Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Dân tộc học đại cương 2023

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.32 KB, 16 trang )

DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG
Câu 1: Nêu vấn đề và phân tích định nghĩa, đối tượng, phương pháp và nhiệm vụ
nghiên cứu của dân tộc học?
- Khái niệm dân tộc học:
Dân tộc học là một ngành của khoa học nhân văn, chuyên nghiên cứu tất cả các dân tộc trên
thế giới, từ nguồn gốc lịch sử đến cấu tạo thành phần dân tộc, các mặt sinh hoạt văn hóa và mối
quan hệ giữa các dân tộc.
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Đối tượng nghiên cứu của dân tộc học là tất cả các tộc người, các dân tộc trên thế giới,
không phân biệt trình độ phát triển, dân số hay khu vực địa lý, kể cả các tộc người, dân tộc đã bị
diệt vong.
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 3.000 tộc người cư trú ở các quốc gia và vùng lãnh thổ
khác nhau đều là đối tượng nghiên cứu của dân tộc học.
+ Dân tộc học còn nghiên cứu các tộc người đã bị diệt vong để tìm hiểu nguyên nhân, mối
quan hệ với các tộc người khác nhằm tìm ra xu hướng, qui luật trong quá trình vận động, biến đổi
tộc người.
+ Về thời gian và phạm vi đối tượng nghiên cứu, dân tộc học nghiên cứu tất cả các tộc người
trong tiến trình lịch sử, khơng phân biệt trình độ phát triển văn hóa, kinh tế xã hội, đa số hay thiểu
số. Các tộc người được nghiên cứu trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong q trình vận động,
biến đổi, phát triển; từ ngơn ngữ, nguồn gốc, chủng tộc, quá trình lịch sử đến kinh tế, văn hóa, xã
hội, tơn giáo tín ngưỡng, tư tưởng, chính trị, mơi trường sinh thái tộc người...
+ Bên cạnh tập trung nghiên cứu các tộc người (ethnic), dân tộc học cịn nghiên cứu các hình
thái cộng đồng tộc người của nhân loại (thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc), cơ cấu tộc người - xã hội,
các nhóm địa phương của tộc người.
+ Dân tộc học nghiên cứu toàn diện mọi lĩnh vực của đời sống xã hội các tộc người, nhưng
tập trung nghiên cứu văn hóa tộc người. Bởi vì, văn hóa tộc người được coi là đặc trưng tộc người
quan trọng nhất thông qua các đặc trưng sinh hoạt xã hội trong tồn bộ tiến trình lịch sử. Dân tộc
học nhằm làm rõ cốt cách, đặc trưng và bản sắc của các tộc người, dân tộc; những đặc trưng riêng
và các giá trị chung phân biệt các tộc người, mối quan hệ, sự giống và khác nhau giữa các tộc
người trên thế giới. Dưới góc độ dân tộc học, văn hóa tộc người được hiểu theo nghĩa rộng là toàn
bộ các giá trị vật chất và tinh thần do tộc người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử, được kế thừa


và phát triển phản ánh điều kiện tự nhiên, xã hội mà tộc người đó sinh sống. Bất cức tộc người nào
cũng có nền văn hóa riêng của họ, tạo thành truyền thống và bản sắc tộc người. Đây vừa là đặc
trưng tộc người vừa là tiêu chí quan trọng nhất để phân định tộc người. Mất bản sắc văn hóa, tộc
người sẽ khơng cịn tồn tại mà bị hòa tan vào các tộc người khác.
- Phương pháp nghiên cứu:
Mỗi trường phái dân tộc học có phương pháp luận khác nhau. Cụ thể:
* Phương pháp luận của nền dân tộc học mácxít là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử; các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc và giải quyết
1


vấn đề dân tộc.
* Điền dã dân tộc học là phương pháp nghiên cứu đặc trưng của dân tộc học, tức là phương
pháp nghiên cứu bằng quan sát trực tiếp, tham gia vào chính đời sống sinh hoạt của tộc người để
tìm hiểu từ bên trong nội bộ cộng đồng. Phương pháp này cho nguồn tài liệu cơ bản, quan trọng
từ chính các nền văn hóa sống động đang được lưu giữ trong đời sống hàng ngày của cư dân. Điền
dã dân tộc học thường được thực hiện theo hai hình thức:
+ Nghiên cứu diện là cách nghiên cứu nhiều điểm trong cùng một thời gian, nghiên cứu và
thu thập tư liệu về một vấn đề nào đó ở các địa bàn khác nhau của không gian tộc người giúp so
sánh, đối chiếu vấn đề nghiên cứu ở nhiều nơi. Nó có hạn chế khi phải triển khai những nội dung
chuyên sâu.
+ Nghiên cứu điểm là cách nghiên cứu trong cùng một thời gian tiến hành nghiên cứu một
vấn đề ở một địa bàn cụ thể có tính điển hình; tạo điều kiện nghiên cứu tập trung sâu, song lại
thiếu tư liệu trong phạm vi rộng để so sánh.
Thông thường, người ta hay kết hợp cả hai cách trên để bổ sung những ưu điểm phương
pháp và khắc phục hạn chế, thiếu sót của nhau. Các cơng cụ, kỹ thuật chủ yếu để điền dã là: Thu
thập tư liệu thông qua quan sát tham gia, phỏng vấn mở, điều tra chọn mẫu, nghiên cứu nguồn tài
liệu cá nhân, đo vẽ, chụp ảnh, ghi chép, miêu tả...
Hiện nay, trong các nghiên cứu dân tộc học, người ta hay kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp
nghiên cứu định tính và định lượng để tiếp cận vấn đề nghiên cứu khách quan và khoa học hơn.

Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu liên ngành được ứng dụng rộng rãi trong dân tộc học
- một xu hướng được đánh giá cao trên thế giới hiện nay khi vấn đề nghiên cứu được tiếp cận xem
xét từ nhiều lý thuyết và phương pháp của nhiều ngành khoa học. Dân tộc học còn sử dụng phương
pháp của Sử học, Khảo cổ học, Nhân chủng học, Ngôn ngữ học, Văn hóa dân gian, Địa lý học, Xã
hội học, Môi trường, Nông nghiệp, Dân số học...
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhiệm vụ chung của dân tộc học là nghiên cứu cơ bản và toàn diện các lĩnh vực đời sống xã
hội của tất cả các tộc người từ vật chất, tinh thần đến nguồn gốc lịch sử, các giá trị truyền thống
cho đến đời sống xã hội hiện đại.
Dân tộc học có 6 nhiệm vụ cụ thể:
+ Nghiên cứu cấu tạo thành phần các tộc người trong nước và trên thế giới. Đây là nhiệm
vụ cơ bản của dân tộc học nhằm xác định đúng đắn thành phần tộc người trong nước và trên thế
giới. Phải phân biệt chuẩn xác cộng đồng nào là tộc người, nhóm nào chỉ là các nhóm địa phương
của tộc người.
+ Nghiên cứu lịch sử tộc người. Dân tộc học làm rõ sự tương đồng và khác biệt của các dân
tộc trên thế giới, từ nguồn gốc đến sự biến đổi trong toàn bộ chiều dài lịch sử đến ngày nay.
+ Nghiên cứu đặc trưng văn hóa tộc người để làm rõ diện mạo văn hóa các tộc người (đặc
trưng riêng và chung); nghiên cứu các yếu tố truyền thống, phong tục tập quán, những yếu tố mới
nảy sinh. Tìm hiểu lịch sử, di sản truyền thống văn hóa tộc người và đi sâu nghiên cứu đời sống
xã hội đương đại.
+ Nghiên cứu môi trường sinh thái và địa lý tộc người - nghiên cứu môi trường tự nhiên nơi
2


cư trú (địa hình, sơng ngịi, đất đai, khí hậu, tài nguyên...) đã ảnh hưởng tích cực và tiêu cực thế
nào đến mọi mặt đời sống cư dân của tộc người. Làm rõ lịch sử vùng lãnh thổ cư trú, điều kiện tự
nhiên, các ảnh hưởng đến đời sống cư dân, thế ứng xử với môi trường sống, quan niệm và ý thức
của cộng đồng về lãnh thổ và địa lý tộc người.
+ Nghiên cứu quá trình tộc người và quan hệ tộc người - nghiên cứu quá trình ra đời, vận
động, biến đổi, phát triển của các tộc người trong tiến trình lịch sử. Dân tộc học làm rõ những vấn

