hơn. Đó là một xã
hội trong đó “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, do nhân dân làm
chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết tơn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển;
có nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” (Văn
kiện Đại hội XI)
1.2.3. Xu thế về công nghệ

a) Cách mạng CNTT &TT
Cách mạng CNTT &TT đang có những tiến bộ nhảy vọt, tác động mạnh mẽ và sâu
rộng vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở bất kì đâu, bất kì lúc nào. Giáo dục
khơng nằm ngồi sự tác động này và cũng đang có những bước chuyển đầu tiên trong q
trình tin học hố việc dạy, học và quản lí nhà trường. Cuộc cách mạng này địi hỏi phải
có những thay đổi căn bản trong giáo dục, từ việc thiết kế chương trình, tổ chức q trình
dạy học, vai trị của thầy, của trò,… Những khái niệm mới liên quan đến cuộc cách mạng
CNTT &TT như nhà trường điện tử, thư viện điện tử, E.learning v.v. đang dần đi vào
cuộc sống của giáo dục.
b) Học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập
Bước chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế trí thức, cùng với sự tăng trưởng
nhanh chóng của kho tàng kiến thức nhân loại và những thành tựu to lớn của cuộc cách


mạng CNTT &TT đã dẫn tới một nhu cầu tất yếu là phải học tập suốt đời, và đương
nhiên nền giáo dục truyền thống cũng phải chuyển sang một giai đoạn mới là giáo dục
suốt đời cùng với sự hình thành xã hội học tập.
Khái niệm học tập suốt đời đã được khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị TW 4
(khoá VII): “Thực hiện một nền giáo dục thường xuyên cho mọi người, xác định học tập
suốt đời là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công dân”.
Quyết định số 112/2005/QĐ TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Xây
dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-2010” đã đưa ra những chỉ tiêu cụ thể, các nhiệm vụ
chủ yếu và các giải pháp xây dựng
xã hội học tập ở Việt Nam.
1.2.4. Xu thế về hội nhập quốc tế
a) Hình thành thị trường giáo dục
Trong quá trình hội nhập quốc tế về giáo dục, song song với việc hội nhập truyền
thống, coi giáo dục là lợi ích cơng, hợp tác để phát triển giáo dục vì mục đích khơng lợi
nhuận, có một bộ phận của giáo dục được xem là loại dịch vụ khả mại, và việc đầu tư
phát triển được thực hiện theo cơ chế vì lợi nhuận (việc Việt Nam tham gia GATS đã

khẳng định xu thế này). Hội đồng Anh nhận định Việt Nam là thị trường cạnh tranh của
nhiều tập đoàn giáo dục đến từ Hoa Kì, Anh, Úc, Pháp, Đức, Hà Lan, Thuỵ Sĩ, Bỉ, Nhật,
Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore, Malaysia,…
Hiện chưa có nghiên cứu nào về thị trường này, tuy nhiên nó đã hình thành và tồn
tại và có khả năng phát triển trong tương lai nếu được quan tâm đầy đủ và đúng mức.
b) Xây dựng không gian giáo dục chung
Bên cạnh việc tham gia GATS, Việt Nam tham gia “Thông cáo Brisban” về hợp
tác giáo dục của 52 nước APEC, tham gia Hội nghị Bộ trưởng Giáo dục ASEM. Đây là
một khu vực rộng lớn, có sự khác biệt lớn giữa các nước về kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hố nên chưa thể nói tới một khơng gian giáo dục chung. Tuy nhiên Việt Nam đang
hướng tới “không gian giáo dục đại học ASEAN” vào năm 2015 khi cộng đồng ASEAN
chính thức được thành lập.
1.2.5. Xu thế về chính trị, xã hội
a) Vai trị quyết định của chính phủ trong đầu tư cho giáo dục với tư cách là một lợi ích
cơng
Mặc dù giáo dục được xã hội hố và một bộ phận được thị trường hố, chính phủ
vẫn đóng vai trị là nhà cung cấp phần lớn ngân sách cho giáo dục, bảo đảm giáo dục về
cơ bản vẫn là một lợi ích cơng.
Ngay trong các nước phát triển, mặc dù chính phủ cổ vũ cho tự do thương mại hố
giáo dục thì ngân sách chi cho giáo dục vẫn tăng cả về số tuyệt đối cũng như tính theo
đầu người học.


