Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu Luận Vấn Đề Đạo Đức Và Văn Hóa Nghề Nghiệp Của Luật Sư Việt Nam Thực Trạng Và Hướng Hoàn Thiện.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.59 KB, 14 trang )

TIỂU LUẬN
VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC VÀ VĂN HÓA NGHỀ NGHIỆP CỦA LUẬT SƯ VIỆT
NAM THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
I . Vấn đề đạo đức và văn hóa nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam.
1. Vấn đề đạo đức của Luật sư Việt Nam:
Đạo đức là hình thái đặc biệt về nhận thức của con người về các phạm trù
như: chính - tà, thiện - ác, tốt - xấu, phải - trái, cao thượng - hèn hạ trong ứng xử
của mình và là một trong những phương thức chủ yếu để điều chỉnh hành vi của
con người trong xã hội với sự trợ giúp của hệ thống các quy phạm - chuẩn mực.
Đạo đức nghề nghiệp của Luật sư bao gồm những quy định chung về đạo
đức của bản thân Luật sư trong các mối quan hệ với khách hàng, cơ quan nhà
nước, và đồng nghiệp của Luật sư.
Dù làm bất cứ nghề nghiệp gì, ai trong số những con người trong xã hội
cũng nên giữ cho mình cái tâm trong sáng, gìn giữ phẩm hạnh của mình, đó chính
là đạo đức. Cùng với quy định về Nhận thức được sự cần thiết phải chuẩn hóa về
mặt đạo đức của Luật sư, ngày 5 tháng 8 năm 2002 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban
hành Quyết định số 356/2002/QĐ-BTP cho ra đời bản Quy tắc mẫu về đạo đức
nghề nghiệp luật sư, được thông qua ngày 29 tháng 5 năm 2004 tại Hội Nghị đoàn
Luật sư Thành phố Hà Nội. Là luật sư cần phải tuân theo những quy tắc về đạo
đức nghề nghiệp của người Luật sư:
-

Mỗi Luật sư phải ý thức được sứ mệnh của mình, biết giữ gìn phẩm giá

và danh dự nghề nghiệp. Tạo niềm tin và sự kính trọng trước tiên từ khách hàng,
từ đó tôn vinh nghề Luật sư.

Trang 1


-



Trước khi là một Luật sư thì chính bản thân con người đó phải rèn

luyện cho bản thân đức tính độc lập, trung thực, khách quan, nhiệt tình trong cơng
việc. Khơng ngại khó, ngại khổ, khơng dồn trách nhiệm cho đồng nghiệp, cho
người khác.
-

Là người thừa hành pháp luật, am tường các quy định của pháp luật,

Luật sư phải là người tuân thủ pháp luật, không được trực tiếp hoặc gián tiếp làm
bất cứ việc gì gây ảnh hưởng bất lợi hoặc có khả năng làm ảnh hưởng bất lợi đến
tính độc lập, liêm chính và uy tín của Luật sư. Luật sư không được tư vấn hoặc
giúp đỡ khách hàng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hoặc gian trá. Và Luật sư
phải chịu trách nhiệm trước Pháp luật nhà nước về những việc mình làm. Thơng
thường Luật sư phải từ chối hoặc rút lui khỏi một vụ việc nếu khách hàng yêu cầu
Luật sư làm một việc phạm pháp hoặc vi phạm quy tắc đạo đức.
-

Luật sư khi bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho khách hành phải sử dụng

các biện pháp hợp pháp, có căn cứ có đạo đức để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích
hợp pháp của khách hàng. Cơng việc Luật sư trợ giúp cho khách hàng phải hồn
tồn vì lợi ích của khách hàng và không bị ràng buộc bởi những thỏa hiệp ảnh
hưởng đến lòng trung thành của Luật sư với khách hàng.
-

Để tạo vị thế của Luật sư với xã hội và nềm tin của khách hàng, Luật

sư phải có nghĩa vụ tơn trọng sự lựa chọn luật sư của khách hàng, nếu không được

khách hàng đồng ý, không được tự giao việc mình đã nhận cho người khác làm
thay. Luật sư chỉ nhận những vụ việc theo khả năng của mình và thực hiện vụ việc
theo phạm vi yêu cầu của khách hàng. Luật sư không được nhận việc nếu có xung
đột hoặc có nguy cơ xung đột về quyền lợi với khách hàng khác.
-