đề về quá trình tộc người nhằm đem lại nhận thức toàn diện về các tộc người, cung cấp các tri thức
về tình hình tộc người và mối quan hệ tộc người trong nước, khu vực và thế giới.
+ Nghiên cứu tơn giáo, tín ngưỡng của các tộc người. Dân tộc học nghiên cứu đời sống tâm
linh, các hình thức sinh hoạt tơn giáo, tín ngưỡng của từng tộc người. Dân tộc học làm rõ đời sống
sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, những giá trị của tơn giáo tín ngưỡng trong xã hội tộc người; những
vấn đề mới nảy sinh, khơng bình thường trong đời sống tín ngưỡng tộc người.
Các nhiệm vụ trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Song tùy
từng quốc gia mà dân tộc học có thể có những nhiệm vụ cụ thể khác nhau.
Câu 2: Giới thiệu các trường phái dân tộc học tiêu biểu trên thế giới? Khái quát quá
trình phát triển của dân tộc học Việt Nam?
- Các trường phái dân tộc học tiêu biểu trên thế giới:
Hiện nay, trên thế giới có 5 trường phái dân tộc học sau đây:
+ Trường phái tiến hóa - trường phái tiến bộ: xuất hiện ở châu Âu những thập kỷ 50-60 thế
kỷ XIX, đại biểu là các nhà sáng lập: A.Bastian, I.Bacôphen, E.Taylo, L.G.Moocgan. Trường phái
này dựa vào học thuyết tiến hóa của Đácuyn và những thành tựu của khoa học tự nhiên để giải
thích về sự tiến hóa của các tộc người và lịch sử phát triển nhân loại. Nó thừa nhận tính thống nhất,
sự tiến bộ của lồi người là một q trình tự nhiên từ thấp đến cao, sự phát triển của xã hội là do
sản xuất vật chất. Trường phái này vẫn còn có nhiều hạn chế như máy móc, chủ nghĩa dân tộc hoặc
coi sự phát triển của xã hội theo một đường thẳng liên tục từ đơn giản đến phức tạp.
+ Trường phái văn hóa lịch sử: trường phái xuất hiện cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Đức
và Anh, dựa trên cơ sở thuyết địa lý chủng tộc của nhà địa lý học, dân tộc học người Đức Rátxen
(1844-1904). Nó cho rằng sự khuếch tán và mơi trường địa lý đóng vai trị quyết định đến sự phát
triển văn hóa và xã hội. Theo đó, yếu tố văn hóa là do điều kiện địa lý quyết định; ở những nơi
điều kiện địa lý khơng thuận lợi thì văn hóa sẽ khơng phát triển, thường bảo lưu văn hóa lạc hậu.
Những nơi điều kiện địa lý thuận lợi, văn hóa sẽ phát triển, văn minh hơn. Thực chất những luận
điểm trên là cơ sở để biện hộ cho chính sách bành trướng xâm lược của giai cấp tư sản.
+ Trường phái chức năng: người sáng lập và đứng đầu trường phái này là B.Manilốpxki.
Ông cho rằng, nhiệm vụ trước hết của dân tộc học là nghiên cứu chức năng của các hiện tượng
văn hóa, nghiên cứu mối liên hệ tương tác và sự chế định lẫn nhau. Phải nghiên cứu văn hóa của
mỗi xã hội giống như là một hiện tượng đơn nhất, trong đó tất cả các bộ phận có quan hệ với nhau

bằng thực thi những chức năng xác định. Lý thuyết của chức năng luận có đặc điểm là phản phương
pháp lịch sử một cách cực đoan. Nó được sử dụng rộng rãi ở nước Anh cho mục đích điều hành
các xã hội thuộc địa của chế độ thực dân.
+ Trường phái tâm lý chủng tộc: hình thành và phát triển từ sau thế chiến thứ hai ở Mỹ, cơ
3


sở phương pháp luận dựa vào “Thuyết Fơrớt” trong tâm lý học và trường phái “Văn hóa lịch sử”
của dân tộc học Đức. Trường phái này cho rằng, yếu tố quyết định đời sống xã hội là ở tâm lý con
người; mỗi con người, mỗi dân tộc có một tâm lý khác nhau; kẻ nghèo suy nghĩ theo đầu óc người
nghèo; chỉ có người giàu và dân tộc văn minh mới khai hóa cho kẻ nghèo được để phát triển…
Đây là một quan điểm hết sức phản động, phục vụ cho lối sống Mỹ, ca ngợi mơ hình “văn hóa” và
“dân chủ” kiểu Mỹ.
+ Trường phái dân tộc học mác xít: C.Mác và Ph. Ăngghen đã đặt nền móng cho việc nghiên
cứu các vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc theo phương pháp luận mác xít. Khác biệt căn bản trong
nghiên cứu dân tộc học mác xít với các trường phái khác là ở chỗ gắn liền vấn đề dân tộc với vấn
đề giai cấp, quan hệ tộc người với quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp. V.I.Lênin là người đã kế thừa
và phát triển xuất sắc những quan điểm dân tộc học của C.Mác và Ph.Ăngghen. Ông đã nghiên
cứu và giải quyết các vấn đề dân tộc theo tinh thần thực hiện quyền bình đẳng, quyền tự quyết và
quyền liên hợp của các dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân.
Sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, dân tộc học mác xít phát triển mạnh mẽ và
trường phái dân tộc học Xôviết ra đời. Nền dân tộc học Xôviết đã đạt được nhiều thành tựu trong
nghiên cứu các vấn đề lý luận dân tộc học với những tên tuổi tiêu biểu như: A.Guberơ, P.Tônxtốp,
N.Trêbốcxarốp, I.U.Brômlây... Các tư tưởng của trường phái này đã có ảnh hưởng lớn đến khuynh
hướng phát triển của ngành Dân tộc học Việt Nam.
- Khái quát quá trình phát triển của dân tộc học Việt Nam:
* Lịch sử phát triển:
+ Các tri thức về dân tộc học ở Việt Nam xuất hiện từ rất sớm qua các tác phẩm như: Dư địa
chí (Nguyễn Trãi), Phủ biên tạp lục (Lê Quý Đôn), Việt sử thông giám cương mục (Quốc sử quán
Triều Nguyễn)…

+ Năm 1958: tổ Dân tộc học được thành lập nằm trong Viện Sử học.
+ Năm 1968: Viện Dân tộc học được thành lập nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
+ Năm 1973: Tạp chí Dân tộc học ra đời, là cơ quan khoa học và ngôn luận của những người
công tác, nghiên cứu và giảng dạy về Dân tộc học ở Việt Nam.
+ Năm 1981: Hội Dân tộc học được thành lập – cơ quan ngôn luận của Hội là Tạp chí Dân
tộc và Thời đại.
* Thành tựu:
+ Nghiên cứu xác định Việt Nam có 54 tộc người; đồng thời xác định trình độ phát triển
kinh tế - xã hội của các tộc người, từ đó đề xuất việc xây dựng chính sáchtồn diện để phát triển
kinh tế, xã hội, văn hóa của các tộc người và quan hệ tộcngười
+ Nghiên cứu các giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người ở Việt Nam nhằm bảo tồn
và phát huy trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
+ Làm sáng tỏ nhiều vấn đề về các thời kỳ hết sức quan trong trong lịch sử Việt Nam.
Câu 3: Hãy khái quát về nhân học?
Nhân học hay còn gọi là Nhân chủng học (Anthropology) là chuyên ngành khoa học xã hội
nghiên cứu về loài người cùng sự đa dạng trong gen, nguồn gốc, lịch sử phát triển, tổ chức chính
trị xã hội, tôn giáo, ngôn ngữ, nghệ thuật qua nhiều thời kì khác nhau.
4