Ở Việt Nam, Luật Giáo dục quy định Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, ngân
sách nhà nước chi cho giáo dục chiếm tới 20% chi ngân sách. Tuy vậy trong xu thế chung
của thế giới về nguyên tắc chia sẻ chi phí trong giáo dục, nhất là giáo dục đại học và dạy
nghề, Việt Nam cũng đang có những bước đầu tiên trong việc thực hiện nguyên tắc này.
b) Xác lập mơ hình quản lí cơng mới, đổi mới cách quản lí nhà nước về giáo dục
Cùng với việc từ bỏ độc quyền trong cung ứng giáo dục, một mơ h•nh quản lí nhà
nước mới về giáo dục cũng đang hình thành. Đó là việc phân quyền mạnh hơn cho các cơ

sở giáo dục, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, nhà nước tập trung vào quản lí vĩ mơ như
hoạch định phương hướng phát triển, đa dạng hoá các thành phần cung ứng giáo dục,
tăng cường quản lí chất lượng giáo dục, minh bạch hố các hoạt động giáo dục…
c) Xã hội hoá giáo dục
Xã hội hố giáo dục với phương châm “huy động tồn xã hội làm giáo dục, động
viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lí của
nhà nước” (Nghị quyết TW 4, khoá VII) là xu thế tất yếu của giáo dục trong bối cảnh
mới.
1.3. Những yêu cầu mới đối với giáo dục
Để đáp ứng những thay đổi to lớn và nhanh chóng trong kỉ nguyên quá độ lên nền
kinh tế tri thức, kỉ ngun thơng tin, triết lí giáo dục trong thế kỉ XXI cũng có những thay
đổi mạnh mẽ, hướng tới “một xã hội học tập”, “học thường xuyên, suốt đời” dựa trên 4
trụ cột học để biết, “học để làm, học để cùng chung sống, học để làm người”. Giáo dục
khơng cịn chủ yếu là đào tạo kiến thức và kĩ năng mà chủ yếu là rèn luyện năng lực năng
lực nhận thức, năng lực hành động, năng lực giao tiếp và truyền thơng, năng lực quản lí
và lãnh đạo. Bản Tun ngơn tồn cầu về giáo dục đại học của Liên Hợp Quốc khẳng
định: thế kỉ XXI “có một nhu cầu chưa từng thấy về sự đa dạng, phong phú trong giáo
dục đại học cũng như những nhận thức ngày càng cao về tầm quan trọng sống còn của
giáo dục đại học đối với sự phát triển kinh tế và văn hố của xã hội”. Giáo dục nói
chung, trong đó có giáo dục đại học và chuyên nghiệp, của thế giới đang phát triển nhanh
chóng theo những xu hướng rõ rệt: đại chúng hoá, thị trường hoá, đa dạng hoá và quốc tế
hoá cùng những quan niệm mới, u cầu mới về vấn đề có tính sống cịn đối với bất kì
mơ hình cải cách giáo dục nào đó là chất lượng giáo dục. Vì thế, ngày nay, hơn bao giờ
hết, tất cả các quốc gia đang đứng trước những thách thức to lớn là lựa chọn các giải pháp
phát triển giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học, bậc học nơi cung
cấp nguồn nhân lực đáp ứng những đổi thay to lớn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, giáo dục nói chung, giáo
dục đại học và chất lượng của nó nói riêng, càng trở lên quan trọng hơn. Ở đây, giáo dục
đại học phải được xem là chìa khố mở cửa vào tương lai, việc khơng quan tâm đến giáo

dục đại học và chất lượng của nó đồng nghĩa với việc tự tước bỏ một phương tiện cốt yếu
nhất để phát triển quốc gia. Chính vì vậy, các quốc gia đang hết sức quan tâm đến mục
tiêu, mô hình, quy mơ, chất lượng của giáo dục.


Những đổi mới trong giáo dục được thể hiện ở những điểm sau:
a) Đổi mới tư duy về giáo dục
Đi vào nền kinh tế tri thức, người ta nói đến yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ tư duy
nói chung, đổi mới tư duy về giáo dục nói riêng để tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội
về sự phát triển giáo dục trong bối cảnh mới.
b) Đổi mới trong mục tiêu, nội dung phương pháp và kiểm tra đánh giá trong giáo dục
Cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ trong những năm qua làm
tăng vọt khối lượng tri thức của nhân loại, giáo dục không thể thực hiện được chức năng
truyền thống của nó là truyền đạt lại khối kiến thức khổng lồ ấy. Do vậy, nội dung các
môn học trong tương lai không phải là liệt kê hết những kiến thức cần truyền đạt, mà chỉ
là những kiến thức cơ bản, nền tảng, chủ yếu rèn luyện cho người học kĩ năng tư duy, kĩ
năng ngôn ngữ, kĩ năng biểu đạt, kĩ năng khai thác, xử lí thơng tin và áp dụng, sử dụng có
ích các thơng tin đó và trên cơ sở đó, biến thông tin thành tri thức.
Mục tiêu, nội dung giáo dục được đổi mới tất yếu dẫn đến sự đổi mới phương
pháp giáo dục. Phương pháp dạy - học mới đòi hỏi thầy và trò cùng nhau khám phá kiến
thức, tìm tịi cái mới với sự hỗ trợ của các phương tiện giáo dục hiện đại, đặc biệt là của
CNTT.
c) Giáo dục suốt đời và phổ cập CNTT
Trong thời đại thông tin, lượng thông tin tăng và biến đổi cực kì nhanh chóng; do
vậy, quan điểm giáo dục suốt đời là quan điểm chủ đạo của nền giáo dục phục vụ sự phát
triển nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức địi hỏi mỗi người phải ln bổ sung tri
thức mới với sự hỗ trợ của CNTT. Để thực hiện nhiệm vụ này, yêu cầu về phổ cập CNTT
và biết ngoại ngữ là điều cần thực hiện càng sớm càng tốt.
d) Học tập không tập trung, học tập từ xa
Sự phát triển của Internet sẽ giúp thoả mãn nhu cầu học tập thường xuyên, học tập