Trong quan hệ với khách hàng, Luật sư không nên để áp lực tài chính

ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Luật sư và khách hàng của mình. Nên tách bạch

Trang 2


hai vấn đề thì việc Luật sư cung cấp cho khách hàng những lời khuyên mới vô tư
và trong sáng.
-

Để thể hiện là Luật sư có trách nhiệm với khách hàng, khi giải quyết vụ

việc của khách hàng phải thể hiện tinh thần khẩn trương, và phải thơng báo tiến
trình giải quyết cơng việc để khách hàng có quyết định kịp thời.
-

Một nguyên tắc cơ bản trong quan hệ Luật sư với khách hàng là Luật

sư phải giữ bí mật thông tin liên quan đến việc đại diện cho khách hàng, Luật sư
rất cần sự trung thực của khách hàng, bên cạnh đó khách hàng cũng cần Luật sư
biết giữ bí mật cho mình. Đây là nghĩa vụ của Luật sư, điều này rất cần thiết, nếu
muốn ngày càng có nhiều khách hàng tìm đến yêu cầu Luật sư bảo vệ mình.
-


Đạo đức của mỗi Luật sư thể hiện nhiều trong mối quan hệ giữa Luật

sư với những đồng nghiệp của mình. Đây là mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn
nhau giữa các Luật sư nhằm nâng cao hoạt động nghiệp vụ và phục vụ khách hàng
được tốt hơn. Từ những lý do đó, rất cần sự đồn kết giữa các Luật sư. Vì vậy,
Luật sư khơng được làm mất uy tín của nhau bằng việc tự đề cao mình và phải
thận trọng trong việc phê phán hoặc chỉ trích Luật sư khác. Quan hệ đồng nghiệp
là lĩnh vực được điều chỉnh bởi quy tắc đạo đức nghề nghiệp của Luật sư và nó
thể hiện được tính tự quản trong hoạt động nghề nghiệp của Luật sư.
-

Nghề luật sư là một nghề đặc thù đòi hỏi người hành nghề phải có trình

độ chun mơn, có kinh nghiệm và những hiểu biết xã hội. Luật sư phải tự ý thức
được việc học hỏi kinh nghiệm và trau dồi kiến thức là điều cần thiết. Phải dùng
những hiểu biết của mình để tư vấn và phục vụ khách hàng. Có như vậy thì đội
ngũ Luật sư mới được xã hội đánh giá cao. Khi chúng ta có nhiều đồn luật sư có
nhiều luật sư kinh nghiệm và uy tín, hẳn nhiên sẽ được xã hội nhìn nhận và tơn
trọng.

Trang 3


-

Luật sư là người hoạt động khoa học pháp lý ở vị trí người hướng dẫn

pháp luật và đạo lý cho người khác, luôn luôn lấy việc bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ
phải và công bằng xã hội làm mục tiêu cao quý.

-

Cùng với vai trò là người hướng dẫn pháp luật, vai trị của Luật sư cũng

khơng thể thiếu trong hoạt động phản biện. Sức mạnh của Luật sư là những lý
luận mang tính phản biện. Hoạt động của luật sư cần bảo đảm sao cho tính
chất phản biện của mình có khoảng cách rõ nét khơng để lẫn lộn vớingụy biện. Đó
cũng là

nền

tảng của đạo đức nghề nghiệp luật sư.
Cùng với những quy định về nghĩa vụ của Luật sư được quy định tại điều 9
của Luật Luật sư 2006, bản Quy tắc mẫu về đạo đức nghề nghiệp luật sư đã tạo ra
những chuẩn mực quy định rõ điều Luật sư được làm và điều Luật



không

được làm.
2. Vấn đề văn hóa nghề nghiệp của Luật sư
-

Việt Nam:

Nghề Luật sư là nghề cao quý, để duy trì và khẳng định điều này, mỗi

con người trong nghề Luật sư cần phải phát huy lối sống có văn hóa, thể hiện
trong cách cư xử đúng mực hàng ngày, cũng như thể hiện nét văn hóa trong nghề

nghiệp của Luật sư. Để luôn tạo được sự tin cậy và sự tôn trọng của xã hội đối với
Luật sư và nghề Luật sư.
-

Kiến thức của Luật sư không những chỉ giúp cho Luật sư trong quá

trình hành nghề của mình, kiến thức cịn giúp Luật sư thể hiện mình là người hiểu
biết về xã hội, là người có trình độ hoặc kỹ năng nhất định. Là Luật sư, nên thể
hiện nét văn hóa của Luật sư trong việc am hiểu nhiều lĩnh vực trong xã hội, để
khi tư vấn cho khách hàng, hoặc phản biện những lĩnh vực mới theo vụ việc mà
khách hàng yêu cầu không bị ngỡ ngàng và tốn thời gian tìm hiểu lại.

Trang 4


-

Luật sư phải có lịng tự trọng nghề nghiệp. Khơng cố gắng xử lý những

vấn đề mà chính bản thân mình nhận thấy mình khơng đủ khả năng, hoặc giải
quyết vấn đề do khách hàng u cầu mà khơng có sự chuẩn bị đầy đủ, thận trọng
và kỹ lưỡng.
-

Lòng trung thành với khách hàng cũng là điều kiện thể hiện nét văn hóa

của Luật sư với khách hàng. Đó là niềm tin của khách hàng đối với Luật sư. Lòng
trung thành của Luật sư đối với khách hàng của mình thể hiện: Luật sư phải giữ bí
mật cho khách hàng khơng chỉ đến khi hồn thành vụ việc cho khách hàng. Luật
sư chỉ được tiết lộ những thông tin của khách hàng khi có sự cho phép, đồng ý của

khách hàng.
-

Trong công việc, Luật sư không được để quyền lợi riêng tư của Luật sư

ảnh hưởng đến việc đại diện cho khách hàng, khi tham gia phản biện không được
để tư duy, suy nghĩ riêng tư làm mất tập trung trong q trình phản biện, ảnh
hưởng tới kết quả cơng việc, không bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng.
-

Luật sư phải tỏ lịng tơn trọng với khách hàng, tôn trọng với xã hội.

Phải lắng nghe và nên đồng cảm, chủ động tìm hiểu những tâm tư, suy nghĩ riêng
tư của khách hàng đối với vụ việc mà khách hàng cần sự giúp đỡ của Luật sư.
-

Khi thực hiện cơng việc của mình, Luật sư phải gặp gỡ và tiếp xúc với

nhiều đối tượng, nhiều tầng lớp trong xã hội. Luật sư khơng nên phân biệt đối
tượng mình tiếp xúc, nên tỏ thái độ lịch sự trước mọi người. Nét văn hóa trong
nghề nghiệp của Luật sư thể hiện trong kỹ năng giao tiếp khéo léo của Luật sư.
Việc tiếp xúc với khách hàng khơng chỉ địi hỏi kỹ năng giao tiếp của Luật sư, mà
qua đối thoại, Luật sư có thể hiểu rõ thêm hồn cảnh nhân thân của khách hàng,
tạo điều kiện để khách hàng hiểu thêm khả năng và phẩm chất của Luật sư và
nghề Luật sư.

Trang 5


-


Theo từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1997 của Viện ngôn ngữ học,

thù lao được hiểu là: “Thù lao là việc trả công để bù đắp vào lao động đã bỏ ra,
căn cứ vào khối lượng công việc hoặc theo thời gian lao động, có chế độ thù lao
thích đáng". Khi tiếp xúc với khách hàng, trao đổi về yêu cầu của khách hàng, vấn
đề thù lao của Luật sư, Luật sư nên nói tế nhị, minh bạch với khách hàng, không
nên thể hiện thô thiển, làm mất thiện cảm của khách hàng đối với Luật sư và nghề
Luật. Vấn đề thù lao Luật sư nên trao đổi với khách hàng trên tinh thần thỏa
thuận, trao đổi thống nhất, tự nguyện giữa Luật sư và khách hàng.
-