Nhân học được chia thành 4 trọng tâm chuyên ngành học chính bao gồm:
+ Khảo cổ học: tất cả những gì liên quan đến việc khám phá và bảo tồn các di vật và hiện
vật để nghiên cứu và hiểu về con người và nền văn hóa trong quá khứ.
+ Sinh học: hoạt động để tìm hiểu lịch sử tiến hóa của lồi người, có thể sử dụng để giải
thích cho các chủ đề ngày nay như pháp y và bệnh tật.
+ Văn hóa: xem xét cuộc sống và động lực của các xã hội đương đại, được nghiên cứu trong
nền văn hóa mà bạn thuộc về hoặc khác với nền văn hóa của bạn.
+ Ngơn ngữ học: nghiên cứu về ngơn ngữ đương thời và cách nó hình thành và phát triển từ
quá khứ đến nay.
VD: một số tiểu bang của Mỹ nói “soda” để mơ tả đồ uống có ga, trong khi những bang khác

gọi nó là “pop”.
=> Nhân học văn hóa chính là 1 trong 4 ngành nhân học. Nó có mối quan hệ chặt chẽ với 3
chuyên ngành khác của nhân học. Nó nghiên cứu tất cả các cộng đồng tộc người trên thế giới,
không phân biệt trình độ kinh tế - xã hội, khu vực địa lý…
Câu 4: Nêu mối quan hệ giữa dân tộc học với các bộ môn của nhân học?
Từ sau những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ,
nhất là sau giai đoạn Việt Nam đổi mới năm 1986, các lý thuyết về nhân học của phương Tây được
áp dụng mạnh ở Việt Nam. Từ đó, dân tộc học ở nước ta đổi mới cả về định nghĩa, nhiệm vụ và
phương pháp tiếp cận.
Để nghiên cứu toàn diện các tộc người, dân tộc học sử dụng các tài liệu và tham khảo kết
quả nghiên cứu từ các khoa học cận và liên ngành, kể cả các ngành khoa học tự nhiên.
+ Với Xã hội học, trong nghiên cứu các vấn đề hiện đại của tộc người, dân tộc học đặc biệt
gắn với nghiên cứu xã hội học và khoa học xã hội học. Cả hai chuyên ngành này đều quan tâm
đến một số hay nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội của tộc người, các nhóm xã hội, các vấn đề xã
hội gắn với tộc người. Tuy nhiên, xã hội học và dân tộc học không trùng lặp trong nghiên cứu.
Nghiên cứu sự tác động qua lại của các hiện tượng văn hóa tộc người và xã hội - giai cấp (xã hội
học tộc người), dân tộc học luôn phải sử dụng kết quả và phương pháp nghiên cứu của xã hội học,
như điều tra theo bảng hỏi, phỏng vấn.
+ Với Sử học, dân tộc học có mối liên hệ chặt chẽ, nhất là lịch sử cổ đại và trung đại trong
nghiên cứu thời đại nguyên thủy và các vấn đề của lịch sử tộc người. Đối tượng của sử học là các
sự kiện lịch sử trong đời sống xã hội của các tộc người, dân tộc, quốc gia. Khi nghiên cứu nguồn
gốc tộc người, dân tộc học thường xuyên quan tâm đến các tài liệu, các tư liệu sử học. Khi nghiên
cứu quá trình phát triển của dân tộc, sử học lại chú ý đến sự thay đổi về xã hội, văn hóa của dân
tộc ấy.
+ Với Khảo cổ học, đối tượng của khảo cổ học là lịch sử phát triển của con người thuộc các
tộc người thông qua phân tích các di chỉ khảo cổ. Cịn dân tộc học lại từ cơ sở đó mà tìm hiểu các
cộng đồng người đã trải qua trong lịch sử như thế nào trên các phương diện về đặc điểm kinh tế xã hội, đặc trưng văn hóa vật chất và tinh thần, tổ chức kết cấu cộng đồng... Khảo cổ học nghiên
cứu để tái tạo lại lịch sử, trong đó có việc nghiên cứu lịch sử tộc người từ các di tích khảo cổ học,
nên cũng sử dụng rộng rãi tài liệu dân tộc học.
5



+ Với Ngôn ngữ học, đối tượng nghiên cứu là các ngôn ngữ. Ngôn ngữ luôn gắn với một tộc
người cụ thể, là tiêu chí hàng đầu xác định tộc người. Ngôn ngữ học khi nghiên cứu ngôn ngữ của
một tộc người bao giờ cũng chú ý đến kết quả nghiên cứu dân tộc học về tộc người đó. Việc nghiên
cứu dân tộc học về sự thân thuộc của ngôn ngữ các dân tộc, sự ảnh hưởng, quan hệ vay mượn, tộc
danh, thổ ngữ, mối quan hệ tương hỗ của các q trình tộc người và ngơn ngữ (dân tộc ngơn ngữ
học) có liên quan tới ngành ngơn ngữ học.
+ Với Lịch sử văn hóa nghệ thuật, Văn hóa dân gian, dân tộc học có quan hệ gần gũi trong
việc nghiên cứu sự sáng tạo văn hóa, nghệ thuật của các tộc người.
+ Với tâm lý học, dân tộc học có sự giao thoa chung là bộ mơn tâm lý học tộc người.
+ Với địa lý học, dân tộc học có quan hệ trong việc nghiên cứu sự tương tác của tộc người
và môi trường tự nhiên, nghiên cứu các dạng thức cư trú và cả các vấn đề của sự hình thành bản
đồ địa lý - tộc người.
Dân tộc học quan hệ mật thiết với Nhân chủng học trong nghiên cứu nguồn gốc tộc người.
Dân tộc học cịn có mối quan hệ tương hỗ với nhiều bộ môn khoa học tự nhiên khác (sinh
vật học, môi trường...). Tài liệu của các bộ mơn đó góp phần làm rõ các q trình tộc người của
nhân loại nói chung.
Thực chất ngành nhân học Việt Nam xây dựng kế thừa truyền thống khoa học dân tộc học
vốn hình thành ở nước ta từ đầu thế kỷ XX kết hợp với Nhân học Âu – Mỹ đại nhân học phát triển.
Câu 5: Chủng tộc là gì?
Chủng tộc được hiểu cơ bản chính là một quần thể (hay tập hợp quần thể, thường quen gọi
là những nhóm người) được hình thành trong lịch sử trên một lãnh thổ cụ thể và nhất định, chủng
tộc có một số đặc điểm chung trên cơ sở và nó mang tính chất di truyền.
=> Chủng tộc phải hội tụ đủ 3 yếu tố (thuộc tính) sau: phải có sự di truyền, ít biến đổi và
phổ biến trong những địa vực nhất định.
Câu 6: Nêu các tiêu chí phân loại chủng tộc?
Có 12 tiêu chí phân loại chủng tộc:
+ Dựa vào màu sắc của da, mắt, tóc được chia ra làm 3 màu cơ bản là: màu tối, màu trung
gian và màu sáng. Ví dụ: Da có ba màu: đen, nâu sẫm; hơi nâu, vàng; da trắng.