suốt đời, qua đó phát triển các phương thức đào tạo phi truyền thống như đào tạo phi tập
trung, đào tạo từ xa.
1.4. Đặc trưng của giáo dục nói chung và giáo dục các bậc học nói riêng trong bối
cảnh mới
1.4.1. Đặc trưng của giáo dục nói chung
a) Phổ cập hố giáo dục phổ thông
Phổ cập giáo dục tiểu học được nhắc tới từ năm 1990 (Tuyên bố Jomtien), và được
nâng lên thành phổ cập giáo dục THCS năm 2000 (Tuyên bố Dakar). Việc mở rộng phạm
vi phổ cập tới THPT tỏ ra còn xa vời với nhiều nước đang phát triển. Tuy nhiên do vai trò
ngày càng tăng của nguồn nhân lực có trình độ THPT trong phát triển kinh tế-xã hội nên
việc phổ cập THPT đang là xu thế chung của cả các nước đang phát triển.


b) Đại chúng hoá giáo dục đại học
Hội nghị quốc tế năm 1998 về giáo dục đại học cho thế kỉ XXI đã ra tuyên bố kêu
gọi các chính phủ đẩy mạnh cải cách giáo dục đại học nhằm cung cấp nguồn nhân lực có
trình độ cao cho nền kinh tế trí thức đang hình thành và phát triển thành xu thế chủ đạo
của kinh tế trong kỉ nguyên thông tin. Để thực hiện được sứ mệnh đó, giáo dục đại học
không thể chỉ là giáo dục tinh hoa (tỉ lệ thô nhập học đại học dưới 15%), mà phải chuyển
sang nền giáo dục đại học đại chúng (30-45%), thậm chí giáo dục đại học phổ cập (trên
50%).
c) Xây dựng xã hội học tâp
Để có thể sống, làm việc trong kỉ ngun thơng tin, kinh tế trí thức, trong bối cảnh
khoa học cơng nghệ có những bước tiến to lớn và nhanh chóng thì việc học tập suốt đời
là nguyện vọng, nhu cầu của mọi người. Để đáp ứng nhu cầu đó, xã hội phải tạo mọi điều
kiện để bất kì ai, bất kì lúc nào cũng được và có thể học, khơng những để cập nhật kiến
thức mà cịn để con người có khả năng đáp ứng với những thay đổi trong cơng việc hằng
ngày. Vì vậy xây dựng một xã hội học tập là một xu thế tất yếu, đánh dấu một bước tiến
quan trọng trong tư duy về giáo dục; thay thế việc học một lần trong trường bằng việc
học suốt đời ngồi trường, trong cơng việc và trong xã hội.

d) Đa dạng hoá giáo dục
Thế kỉ XXI đang chứng kiến một nhu cầu học rất đa dạng, phong phú của mọi
tầng lớp dân cư, ở mọi cấp học, bậc học. Để đáp ứng nhu cầu đó, giáo dục đang thực thi
những biện pháp mềm dẻo, linh hoạt.
Trong giáo dục phổ thông xuất hiện các lớp ghép, các điểm trường, các lớp ngoài
giờ…
Trong giáo dục đại học xuất hiện các loại cơ sở đào tạo đặc biệt phong phú: các
đại học chuyên ngành, đại học mở, đại học cộng đồng, Bên cạnh các cơ sở giáo dục đại
học công lập, xuất hiện các đại học tư thục thuộc sở hữu của các tổ chức xã hội khác
nhau, các cơ sở giáo dục đại học có yếu tố nước ngồi.
Các hình thức tổ chức đào tạo cũng rất đa dạng. Ngồi hình thức đào tạo chính
quy, xuất hiện hình thức vừa làm vừa học, chuyên tu, từ xa, E-learning…
Phương thức tổ chức đào tạo cũng có nhiều thay đổi, mềm dẻo, đáp ứng nhu cầu
nguyện vọng của từng người học (học chế tín chỉ).
e) Nâng cao chất lượng giáo dục
Xã hội hoá giáo dục, đa dạng hoá các loại hình giáo dục trong bối cảnh xã hội có
nhu cầu ngày càng lớn đối với nguồn nhân lực đặt ra cho giáo dục một u cầu mang tính
sống cịn là chất lượng giáo dục. Đây là cơ sở để cung cấp nguồn nhân lực phục vụ cho
sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng
một cách bền vững.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×