Khi đi liên hệ công việc giải quyết cho khách hàng, Luật sư phải tiếp

xúc với Cơ quan Nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng; Luật sư phải nghiêm chỉnh
chấp hành nội quy, quy chế làm việc của cơ quan Luật sư đến liên hệ. Phải có thái
độ lịch sư, tơn trọng cán bộ, công chức Nhà nước khi làm nhiệm vụ của mình.
Đặc biệt, đối với Thẩm phán, khi tiếp xúc Luật sư nên tỏ thái độ kính trọng, lịch
sự, khơng nên quá thân mật, tránh gây những hiểu lầm cho mọi người.
-

Nét văn hóa của nghề nghiệp Luật sư thể hiện nhiều trong quan hệ của

Luật sư với đồng nghiệp. Luật sư phải ln ln duy trì quan hệ tốt với đối tác,
nếu điều đó khơng ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng và có thể tạo thiện
chí của đối tác trong những vụ việc sau này. Không nên có ý kiến mang tính chất
xúc phạm đến một Luật sư khác, phải có thái độ thân ái và tơn trọng đồng nghiệp.
Trong quan hệ của mình các Luật sư nên phát huy tính đồn kết, từ đó cùng nhau
bổ trợ kiến thức nâng cao khả năng của mỗi người. Đây là nét văn hóa rất cần
thiết trong nghề Luật sư.

-

Trang phục là vẻ mỹ quan bên ngoài khi tiếp xúc giữa con người với

con người. Trang phục của Luật sư rất quan trọng khi tiếp xúc với khách hàng, với
cơ quan Nhà nước, và đặc biệt quan trọng trong vai trị của người phản biện. Do
đó, Luật sư phải lựa chọn trang phục sao cho phù hợp với từng ngữ cảnh xuất

Trang 6


hiện, phù hợp với từng đối tượng tiếp xúc. Đối với khách hàng, Luật sư nên chuẩn
bị cho mình trang phục lịch sự, đối với không gian phản biện tại phiên tòa, trang
phục phải thể hiện nét trang trọng và uy nghiêm của nghề Luật sư.
-

Ngồi ra, Luật sư cịn phải biết sử dụng những phương tiện, công cụ

làm việc, thể hiện được nét văn hóa trong nghề nghiệp của mình. Phải liên tục cập
nhật thơng tin, học hỏi nhiều lĩnh vực, làm sao đó mỗi Luật sư đều thể hiện được
trong bản thân mỗi người đều có nét văn hóa tư pháp, thu hút sự chú ý và tạo nên
niềm tin cho mọi người.
II. Thực trạng và một vài phương hướng nhằm hồn thiện đạo đức và
văn hóa nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam.
1. Thực trạng:
Khi bàn về đạo đức nghề nghiệp luật sư, có nhiều nhận thức và quan niệm
khác nhau. Tổng hợp lại, nổi lên có hai khuynh hướng đáng phải suy nghĩ. Có
khuynh hướng cho rằng, trong cộng đồng xã hội nghề nào cũng đòi hỏi người làm
nghề phải có lương tâm, trách nhiệm đối với nghề của mình trước xã hội. Như
vậy, có cần phải đặt “Đạo đức nghề nghiệp luật sư” thành vấn đề riêng biệt

không?
Khuynh hướng khác lại cho rằng, trong thời buổi kinh tế thị trường, mọi
ngành nghề trong xã hội đều mang tính cạnh tranh nhằm thu lợi nhuận cao nhất.
Hoạt động luật sư là một nghề giống như mọi nghề khác, cùng chịu sự chi phối
của quy luật thị trường. Việc đặt “Đạo đức nghề nghiệp luật sư'' thành một vấn đề
riêng biệt là không tưởng.
Hai khuynh hướng trên, tuy có những khía cạnh khác nhau nhưng suy cho
cùng lại có chung một quan điểm là khơng coi trọng đạo đức nghề nghiệp luật sư.
Ở khuynh hướng thứ hai còn đánh đồng nghề luật sư như mọi nghề khác, tức là
tầm thường hoá danh dự nghề luật sư của mình. Ai cũng biết rằng, người ta bất cứ