+ Hình dạng tóc, có 3 dạng tóc: xoăn, sóng và thẳng.
+ Số lượng lớp lông lần 3 trên cơ thể ở người trưởng thành.
+ Hình dạng khn mặt, được chia ra làm ba loại: mặt rộng, mặt hẹp và trung bình.
+ Kích thước của đầu và hộp sọ, có các chuẩn đầu lồi người: dài; trung bình, trịn, q
ngắn. VD: Thổ dân Úc, người Phi thuộc loại đầu dài, người Đông Nam Á hải đảo thuộc loại đầu
trung bình, người Việt thuộc loại đầu trịn.
+ Hình dạng mắt - sự phát triển của nếp mí mắt có 4 chuẩn số: khơng có nếp, ít phát triển,
phát triển trung bình, phát triển nhiều.
+ Hình dạng mũi, có 3 dạng mũi theo các thơng số: cao, hẹp; trung bình; bẹt, rộng. Hình
dạng mũi chủ yếu do xương sống mũi và sụn quy định tạo ra mũi cao hay thấp, sống mũi thẳng
khoằm hay lõm, rộng hay hẹp.
+ Căn cứ vào độ dày của môi, được chia ra làm 3 loại: dày, trung bình, mỏng. Đồ dày môi
6


được tính khi ngậm miệng lại và mơi dưới ln dày hơn.
+ Tầm vóc và kích thước của thân thể, được xác định có các loại: lùn, rất thấp, thấp, trung
bình thấp, trung bình, cao, rất cao, khổng lồ. Chiều cao là đặc điểm phân loại chủng tộc tương đối
điển hình.
+ Tỷ lệ thân hình - cách tính phổ biến là dựa vào kích thước giữa xương chi và chiều ngang
của vai so với chiều dài toàn thân. Theo đo đạc nhân trắc học, lồi người có 3 loại thân hình: ngắn,
trung bình và dài.
+ Hình thái răng, ở các chủng tộc có sự khác nhau. Chủng tộc Mơngơlơit và Ơtxtralơit, số
người có răng cửa hình lưỡi xẻng chiếm tới hơn 60% (dân gian gọi là răng bàn cuốc). Chủng tộc
Nêgrơit và Ơrơpơit, răng hàm trên có núm phụ rất phổ biến.
+ Hình dạng vân tay, có 3 dạng: xốy, móc và vịng cung.
Ngồi các tiêu chí trên, người ta còn căn cứ vào một số đặc điểm khác để phân loại chủng
tộc như: dáng cằm, kích thước miệng, mức độ phát triển của lơng mày, vành tai, nhóm máu...
Câu 7: Ngơn ngữ là gì? Nêu nguồn gốc và chức năng của ngôn ngữ?
- Khái niệm:

+ Ngôn ngữ là một hệ thống các đơn vị và quy tắc kết hợp để tạo thành lời nói trong hoạt
động giao tiếp như: âm vị, hình vị, từ, cụm từ cố định, câu.
+ Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con người ở dạng tiềm tàng, được phản ánh trong
ý thức của cộng đồng và trừu tượng khỏi tư tưởng, tình cảm cụ thể của con người.
+ Ngơn ngữ có tính chất xã hội, cộng đồng. Lời nói có tính chất cá nhân. Ngơn ngữ và lời
nói thống nhất nhưng khơng đồng nhất. Nghiên cứu ngơn ngữ xuất phát từ lời nói, ngơn ngữ được
hiện thực hóa trong lời nói.
=> Ngơn ngữ là một hệ thống những đơn vị vật chất phục vụ cho việc giao tiếp của con
người và được phản ánh trong ý thức tập thể, độc lập với ý tưởng, tình cảm và nguyện vọng cụ thể
của con người, trừu tượng hóa khỏi những tư tưởng, tình cảm và nguyện vọng đó.
- Nguồn gốc:
Nguồn gốc của ngơn ngữ gắn liền với nguồn gốc hình thành và phát triển của con người.
Theo các kết quả nghiên cứu về triết học, sinh học, khảo cổ học, sinh lí học thần kinh và
ngôn ngữ học… kết luận rằng lao động đã làm phát sinh, phát triển lồi người và làm nảy sinh
ngơn ngữ trong q trình đó.
Ngơn ngữ được hình thành và dần hồn thiện cùng với q trình tiến hóa, phát triển và
hoànthiện của loài người từ loài vượn:
+ Sự di chuyển nơi ở từ trên cây xuống đất do biến động của tự nhiên khiến cho loài vượn
người dần đứng thẳng lên, hai tay được giải phóng, họ bắt đầu biết làm ra cơng cụ săn bắn, ăn thịt
chín. Sự tiến hóa này khiến cho các bộ phận phát ra âm thanh cùng các bộ phận của vỏ não mà
liên quan trực tiếp đến tiếng nói cũng dần được phát triển và hoàn thiện. Đây là sự mở đầu cho
việc ngơn ngữ được hình thành.
+ Lao động liên kết con người thành bầy đàn, những cộng đồng và sau này thành xã hội có
tổ chức. Điều này dẫn đến: con người muốn cùng chung sức làm gì thì cần phải thỏa thuận được
quá trình làm việc và những kinh nghiệm trong làm việc muốn truyềnlại cho đời sau thì cần có thứ
7


để lưu giữ và truyền đạt lại. Mong muốn này dẫn đến việc ngơn ngữ được hình thành.
=> Lao động là động lực sáng tạo ra lồi người và ngơn ngữ lồi người.

Q trình học tập và tiếp thu ngơn ngữ gồm nhiều giai đoạn khác nhau, có biểu hiện và kết
quả không đồng nhất.
- Chức năng:
* Chức năng làm công cụ giao tiếp
Giao tiếp là sự truyền đạt thông tin từ người này đến người khác với 1 mục đích nhất định
nào đó. Hoạt động giao tiếp cần có:
+ Người nói (viết) và hành vi nói ra (hành vi tạo lập diễn ngôn – văn bản)
+ Thông điệp cần truyền đi
+ Người nghe (đọc) và hành vi hiểu diễn ngôn – văn bản
+ Bối cảnh giao tiếp và phương tiện chung để giao tiếp.
Chức năng trung tâm của ngôn ngữ là chức năng làm công cụ giao tiếp. Nhờ có chức năng
này, ngơn ngữ trở thành một trong những động lực tối quan trọng bảo đảm sự tồn tại và phát triển
của xã hội loài người.
* Chức năng làm công cụ tư duy
Để thực hiện chức năng làm phương tiện giao tiếp, ngôn ngữ đồng thời thực hiện 1 chức
năng cực kỳ quan trọng nữa là chức năng phản ánh – chức năng làm công cụ cho con người tư duy
bằng khái niệm.
Ngôn ngữ là phương tiện, là nơi tàng trữ các kết quả của hoạt động tư duy. Các hiểu biết,
trải nghiệm, tri nhận của con người về thế giới vật chất & tinh thần của nhân loại đều tàng trữ
trong ngôn ngữ dưới dạng các khái niệm, nội dung được chứa đựng trong từ ngữ.
+ Khi giao tiếp, con người cần phải nói với nhau về một cái gì đó. Mệnh đề này cần có yếu
tố: “Là con người đã có 1 cái gì đó (những kết quả của nhận thức, tư duy, hoạt động tinh thần,
cảm xúc…) cần phải được truyền đạt – đây là phương diện nội dung của ngôn ngữ” và là “phương
tiện đề truyền đạt thơng tin đó, hay là phương tiện vật chất để truyền tải nội dung của ngôn ngữ”.
+ Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy vốn hết sức phức tạp. K.Mac đã nói “Hiện thực trực
tiếp của tư tưởng là ngơn ngữ”. Nói như vậy, ngơn ngữ khơng phải là vật chất trống rỗng, mà nó
là 1 thể hai mặt: vật chất – tinh thần. Ông cũng nói “Ngơn ngữ cũng cổ như ý thức vậy… cũng
tương tự như ý thức ngôn ngữ sinh ra là do nhu cầu, do sự cần thiết phải giao tiếp với người khác”.
Ý thức cần được hiểu rộng hơn tư duy. Nó là tập hợp hồn chỉnh những yếu tố nhận thức về
cảm xúc, có liên quan chặt chẽ với nhau, trong đó tư duy chỉ là 1 q trình nhận thức mà thôi. Tư

duy là 1 bộ phận cấu thành ý thức.
+ Ngơn ngữ là hình thức tồn tại, là phương tiện vật chất để thể hiện tư duy. Về phương diện
này, tư duy là cái được biểu hiện, ngôn ngữ là cái để thể hiện tư duy. Kết quả của hoạt động tư duy
bao giờ cũng được thể hiện ra ngồi bằng cái vỏ là ngơn ngữ. Mối quan hệ ngôn ngữ – tư duy như
hai mặt của tờ giấy, có mặt này thì phải có mặt kia. Nhờ ngơn ngữ mà ý thức được hiện thực hóa,
thực tại hóa. Mặt khác chính trong mối quan hệ với tư duy, ngôn ngữ không phải là hiện tượng
thuần túy vật chất, mà là hiện tượng vật chất – tinh thần.
+ Không những là phương tiện vật chất để biểu đạt tư duy, ngơn ngữ cịn là cơng cụ của hoạt
8