Trang 7


làm nghề gì cũng đều phải có lương tâm, trách nhiệm đối với việc làm của mình.
Nhưng do quy luật sinh tồn và phát triển không đồng đều nên mỗi ngành nghề
khác nhau đều có tính chất khác nhau, địi hỏi lương tâm, trách nhiệm, đạo đức
của người làm nghề có sự khác nhau, khơng ai có thể đánh đồng được.
Người làm nghề luật sư cũng giống như mọi người làm nghề khác ở chỗ: có
học, được đào tạo thành người có đủ phẩm chất. Chân, Thiện, Mỹ, cũng địi hỏi có
khối óc thơng minh và tấm lịng ngay thẳng, nhân hậu. Nhưng nghề luật sư lại có
đặc thù riêng, đó là phải gắn liền với mọi lĩnh vực pháp luật của Nhà nước. Các
ngành nghề khác chỉ quan hệ đến một vài lĩnh vực pháp luật có liên quan mà thôi.
Ở Việt Nam hiện nay nghề Luật sư đang dần khẳng định được vai trò quan
trọng, tuy nhiên trong các văn bản pháp lý, cũng như quan niệm của cơ quan nhà
nước, cơ quan tiến hành tố tụng và quan niệm của Doanh nghiệp, của người dân
thì vai trị Luật sư chưa được coi trọng xứng với tầm thực tế của Luật sư. Đó cũng
là một trong những lý do ảnh hưởng đến đạo đức và văn hóa nghề nghiệp của Luật
sư Việt Nam.
- Theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự của nước Cộng Hịa

Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì người bào chữa có thể là:
+ Luật sư;
+ Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
+ Bào chữa viên nhân dân.
Trong số những người tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa nói
trên, có thể nói Luật sư là người tham gia có hiệu quả nhất. Song, trên thực tế,
Luật sư muốn hoàn thành cơng việc bào chữa cho khách hàng của mình, tham gia
đầy đủ trong các giai đoạn tố tụng đã gặp rất nhiều khó khăn từ phía các cơ quan
tiến hành tố tụng tạo ra. Do đó, có nhiều Luật sư phải chọn “con đường phụ” chỉ
để được gặp khách hàng của mình. Điều này, đã vi phạm “Những việc luật sư

Trang 8


không được làm trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan Nhà
nước khác ” theo Quy tắc đạo đức nghề nghiệp Luật sư.
Trên thực tế, ở nơi này, nơi khác vẫn cịn có những cái nhìn khơng mấy
thiện cảm và tơn trọng đối với luật sư. Khách quan mà nói, sở dĩ có việc nhìn
nhận khơng đúng mực đối với luật sư, xuất phát từ hai nguyên nhân cơ bản sau
đây:
+ Một là, pháp luật tuy có qui định một số quyền và nghĩa vụ cho luật sư
khi tham gia tố tụng. Nhưng do khơng có cơ chế rõ ràng để luật sư thực thi quyền
của mình theo pháp luật. Đây chính là ngun nhân để một số cơ quan tiến hành
tố tụng gây khó khăn, cản trở đối với hoạt động luật sư.
+ Hai là, một số luật sư trong quá trình hành nghề đã dễ dàng thỏa mãn
những địi hỏi “vơ lý và vô luật” của các cơ quan tiến hành tố tụng về mặt thủ tục
giấy tờ. Việc làm của một số luật sư này đã gián tiếp ảnh hưởng đến đạo đức và
văn hóa nghề nghiệp luật sư nói chung.
Tại phiên tòa, Luật sư tham gia phản biện một phần để bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của khách hàng, một phần Luật sư còn giúp cho người tiến hành tố tụng

thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của họ được chính xác hơn. Nếu người
tiến hành tố tụng hoạt động hoàn toàn đúng pháp luật, nhận định và kết luận hồn
tồn chuẩn xác thì khơng cịn chỗ cho luật sư phản biện.
Yêu cầu cao nhất của việc xét xử tại phiên tồ là đảm bảo dân chủ, khách
quan, chính xác đúng quy định của pháp luật nói chung và của BLHS nói riêng.
Việc tranh tụng là tranh luận để làm rõ sự thật khách quan về mọi chi tiết của vụ
án, áp dụng đúng những quy định của pháp luật để Hội đồng xét xử ra phán quyết.
Tuy nhiên, người tiến hành tố tụng dường như không thừa nhận chức năng này
của Luật sư, nên tại phiên tòa còn xảy ra tình trạng Luật sư phản biện nhưng lý lẽ
của Luật sư không được những người tiến hành tố tụng quan tâm đúng mực. Do