động tư duy. Nó tham gia trực tiếp vào quá trình hình thành và phát triển tư duy con người.
Vốn tri thức, hiểu biết của con người được tàng trữ nhờ ngơn ngữ, rồi chính nhờ ngơn ngữ
mà người ta có thể truyền thụ đi tri thức. Tức là khơng chỉ có mặt “truyền đi” mà cả “nhận thức”
“truyền tải về” tri thức.
Về mặt sinh lí học, sự truyền đạt tri thức bằng ngôn ngữ là hiện tượng ngôn ngữ tham gia
vào việc tạo lập “liên hệ lâm thời”, 1 hoạt động khác biệt giữa con người và động vật. Nghĩa là
người ta không cần thiết phải quen trực tiếp với sự vật mà vẫn biết ít nhiều nó là gì, như thế nào…
+ Ta biết ý thức có nguồn gốc là thực tại khách quan, vì ý thức là hình ảnh chủ quan của
thực tại khách quan. Ý thức được thể hiện bằng ngơn ngữ, vì thế ngơn ngữ có quan hệ gián tiếp
với thực tại khách quan thơng qua ý thức. Quan hệ ngôn ngữ – tư duy (ý thức) – thực tại khách
quan thường được biểu diễn qua bộ ba từ - khái niệm – sự vật.
Cần phải rõ rằng ngôn ngữ và ý thức (tư duy) gắn bó với nhau, khơng tách rời nhau, nhưng
khơng phải là một. Với thực tại kết quả, ngôn ngữ là công cụ để định danh, gọi tên sự vật – hiện
tượng. Ngôn ngữ cũng là 1 công cụ để cấu trúc hóa, mơ hình hóa thực tại khách quan.
* Chức năng hệ quả: sáng tạo văn học, lưu trữ, thi pháp
Ngôn ngữ là nhân tố quan trọng bậc nhất trong số các nhân tố cấu thành nền văn hóa tộc
người. Nó cũng là tấm gương phản ánh nội dung văn hóa, lưu giữ và chuyển tải văn hóa từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Cả nền văn hóa vật chất hay văn hóa tinh thần của mỗi tộc người bao giờ
cũng được ghi lại, được phản ánh trong ngôn ngữ của tộc người đó.

Câu 8: Phân loại ngơn ngữ các dân tộc ở Việt Nam?
Các ngôn ngữ được các nhà ngơn ngữ học xếp vào các ngữ hệ cịn gọi là họ ngôn ngữ. Hệ
ngôn ngữ phân loại dựa trên các tiêu chí sau:
+ Hình thái học: phương thức cấu tạo từ.
+ Cú pháp học: phương thức đánh dấu các thành phần câu, các chức vụ cú pháp, trật tự từ,
kết cấu cú pháp.
+ Ngữ âm học: thanh điệu, phụ âm, nguyên âm.
Cùng hệ ngôn ngữ nhưng các ngôn ngữ khác nhau và khơng hiểu nhau, có hệ ngơn ngữ có
đến hàng chục ngơn ngữ khác khau. Việt Nam có 54 thành phần dân tộc. Mỗi dân tộc đều có bản
sắc văn hóa riêng, tạo nên sự thống nhất và đa dạng của văn hóa Việt Nam. Bản sắc văn hóa của
các dân tộc được thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, văn hóa vật thể và phi vật thể. 54 dân tộc
Việt Nam được xếp theo 8 nhóm ngơn ngữ: Việt – Mường, Tày - Thái, Mông - Dao, Ka Đai, Tạng
Miến, Nam Đảo, Hán.
Các hệ ngơn ngữ ở tại Việt Nam bao gồm:
+ Nhóm sự dụng ngôn ngữ Việt Mường: 4 dân tộc gồm: Kinh, Mường, Thổ, Chứt.
+ Nhóm sử dụng ngơn ngữ Tày Thái: 8 dân tộc gồm: Tày, Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự, Sán
Chay, Bố Y.
+ Nhóm ngơn ngữ Mơng – Dao: có 3 dân tộc gồm: Mơng, Dao, Pà Thẻn
+ Nhóm ngơn ngữ Ka Đai: có 4 dân tộc gồm: La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo;
+ Nhóm ngơn ngữ Tạng Miến: có 6 dân tộc là: Lơ Lơ, Phù Lá, Hà Nhì, La Hủ, Cống, Si La.
+ Nhóm ngơn ngữ Mơn Khơ Mer: có 21 dân tộc gồm: Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Chơ
9


Ro, Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Giẻ Triêng, H’rê, Kháng, Khơ Me, Khơ Mú, Mảng, Xinh Mun, Mnông, Ơ
Đu, Mạ, Rơ Măm, Tà ơi, Xơ Đăng, Xtiêng.
+ Nhóm ngơn ngữ Nam Đảo: có 5 dân tộc gồm: Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Raglai, Chu Ru.
+ Nhóm ngơn ngữ Hán: có 3 dân tộc gồm: Hoa, Ngái, Sán Dìu.
Câu 9: Tộc người là gì?
Tộc người (Ethnic) là một cộng đồng người hình thành và phát triển trong lịch sử, trên một

lãnh thổ nhất định, có đặc trưng chung ổn định về ngơn ngữ, đặc điểm sinh hoạt văn hố văn hóa,
có mối quan hệ nguồn gốc, có chung ý thức tự giác tộc người và tên tự gọi.
VD: tộc người Thái, Tày, Ê-đê, Bana…
Tộc người (ethnie/ethnos) là một tập đoàn người có tiếng nói chung, có nguồn gốc lịch sử,
văn hóa và ý thức tự giác cộng đồng.
Câu 10: Nêu các tiêu chí xác định tộc người?
Có 6 tiêu chí chính để xác định tộc người. Cụ thể:
- Tên gọi
Mỗi dân tộc và tộc người ngay từ khi mới hình thành đã đặt ra yêu cầu về một tên gọi cho
cộng đồng mình. Khơng chỉ tên gọi do chính tộc người đó đặt ra mới là tên gọi duy nhất mà cịn
có những tên gọi do các dân tộc và tộc người khác đặt ra cho họ, có thể những tên gọi đó mang
tính miệt thị nhưng cũng có thể là do thói quen.
Tuy nhiên tên gọi cuả một dân tộc và tộc người cịn phụ thuộc vào tính chất của xã hội và
các điều kiện cũng như giai đoạn lịch sử riêng chứ khơng có tính bất biến.
- Ngơn ngữ
Ngơn ngữ là một trong số những yếu tố giúp ta dễ dàng nhận ra một người thuộc về một dân
tộc hay tộc người nào. Có những quốc gia chỉ sử dụng duy nhất một ngơn ngữ nhưng cũng có quốc
gia sử dụng nhiều ngơn ngữ chính thức. Khơng khó để thấy nhiều cộng đồng người tuy khơng có
chung một ngơn ngữ nhưng vẫn có cách quy định hay một kiểu ngôn ngữ giúp họ, những người ở
những cộng đồng hiểu được nhau.
Ngôn ngữ là một yếu tố xác định tộc người rất quan trọng khi nó gắn liền với một con người
ngay từ khi sinh ra và được truyền lại qua nhiều thế hệ. Chính vì vậy, trong chiến tranh hay trong
lịch sử xâm lược nhiều quốc gia đã cố gắng đồng hoá tộc người và dân tộc khác bằng cách bắt họ
phải sử dụng ngôn ngữ của quốc gia, tộc người mình.
Trong các quốc gia đa sắc tộc như hiện nay, việc sử dụng đa ngôn ngữ và tiếng nói của dân
tộc thiểu số được tơn trọng và có quyền bình đẳng giữa các dân tộc, song với tình trạng tồn cầu
hố và mong muốn có được tiếng nói chung như hiện nay, ngôn ngữ của các dân tộc ít người rất
khó để có thể bảo tồn nguyên vẹn.
- Lãnh thổ
Một quốc gia dân tộc bao gồm một tộc người hay nhiều tộc người cũng phải được xây dựng

trên một lãnh thổ nhất định, được cai quản bởi một nhà nước. Một khi quốc gia dân tộc phát triển
thì lãnh thổ của các tộc người cư trú ở đó lại mất đi sự vững bền của nó. Cùng với sự di cư, thay
đổi nơi sinh sống của các tộc người, việc xác định lãnh thổ của tộc người càng trở nên khó khăn
hơn. Chính vì vậy, tiêu chí lãnh thổ là tiêu chí bắt buộc với một dân tộc nhưng không phải là tiêu
10


chí bắt buộc đối với tộc người.
- Cộng đồng kinh tế
Buổi ban đầu khi hình thành một tộc người, ngoại trừ các yếu tố tên gọi, ngôn ngữ và lãnh
thổ thì cần phải có chung một cộng đồng kinh tế. Tuy nhiên cùng với sự phát triển và phân công
phức tạp trong lao động thì cộng đồng kinh tế tự nó bị phá vỡ. Đối với dân tộc thì cộng đồng kinh
tế chính là yếu tố bắt buộc và cần thiết nhưng với một dân tộc thì đó chỉ là yếu tố cần có trong giai
đoạn đầu của tộc người.
- Cộng đồng văn hoá
Văn hoá với tộc người là những gì được chọn ra là thân thương và thiêng liêng nhất, trải qua
quá trình sáng tạo và tiếp biến với tộc người khác rồi được truyền qua nhiều thế hệ. Đối với tộc
người, tiêu chí xác định văn hố là những đặc trưng trong lối sống văn hoá của tộc người chứ
khơng phải tổng thể văn hố hay sinh hoạt thường ngày.
- Ý thức tự giác
Ý thức quốc gia dân tộc việc một cá nhân, một bộ phận, một cộng đồng thuộc về một tộc
người nào tự nguyện gia nhập làm một cơng dân của quốc gia đó và tn thủ luật và hiến pháp của
quốc gia đó. Ý thức tộc người bao gồm tất cả những yếu tố tên gọi, ngôn ngữ, lãnh thổ, những đặc
điểm kinh tế, sinh hoạt văn hố. Một cá nhân có thể có hai ý thức song trùng là ý thức dân tộc và
ý thức tộc người. Tuy nhiên ở nhiều cá nhân, ý thức tộc người lại mạnh mẽ hơn.
Ý thức tự giác là một yếu tố quan trọng đặc biệt để xác định thành phần tộc người hay dân
tộc, nhất là với những trường hợp cá nhân có bố và mẹ ở những thành phần dân tộc, tộc người
khác nhau.
Câu 11: Nêu quá trình xác định thành phần tộc người ở Việt Nam?
Về quá trình xác định tộc người, ở Việt Nam cịn ít các nghiên cứu chun sâu. Tuy nhiên,

hướng nghiên cứu này đã được đề cập từ những năm 70 của thế kỷ XX, với ý tưởng đầu tiên được
GS.TS. Bế Viết Đẳng trình bày trong “Mấy ý kiến về công tác xác minh thành phần các dân tộc ở
miền Bắc nước ta hiện nay”, đăng trên Thông báo Dân tộc học, số 3 (4), năm 1973. Trong bài viết
đó, tác giả cho rằng sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa ở vùng núi miền Bắc nước ta ảnh hưởng
nhiều đến quá trình tộc người của vùng này. Quá trình tộc người ở đây bao gồm ba khuynh hướng
cơ bản, đó là đồng hóa tự nhiên, hịa hợp dân tộc và gần gũi - đoàn kết dân tộc. Theo đó, tác giả
đã dành nhiều trang để dẫn dụ và phân tích ba q trình này, đồng thời khẳng định xu hướng chung
là quá trình hợp nhất, với biểu hiện chủ yếu là đồng hóa và hịa hợp dân tộc. Cùng với thời gian,
q trình tộc người cịn được GS.TS. Bế Viết Đẳng đề cập theo cách lồng ghép trong một số nghiên
cứu tiếp theo (Bế Viết Đẳng, 1974, tr. 20-30; 1984, tr. 26-44). Song, dấu ấn sâu sắc trong nghiên
cứu vấn đề này của ông phải là bài báo “Các quá trình tộc người ở Việt Nam” (1988, tr. 3-15).
Câu 12: Nêu kết quả xác định thành phần tộc người ở Việt Nam?
Năm 1959, trong cuốn "Các Dân tộc thiểu số Việt Nam" của nhóm tác giả Lã Văn Lơ,
Nguyễn Hữu Thấu, xác định nước ta có 64 dân tộc. Năm 1973, tại Hà Nội, đã tiến hành hai cuộc
hội thảo khoa học (vào tháng 6 và tháng 11), thống nhất lấy dân tộc (tộc người) làm đơn vị cơ bản
trong xác định thành phần dân tộc ở Việt Nam.
Ba tiêu chí để xác định dân tộc: Có chung tiếng nói (ngơn ngữ mẹ đẻ); có chung những đặc
11


điểm sinh hoạt văn hóa (đặc trưng văn hóa); có cùng ý thức tự giác, tự nhận cùng một dân tộc.
Với các tiêu chí này, ở Việt Nam khi đó được xác định gồm 59 dân tộc.
Bảng danh mục này đã được đăng trong cuốn tài liệu: "Các dân tộc ít người ở Việt Nam, các
tỉnh phía Bắc" (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978) và đăng trong tạp chí Dân tộc học,
số 1 năm 1974.
Nhằm phục vụ Tổng điều tra dân số cả nước vào năm 1979, tháng 12-1978, Bảng danh mục
54 dân tộc được Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam và Hội đồng Dân tộc thống nhất trình Chính
phủ. Sau đó, Chính phủ đã ủy nhiệm cho Tổng cục Thống kê ban hành "Danh mục thành phần các
dân tộc Việt Nam" theo Quyết định 121-TCTK/PPCĐ ngày 2-3-1979. Theo danh mục này, ở nước
ta có 53 dân tộc thiểu số và 1 dân tộc đa số (dân tộc Kinh).