Trang 9


đó, quan hệ giữa Luật sư và những người tiến hành tố tụng có khi khơng lịch sự
ngay tại phiên tịa, cũng như ra ngồi xã hội. Điều này cũng ảnh hưởng tới văn
hóa nghề nghiệp của Luật sư.
Tính chất phản biện trong hoạt động của luật sư, thông thường thể hiện ở
lĩnh vực tham gia tố tụng, nhưng rõ nét nhất là trong tố tụng hình sự. Điều 36,
khoản 3 Bộ Luật tố tụng hình sự hiện hành có quy định: “Người bào chữa có
nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình
tiết xác định bị can, bị cáo vơ tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của bị can, bị cáo; giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ”.
Điều quy định này là cơ sở pháp lý bảo đảm tính chất phản biện của luật sư
trong hoạt động tham gia tố tụng hình sự. Tiếc rằng trong xã hội có một số ít nhà
báo chưa hiểu rõ tính chất phản biện của luật sư là nghĩa vụ phải làm. Do đó, khi
thấy
luật sư đưa ra những biện luận nhằm phản bác lại nhữnggì khơng đúngquy
định của

pháp luật thì họ cơng kích luật sư. Có tình trạng này
là do sụ lẫn lộn giữa việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
bị cáo

can,

với việc

bao che hành vi phạm tội của họ.
-

Quan điểm của người Việt Nam rất ngại đụng chạm tới quy trình tố

tụng, do đó số lượng người dân tự đi thưa kiện cịn ít so với những sự việc xảy ra
trong thực tế. Điều này dẫn đến việc Luật sư cũng ít khách hàng, nên khi có khách
hàng, giữa các Luật sư thường có tâm lý tranh giành khách hàng của nhau. Đây là
một thực tế đáng buồn, làm cho tính đồn kết của Luật sư và đồng nghiệp bị ảnh
hưởng rất lớn.

Trang
10


-

Có nhiều Luật sư vì muốn gỡ tội cho thân chủ của mình, khi phản biện

tại phiên tịa ln khẳng định thân chủ của mình khơng có tội, dù thân chủ đã
phạm những tội nghiêm trọng. Rõ ràng, trong những trường hợp này có thể do
trình độ, năng lực yếu kém của Luật sư nên Luật sư đã không nhận thấy thân chủ

của mình có tội. Hoặc có nhận thấy rõ thân chủ có tội nhưng vì muốn bảo vệ thân
chủ nên phản biện thân chủ khơng có tội. Trong trường hợp này nếu biết rõ thân
chủ phạm tội, là vị trí của người Luật sư nên phản biện sao cho thân chủ của mình
được giảm nhẹ tội, chứ khơng nên khẳng định thân chủ khơng có tội. Do đó,
khơng phải Luật sư nào cũng “bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng”.
-

Vì muốn thắng kiện, khơng ít Luật sư bất chấp đạo đức nghề nghiệp, đã

cùng khách hàng thực hiện hành vi bao che tội phạm. Tuy nhiên vấn đề này cũng
cần nhìn nhận ở hai góc độ:
+ Một là: Tại quy tắc 9 (Quy tắc đạo đức nghề nghiệp của Luật sư) quy
định: “Luật sư không được tiết lộ những điều liên quan đến vụ việc mà khơng
được khách hàng đồng ý”. Theo đó, Luật sư phải có nghĩa vụ giữ bí mật thơng tin
cho khách hàng.
+ Hai là: Tại Bộ luật Hình sự 1999 của nước CHXHCN Việt Nam, Điều
22, Khoản 1 quy định về tội Không tố giác tội phạm: “Người nào biết rõ tội phạm
đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà khơng tố
giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội khơng tố giác tội phạm trong những
trường hợp được quy định tại Điều 313 của Bộ luật này”.
Hai quy định này làm cho Luật sư rơi vào tình huống “tiến thối lưỡng
nan”. Bộ luật Hình sự không miễn trừ tội che dấu tội phạm cho Luật sư, nếu Luật
sư biết những thông tin do khách hàng cung cấp, đi báo cho cơ quan chức năng sẽ
vi phạm đạo đức nghề nghiệp Luật sư, nếu không khai báo thì vi phạm pháp luật
hình sự. Đây là điều khó cho Luật sư trên thực tế.

Trang
11



-

Quy tắc 4 Quy tắc đạo đức nghề nghiệp của Luật sư quy định: “Thực

hiện trợ giúp miễn phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách là nghĩa vụ
cao cả của luật sư. Khi làm trợ giúp phải tận tâm đối với cơng việc và khơng được
địi hỏi bất kỳ lợi ích nào từ người mình có trách nhiệm trợ giúp”. Tuy nhiên trên
thực tế, có rất nhiều Luật sư thực hiện công tác trợ giúp pháp lý khơng vì mục
đích cao cả đó. Mà vì muốn danh tiếng của mình ngày một nổi trội nên đã trợ giúp
pháp lý, hoạt động trợ giúp cũng không thường xuyên, không lịch sự khi tiếp đối
tượng được trợ giúp.
Hoạt động của giới luật sư nói chung mới chỉ đóng vai trò như là các hoạt
động bổ trợ cho sự quản lý của nhà nước, chứ chưa đóng vai trị như các tổ chức
đối trọng tạo ra sự cân bằng xã hội.
Nghề Luật sư ở Việt Nam hiện nay cũng còn thiếu thốn về cơ sở vật chất,
do đó cũng thiếu tính trang nghiêm, chưa có đủ điều kiện để tạo ra một nét văn
hóa riêng trong nghề Luật sư.
2. Một vài phương hướng nhằm hoàn thiện đạo đức và văn hóa nghề
nghiệp của Luật sư Việt Nam.
Để góp phần tạo nên một nét văn hóa riêng của nghề Luật sư, mỗi Luật sư
và cả những tập sự Luật sư phải có nhìn nhận đúng mực về nét văn hóa tư pháp
nói chung và phong cách văn hóa nói riêng của nghề Luật sư. Muốn làm được
điều này, những người trong nghề Luật sư phải thực sự yêu nghề nghiệp mình đã
chọn lựa. Khi lòng yêu nghề và kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp đan xen, hòa
quyện sẽ tạo nên nét văn hóa của nghề Luật sư. Mỗi Luật sư ai cũng phải có trách
nhiệm phát huy và duy trì những điểm sáng của nghề, phải có ý thức giữ gìn đạo
đức, phẩm giá của mình, giữ mối quan hệ tốt với mọi người, với đồng nghiệp.
Đối với các cơ quan nhà nước, với những con người trong xã hội, điều quan
trọng nhất là vai trò của các luật sư phải được nhìn nhận đúng đắn bởi nhà nước.