Câu 13: Khái quát về sự phân kỳ xã hội nguyên thủy?
- Khái niệm:
Xã hội nguyên thủy còn được gọi là xã hội đơn giản chỉ giới hạn ở việc tìm kiếm và sản xuất
lương thực chỉ để đáp ứng nhu cầu của bản thân. Vì vậy mà sản lượng do xã hội nguyên thủy sản
xuất ra còn rất thấp. Các xã hội nguyên thủy thường được biết đến là xã hội chủ yếu kế sinh nhai
săn bắn vì họ chưa biết đến hệ thống mua bán hoặc trao đổi. Nên sự phụ thuộc lẫn nhau ở đây hầu
như không bao giờ xảy ra, họ quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề tương ứng của họ.
Xã hội nguyên thủy được cai trị bởi các cơ chế đạo đức có nguồn gốc từ sinh học của quan
hệ họ hàng, bộ lạc nguyên thủy có thể quản lý mà không cần quan chức và người cai trị.
- Sự phân kỳ xã hội nguyên thủy:
Các giai đoạn phát triển của xã hội nguyên thủy gồm 2 giai đoạn:
Bầy người nguyên thủy
Dạng
người

Người tối cổ

Công xã thị tộc
+ Người tinh khơn
+ Hình thành 3 chủng tộc lớn: da vàng, da trắng
và da đen.

Biết mài đá để tạo ra công cụ sắc bén hơn, biết
Biết ghè đẽo đá làm công cụ, tạo ra
Đời sống
chế tạo công cung tên, làm đồ gốm, dệt vải và
lửa, sống trong hang động, dựa vào
kinh tế
trồng trọt, chăn nuôi; biết dựng lều bằng cành
săn bắt và hái lượm

cây hoặc xương thú để ở

Tổ chức
xã hội

Sống thành bầy khoảng vài chục
người, có người đứng đầu, có sự
phân cơng lao động và cùng chăm
sóc con cái.

Sống quần tụ trong các thị tộc gồm 2, 3 thế hệ
có cùng dòng máu, làm chung, hưởng chung.
Nhiều thị tộc họ hàng sống cạnh tranh tạo thành
bộ lạc

Làm đồ trang sức như vòng cổ, vòng tay, hoa
Làm vòng trang sức như vòng đeo
Đời sống
tay bằng đá, làm tượng bằng đá bằng đất nung,
tay bằng vỏ ốc hay răng thú xuyên
tinh thần
vẽ tranh trên vách đá,…
lỗ, vẽ tranh trên vách đá,…
Đã có tục chon người chết và đời sống tâm linh
12


Câu 14: Nêu các giai đoạn phát triển của xã hội nguyên thủy?
Xã hội nguyên thủy sẽ phát triển qua 3 giai đoạn chính:
- Giai đoạn 1: Giai đoạn thị tộc, bộ lạc. Đây là giai đoạn đầu tiên con người tiến hóa từ lồi

vượn người thành người tinh khơn.
Cách đây hàng chục triệu năm, trên Trái Đất của chúng ta xuất hiện loài vượn cổ sống tại
các khu rừng rậm thành bầy đàn bao gồm khoảng 5 đến 7 gia đình. Trong các bầy đàn đã có sự
phân cơng lao động giữa nam và nữ. Cùng với quá trình tìm kiếm thức ăn, lồi vượn đã tiến hóa
biết đi bằng hai chi sau, và dùng hai chi trước để cầm nắm sử dụng hịn đá, cành cây làm cơng cụ
để kiếm ăn. Đó là người tối cổ hay cịn gọi là người vượn. Và trải qua hàng triệu năm sau đó, người
tối cổ dần dần phát triển thành người tinh khôn.
Đến giai đoạn Người tinh khôn, dân số dần tăng lên. Các nhóm người cũng trở nên đơng đúc
hơn, gồm từ 2 đến 3 thế hệ từ già đến trẻ có chung một dịng máu, gọi là thị tộc – những người
“cùng họ”.
Trong thị tộc, tinh thần kính trên nhường dưới được thực hiện rất nghiêm túc, con cháu phải
tơn kính lớp ơng bà, cha mẹ. Ngược lại, ơng bà, cha mẹ đều chăm lo, nuôi dưỡng tất cả con cháu
của cả thị tộc.
Tai các vùng có điều kiện thuận lợi về thức ăn cũng như nơi ở như ven sơng, suối… khơng
chỉ có thị tộc mà cịn hình thành cả bộ lạc. Và đương nhiên, nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng
hàng đầu của thị tộc là kiếm thức ăn để có thể ni sống cả thị tộc. Với những công việc như thế,
đặc biệt là công việc săn đuổi và săn bẫy các con thú lớn và chạy nhanh, ln địi hỏi sự phân cơng
nhiệm vụ hợp lí, sự “chung lưng đấu cật”, mỗi người một việc, phối hợp ăn ý, đồn kết với nhau.
Cơng việc và trình độ lao động thời ngun thuỷ u cầu, địi hỏi có sự hợp tác, giúp đỡ lao
động của nhiều người, của cả thị tộc.
Thức ăn kiếm được còn hạn chế, chưa có đều đặn. Tất cả mọi người cần phải cùng làm, cùng
cố gắng cao nhất để kiếm sống nên theo lẽ tự nhiên người ta thấy cần phải công bằng, phải được
hưởng thụ bằng nhau.
- Giai đoạn 2: Giai đoạn của thời đại kim khí. Giai đoạn là một sự phát triển vượt bậc với
sự xuất hiện của công cụ lao động bằng kim loại khiến cho việc lao động sản xuất của con người
ngày càng năng suất.
Từ chỗ ban đầu con người sử dùng các công cụ bằng đá, xương, tre, gỗ, người ta đã bắt đầu
biết chế tạo các đồ dùng và công cụ bằng đồng nhằm phục vụ cho các hoạt động sản xuất.
Người dân ở Tây Á và Ai Cập là những người biết sử dụng công cụ, dụng cụ bằng đồng sớm
nhất, đầu tiên là đồng đỏ vào khoảng 5500 năm trước đây. Cách hiện nay khoảng 4000 năm, nhiều

người dân trên Trái Đất đã biết dùng đồng. Nhưng đồng nguyên chất thì lại rất dẻo, kém bền nên
họ chỉ dùng đồng làm trang sức.
Tuy nhiên sau đó, họ đã biết pha đồng với thiếc, chì, nhơm thành hợp chất đồng thau. Từ đó,
họ dùng hợp chất đó để làm thành cuốc, rìu, lưỡi cày để sản xuất, lao động.
Khoảng 3000 năm trước đây, người dân tại Tây Á và Nam Âu đều là những người trước tiên
biết kỹ thuật đúc và sử dụng đồ sắt. Cơng cụ bằng kim khí đã mở ra một dấu mốc mới giúp cho
tác dụng và năng suất lao động của con người vượt xa thời kỳ đồ đá. Đặc biệt với công cụ bằng
13


sắt thì khơng một cơng cụ đá nào có thể so bì được. Cũng nhờ có cơng cụ bằng kim khí, nhất là
ơng cụ bằng sắt, người ta có thể khai phá những vùng đất đai mới lạ mà trước kia chưa khai hoang
nổi, có thể cày sâu cuốc bẫm và làm đất tốt hơn, có thể chặt gỗ đóng thuyền đi ra biển, xẻ đá tạo
dựng nhà, lâu đài và bản thân kỹ thuật đúc sắt đơn sơ cũng là một ngành sản xuất rất quan trọng.
Đây được coi là một cuộc cách mạng lớn trong sản xuất. Lần đầu tiên trên chặng đường lịch
sử loài người, con người ta có thể làm ra một lượng sản phẩm thừa và có thể để tích lũy.
Suốt trong thời đại đồ đá, con người từ chỗ sống bấp bênh thiếu ăn mặc tiến tới đủ sống và
thậm chí có lúc dư thường xuyên.
- Giai đoạn 3: Giai đoạn xã hội nguyên thủy tan rã. sự phân chia giai cấp, tư hữu cá nhân
xuất hiện khiến xã hội nguyên thủy tan rã.
Sự kết thúc của xã hội nguyên thủy được đánh dấu bằng sự hình thành của sự hình thành
giai cấp và tư hữu.
Trong xã hội nguyên thuỷ lúc bấy giờ công bằng và bình đẳng chính là “ngun tắc vàng”.
Bởi khi ấy con người ta sinh sống trong một cộng đồng, dựa vào nhau vì cuộc sống cịn q khó
khăn, nhưng kể từ khi bắt đầu có sản phẩm dư thừa thì khơng thể đem chia đều cho mọi người.
Trong xã hội, mỗi thành viên đều có những danh phận khác nhau. Ban đầu, một số người
được cử chỉ huy dân trong thị tộc bộ lạc, chuyên về lễ nghi hoặc điều hành các công việc chung
(xây đền, làm nhà, làm đường, đắp đê…). Những người này lợi dụng chức vụ của mình để chiếm
một phần sản phẩm xã hội dư thừa làm của riêng cho mình mà khơng dành cho các cơng việc
chung. Chẳng bao lâu, họ có nhiều của cải hơn những người khác trong thị tộc, bộ lạc. Và thế là