Trang
12


Nếu từ cơ chế, chính sách của Nhà nước khơng có cái nhìn đúng đắn về vị thế của
Luật sư thì ở xã hội Luật sư cũng khơng được coi trọng.
Nên Luật hóa văn hóa tư pháp nói chung và văn hóa nghề nghiệp Luật sư
để Luật sư là nghề được khẳng định vị thế của mình.
Cũng cần phải có “Ngày Luật sư"để kỷ niệm và tạo cơ hội cho giới Luật sư
được tăng thêm điều kiện gặp gỡ và trao đổi kinh nghiệm. Nghề luật sư cũng cần
có đồng phục cho riêng mình để tạo thế trang nghiêm khi hành nghề, điều này
cũng rất cần thiết và các nước trên thế giới cũng đã có quy định về đồng phục
Luật sư.
Việc đào tạo nghề luật sư là một trong những giải pháp hoàn thiện lực
lượng bổ trợ tư pháp. Nên bổ sung thêm thời gian và những buổi ngoại khóa để
học thêm về đạo đức Luật sư và văn hóa nghề nghiệp Luật sư. Thơng qua đó, góp
phần đảm bảo việc luật sư thực hiện tốt nhiệm vụ đối với xã hội.
Với tư cách là một bên tham gia trong quá trình tranh tụng, nên mỗi luật sư
đều phải khơng ngừng rèn luyện, học hỏi để có thể hồn thành tốt nhiệm vụ tranh
tụng của mình. Mặt khác, luật sư muốn nâng cao uy tín của mình, nâng cao chất
lượng tranh tụng, thì khơng thể khơng ngừng học hỏi, cập nhật kiến thức. Chỉ có
như vậy, thì luật sư mới có thể bắt kịp được với địi hỏi ngày càng cao của xã hội.
Nghề luật sư là “nghề nói”, “khơn ngoan ra cửa quan mới biết” do đó, cho
dù tham gia tranh tụng hay tư vấn pháp luật thì việc trình bày của luật sư là “tối
quan trọng”. Phải xem việc rèn luyện kỹ năng nói “hùng biện” là một nội dung
quan trọng trong công tác đào tạo nghề luật sư. Điều này, khơng chỉ có ý nghĩa
khi luật sư nói trước những nơi đơng người, mà cịn cần thiết cả khi giao tiếp, tư
vấn cho ít người, thậm chí cho một người.
Ngồi việc đào tạo và rèn luyện kỹ năng nói cho luật sư, thì vấn đề đào tạo
và rèn luyện kỹ năng viết văn bản cho luật sư cũng rất cần được quan tâm đúng


Trang
13


mức. Trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư thì luật sư sẽ phải viết rất nhiều
như: viết quan điểm bào chữa, viết luận cứ bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, viết
dự án.. .Trên thực tế chúng ta gặp khơng ít những trường hợp “lúng túng” khi u
cầu phải viết quan điểm của mình về một vụ án hoặc một vấn đề cụ thể nào đó.
Việc “nói” và “viết” thuyết phục là một trong những cơ sở để tăng thêm nét văn
hóa cho nghề Luật sư.
Từ thực tiễn như vậy, nên chăng cũng cần xem xét đưa vào nội dung đào
tạo luật sư “kỹ năng viết” cho luật sư để khi hành nghề họ hiểu cần viết cái gì và
cách viết ra làm sao.
Tóm lại, việc đào tạo luật sư có phẩm chất chính trị, đạo đức có trình độ
chuyên môn theo tinh thần Nghị quyết số 49/ NQ-TW. Chúng ta rất cần phải có
đủ đội ngũ Luật sư hồn thiện về văn hóa, đủ khả năng về trình độ, để ngày càng
phục vụ tốt hơn cho dân.
Các cơ quan chức năng của nhà nước cần và nên coi luật sư là một trong
những lực lượng thiết yếu trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Việc làm
trước mắt là phải xố bỏ các rào cản khơng cần thiết đối với hoạt động của luật sư.
Để giới Luật sư được tự do hoạt động theo quy định của pháp luật.
Việt Nam bước vào hội nhập nền kinh tế Quốc tế, do đó hiện nay thực trạng
Luật sư đang rất hiếm những người tài giỏi, có kinh nghiệm trong nghề để đương
đầu với những tranh chấp tiềm ẩn. Thực tế này cho thấy chúng ta rất cần phải đầu
tư co nghề Luật sư, nhưng hiện nay nếu cơ chế của Nhà nước chưa thực sự coi
trọng nghề Luật sư. Rất cần phải có nhiều hơn nữa các buổi hội thảo chỉ ra rõ sự
cần thiết phải có Luật sư, và bên cạnh đó, khi vai trị của mình được nhìn nhận
đúng mực, Luật sư sẽ ý thức được mình phải làm gì, phải làm như thế nào để vừa
giữ được vị trí của nghề, vừa giữ được phẩm giá của mình. Nếu Luật sư ý thức

được thì khi đó mới thực sự có nét văn hóa trong nghề Luật sư.

Trang
14



×