của chủ nghĩa tư hữu bắt đầu xuất hiện.
Quan hệ gắn kết của cộng đồng bắt đầu bị rạn nứt. Gia đình cũng thay đổi. Đàn ơng – những
người chuyên làm các việc nặng nhọc như cày bừa, làm thuỷ lợi, làm dân binh, có vai trị trụ cột
và đứng lên giành lấy quyền quyết định trong gia đình. Con cái bắt đầu lấy theo họ của cha. Gia
đình phụ hệ xuất hiện thay thế gia đình mẫu hệ lâu đời trong lịng thị tộc thời ngun thuỷ.
Ngồi ra, khả năng lao động của mỗi gia đình là khác nhau cũng đã thúc đẩy thêm sự phân
biệt và nâng cao khoảng cách giàu – nghèo.
Xã hội nguyên thuỷ, hay còn gọi là xã hội thị tộc bộ lạc, bị rạn vỡ. Con người đang đứng
trước thử thách đầu tiên của thời đại xã hội có giai cấp đầu tiên – xã hội cổ đại.
Như vậy, nguyên nhân chủ yêu gây ra sự tan rã của xã hội nguyên thuỷ- xã hội đầu tiên của
loài người là do sự xuất hiện của cơng cụ lao động bằng kim khí như đồng, sắt giúp nâng cao năng
suất dẫn đến hình thành khối lượng lớn các sản phẩm dư thừa. Trên cơ sở đó hình thành sự phân
chia giai cấp. Tinh thần cốt yếu của xã hội nguyên thủy là sự cơng bằng, gắn kết chia sẻ đã khơng
cịn thay vào đó là sự riêng rẽ, chủ nghĩa cá nhân, lịng tham tư lợi.
Câu 15, 16: Nêu đặc điểm của mẫu hệ và phụ hệ?
Trong xã hội nguyên thủy, loài người trải qua 2 hình thức cộng đồng thị tộc cơ bản là thị tộc
mẫu hệ và thị tộc phụ hệ.
+ Thị tộc mẫu hệ là loại hình thị tộc mà người phụ nữ nắm vai trị điều hành tồn bộ hoạt
động trong gia đình và xã hội thị tộc, con cái sinh ra tính theo họ mẹ, hơn nhân cư trú bên nhà vợ.
Thị tộc mẫu hệ là hình thức thị tộc đầu tiên và phổ biến của xã hội loài người, ra đời và tồn
14


tại hàng vạn năm suốt giai đoạn cực thịnh của cơng xã ngun thủy. Người phụ nữ có vai trị lớn,
là người đứng đầu gia đình và các thị tộc. Vì thế, giai đoạn này gọi là thị tộc mẫu hệ hay mẫu
quyền, được Ph.Ăngghen chỉ ra 10 đặc điểm: Thành viên có quyền bầu cử, bãi miễn tù trưởng và
thủ lĩnh quân sự theo phổ thông đầu phiếu; thị tộc ngoại hôn; tài sản của thành viên chết để lại cho
thị tộc; tác thành viên có trách nhiệm giúp đỡ, bảo vệ nhau; có tên gọi riêng; thị tộc có quyền nhận
người làm con ni, kể cả tù binh; thị tộc có nghi lễ tơn giáo chung; thị tộc có nghĩa địa chung; tài
sản là của chung và phân phối bình quân; cơ quan quyền lực cao nhất của thị tộc là đại hội dân

chủ toàn thị tộc.
Mỗi thị tộc mẫu hệ gồm nhiều đại gia đình mẫu hệ cùng huyết thống, có 4 đến 5 thế hệ ở
chung từ 50 đến 100 người. Con cái sinh ra tính theo dịng họ của người mẹ; trong hơn nhân, người
chồng cư trú bên vợ. Đứng đầu gia đình là người phụ nữ có uy tín, am hiểu phong tục tập quán,
kinh nghiệm sản xuất.
+ Thị tộc phụ hệ là giai đoạn kế tiếp thị tộc mẫu hệ, ra đời từ thời kỳ đồ đá mới trở đi (6.0008.000 năm trước), từ sự phát triển của sản xuất, “nông nghiệp cuốc” chuyển sang “nông nghiệp
cày”, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt… vì cần có sức khỏe của người đàn ơng, làm thay đổi vị trí
nam - nữ.
Thị tộc phụ hệ là loại hình trong đó người đàn ơng nắm quyền điều hành tồn bộ hoạt động
của gia đình và xã hội thị tộc, con cái sinh ra tính theo dịng họ cha, hôn nhân cư trú bên chồng.
Thị tộc phụ hệ có các đặc điểm: Có nghi lễ tơn giáo chung; có nghĩa địa chung; quyền kế
thừa tài sản trong nội bộ thị tộc; có nghĩa vụ giúp đỡ bảo vệ nhau; có hơn nhân nội tộc trong trường
hợp cần giữ tài sản của thị tộc, song hôn nhân phổ biễn là ngoại hơn; tài sản là của chung; huyết
tộc tính theo dịng cha; cấm nội hơn; thị tộc có quyền nhận người làm con ni; thành viên có
quyền bầu cử và bãi miễn tù trưởng và thủ lĩnh quân sự.
Câu 17: Tơn giáo là gì?
+ Theo nghĩa rộng: “Tơn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên”.
+ Theo nghĩa hẹp: “Tơn giáo là lịng tin và sự ngưỡng mộ vào một lực lượng siêu nhiên,
thần bí nào đó tác động đến đời sống tâm linh của con người và được con người tin là có thật
cũng như tơn thờ”.
+ Tơn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm
đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức – (Khoản 5 Điều 2, Luật Tín ngưỡng, tơn
giáo năm 2016).
+ Các Mác định nghĩa tôn giáo theo một cách hình ảnh và văn chương hơn: “Tơn giáo là
tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng giống như
nó là tinh thần của những trật tự khơng có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.
+ Theo từ điển Triết học: “Tôn giáo là sự phản ánh sai lệch hư ảo trong đầu óc con người
về những lực lượng tự nhiên và xã hội chi phối con người”.
Câu 18: Nêu các hình thức của tơn giáo sơ khai?
Hiện tại có 15 hình thức tơn giáo sơ khai tiêu biểu:

+ Tô tem
+ Ma thuật làm hại

+ Ma thuật chữa bệnh
+ Nghi lễ và thờ cúng dục tình
15


+ Ma chay

+ Thờ cúng thần bản mệnh

+ Lễ thành đinh
+ Cầu cúng cho săn bắt
+ Thờ cúng của thị tộc mẫu hệ
+ Thờ cúng của thị tộc phụ hệ
+ Saman giáo

+ Sùng bái hội kín
+ Sùng bái thủ lĩnh
+ Thờ cúng thần bộ lạc
+ Nghi lễ nông nghiệp

Giảng viên giảng dạy môn học

Người soạn thảo tài liệu, tác giả

Khoa Văn hóa dân tộc thiểu số (trước đây)

Nguyễn Linh – khóa 60

Hà Nội, ngày 28 tháng 12 năm 2023

16



×