Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng indovina trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 99 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***






KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG NHẰM GÓP
PHẦN NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG
INDOVINA TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ





Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Bích Trang
Lớp : Anh 1 - KTNT
Khóa : K41
Giáo viên hướng dẫn : Ths. Hoàng Xuân Bình















HÀ NỘI, 11/2006


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Trước tác động của toàn cầu hoá, xu thế nhất thể hoá thị trường
tài chính - tiền tệ đang diễn ra nhanh chóng. Việt Nam đang từng bước
mở cửa tiến tới hội nhập khu vực và Quốc tế. Trong xu thế đó, Việt Nam đã
ký kết không ít các Hiệp định song phương và đa phương liên quan tới hoạt
động tài chính - ngân hàng. Đặc biệt Hiệp định thương mại Việt-Mỹ cũng như
cam kết chuẩn bị gia nhập tổ chức Thương mại thế giới ( WTO) đã buộc
chúng ta phải đổi mới và mở cửa lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Để giành thế
chủ động trong tiến trình hội nhập, các ngân hàng thương mại cần đa dạng
hóa các hình thức dịch vụ, đa dạng về hình thức, có uy tín với khách hàng,
hoạt động có hiệu quả, an toàn, nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng đầu
tư đáp ứng nhu cầu Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

Đối với các Ngân hàng Thương mại thì việc phát triển dịch vụ là một
giải pháp cơ bản, hết sức cần thiết bởi nó thúc đẩy quá trình hội nhập, mở
rộng cạnh tranh, nâng cao tính chủ động và hiệu quả của ngân hàng. Tuy
nhiên, không phải một vài ngân hàng nhận ra và đi theo hướng này, vì thế sức
ép cạnh tranh ngày càng tăng lên. Trước tình hình đó, đòi hỏi mỗi một ngân
hàng cần tìm cho mình một giải pháp thiết thực, mang tính chiến lược và đem
lại hiệu quả cao cho ngân hàng. Do vậy, phát triển dịch vụ luôn là vấn đề
quan tâm hàng đầu của mỗi Ngân hàng Thương mại hiện nay.
Trong quá trình phát triển dịch vụ, vấn đề điều chỉnh cơ cấu dịch vụ
của một ngân hàng là điều rất quan trọng. Bên cạnh công tác phát triển và
nâng cao chất lượng các dịch vụ ngân hàng truyền thống (dịch vụ tiền gửi,
kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh) và các dịch vụ ngân hàng hiện đại (dịch vụ
Internet Banking, Mobile Banking, Home Banking) thì việc nâng dần tỷ trọng
thu phí - hay các khoản thu phi lãi là xu thế tất yếu của mô hình Ngân hàng


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
2
Thương mại hiện nay. Với các NHTM trên thế giới thì phát triển dịch vụ ngân
hàng đã có từ lâu nhưng ở Việt Nam thì đây là vấn đề hết sức mới mẻ. Phát
triển dịch vụ ngân hàng là một xu thế tất yếu chỉ có phát triển dịch vụ mới có
thể thoả mãn tốt nhu cầu đa dạng và phong phú của khách hàng, bởi khách
hàng là điều kiện sống còn của một ngân hàng.
Trước yêu cầu bức thiết đó, em đã lựa chọn đề tài “Giải pháp phát
triển dịch vụ ngân hàng nhằm góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh
của Ngân hàng Indovina trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” là vấn
đề nghiên cứu của khoá luận này.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận.
Khoá luận tập trung nghiên cứu vào một số nội dung cơ bản sau:

 Nghiên cứu về NHTM và vai trò quan trọng của nó trong nền kinh
tế thị trường.
 Nghiên cứu đặc điểm của các loại sản phẩm dịch vụ, từ đó thấy
được sự khác biệt so với các sản phẩm hàng hoá thông thường khác và ngân
hàng cần phải có các biện pháp để tạo ra các sản phẩm dịch vụ mới.
 Xác định mục đích của việc phát triển dịch vụ ngân hàng từ đó đưa
ra một số điều kiện cần thiết để các ngân hàng phát triển hoạt động dịch vụ
theo xu hướng hội nhập
 Nghiên cứu sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng Indovina hiện nay ra
sao, liệu có khả năng cạnh tranh hay mức đáp ứng nhu cầu khách hàng so với
các Ngân hàng Thương mại khác. Qua đó tìm ra những biện pháp thích hợp
nhằm tạo đà phát triển cho Ngân hàng Indovina tiến vào hội nhập kinh tế một
cách vững mạnh.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để giải quyết vấn đề đạt ra, theo truyền thống khoá luận sử dụng tổng
hợp phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp chặt chẽ việc


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
3
nghiên cứu lý luận, khái niệm của các nước và thực tiễn vận dụng vào Việt
Nam. Kết hợp sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp phân tích kinh tế để
vận dụng vào phân tích các chỉ tiêu trong khoá luận.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp khảo sát thực tiễn tại một số
NHTM khác để đúc kết kinh nghiệm và đề ra giải pháp, kiến nghị.
4. Những đóng góp của khoá luận.
Phân tích, hệ thống hoá những khái niệm, những nguyên lý mô hình về
các sản phẩm dịch vụ của NHTM trong nền kinh thị trường.
Thu thập, phân tích và đánh giá thực trạng của việc phát triển dịch vụ

của ngân hàng Indovina trong thời gian qua.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản và kiến nghị nhằm hoàn thiện các giải
pháp phát triển dịch vụ ngân hàng một cách có hiệu quả.
5. Bố cục của khoá luận.
Ngoài phần mở đầu của khoá luận, mục lục và danh mục tài liệu tham
khảo, khoá luận được trình bày thành 3 chương:
Chương 1: Phát triển dịch ngân hàng- xu hướng tất yếu của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng hoạt động dịch vụ của Ngân hàng Indovina.
Chương 3: Một số giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng nhằm góp phần
nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng Indovina trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, mặc dù đã có nhiều cố gắng song do
còn thiếu kinh nghiệm cũng như tầm hiểu biết thực tế nên không thể tránh
khỏi những thiếu sót, kính mong thầy cô chỉ bảo tận tình để khoá luận được
hoàn thiện hơn.
Em xin gửi lời biết ơn chân thành tới thầy giáo - Th.s Hoàng Xuân
Bình người đã tận tình chỉ bảo em trong suốt quá trình làm khoá luận này,
cùng với Ban lãnh đạo và anh chị phòng thanh toán quốc tế của Ngân hàng


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
4
Indovina đã nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập tại Ngân hàng
để em hoàn thành bài khoá luận này.


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.

5
CHƢƠNG I: PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG - XU HƢỚNG
TẤT YẾU TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.

I. Khái quát về Ngân hàng thƣơng mại:
1. Bản chất của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường:
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và
làm phương tiện thanh toán.
Như vậy, ngân hàng là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tiền
tệ trong đó có hai nghiệp vụ cơ bản là: Nhận ký thác của các cá nhân, doanh
nghiệp, tổ chức, cơ quan Nhà nước và sử dụng các khoản ký thác đó để cho
vay chiết khấu.
NHTM là một tổ chức trung gian tài chính có vị trí quan trọng nhất.
Tổng số tài sản nợ của Ngân hàng bao giờ cũng lớn hơn tổng số tài sản nợ của
các ngân hàng khác và của các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Hoạt động
của các NHTM mang tính chất tổng hợp, ngoài ra còn là thành viên chủ yếu
tham gia thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán.
2. Chức năng của ngân hàng thương mại:
Thứ nhất, chức năng trung gian tín dụng.
Với chức năng này, NHTM đã khắc phục được những hạn chế trong
mối quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi và
chủ thể có nhu cầu tiền tệ cần bổ xung trong thời gian ngắn. Thông qua khoản
vốn ngân hàng hình thành thêm quỹ rồi đem cho vay đối với nền kinh tế mà
chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Như vậy, ngân hàng vừa đóng vai trò là người
cho vay và là người đi vay.
Lý do các ngân hàng thực hiện chức năng này là vì nó là cơ quan
chuyên trách kinh doanh tiền tệ, tín dụng có khả năng nhận biết được tình



Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
6
hình cung cầu về tín dụng là nơi khách hàng có thể gửi tiền. Ngân hàng có thể
tạo lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ với người gửi tiền, mà vẫn đảm
bảo lợi ích của nền kinh tế. Đây là chức năng quan trọng nhất vì nó phản ánh
bản chất của NHTM đó là “vay để cho vay”, nó quyết định sự tồn tại và phát
triển của NHTM, đồng thời là cơ sở để thực hiện những chức năng tiếp theo.
Thứ hai, chức năng trung gian thanh toán.
Thực hiện chức năng trung gian thanh toán, NHTM đóng vai trò là
người thủ quỹ của các doanh nghiệp, thực hiện các yêu cầu của khách hàng
như: Trích tài khoản từ tiền gửi của khách hàng hay nhập tiền vào tài khoản
của khách hàng, thanh toán hộ cho khách hàng. Ngân hàng mở hộ cho khách
hàng và theo dõi thu chi. Đó là tiền khách hàng thực hiện qua ngân hàng, đặt
vào vị trí tiền gửi thanh toán đồng thời giảm thiểu rủi ro và chi phí trong việc
thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt của các chủ thể kinh tế.
Chức năng trung gian thanh toán của NHTM có mối quan hệ hữu cơ
với chức năng trung gian tín dụng. Bởi vì, ngân hàng sẽ sử dụng số tiền gửi
của khách hàng này để cho khách hàng khác vay với mục đích trả nợ, thanh
toán. Với việc gửi tiền vào ngân hàng hay ngân hàng chi trả hộ khách hàng đã
giảm thiểu tới mức tối đa những rủi ro, bất tiện và đặc biệt là chi phí lưu
thông tiền mặt và những chi phí liên quan tới người trả và người nhận tiền.
Khi nền kinh tế càng phát triển, càng bộc lộ rõ vai trò quan trọng của nó, làm
cơ sở cho các chức năng tiếp theo, và là cơ sở cho chức năng “tạo tiền”.
Thứ ba, chức năng tạo tiền của NHTM.
Chức năng tạo tiền là một trong những chức năng cơ bản của NHTM,
sự ra đời của nó đã tạo ra sự phát triển về chất trong kinh doanh tiền tệ. Trước
đây, các tổ chức kinh doanh tiền tệ chỉ nhận gửi tiền (vàng, bạc) và cho vay
bằng chính đồng tiền đó. Ngày nay, chức năng này không hoàn toàn như vậy

nữa. Khi phân chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp, trong đó Ngân hàng
Trung Ương - ngân hàng cấp 1- là ngân hàng phát hành, quản lý lưu thông


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
7
tiền tệ, còn các NHTM- ngân hàng cấp 2- chuyên kinh doanh tiền tệ.
Cơ sở quá trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt
động tín dụng và thanh toán. Thực chất của quá trình này là NHTM đã “biến”
một khối lượng tiền gửi ghi sổ thể hiện trên tài khoản thanh toán của khách
hàng tại ngân hàng thành một khoản tiền lớn hơn nhiều lần khi thực hiện
nghiệp vụ tín dụng, thanh toán qua nhiều ngân hàng khác. Quá trình này được
miêu tả như sau:
Ngân hàng sử dụng số tiền từ việc huy động, sau đó đem cho khách
hàng vay, số tiền cho vay lại được khách hàng sử dụng để thanh toán trong
khi đó số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận
tiền giao dịch. Khi ngân hàng nhận tiền gửi chưa cho vay, thì lúc đó ngân
hàng chưa tạo ra tiền, hay nói cách khác là nó chỉ tạo ra tiền khi cho vay trong
nền kinh tế, chính việc này đã tạo ra tiền gửi thanh toán.
Tuy vậy, để tạo ra tiền gửi thanh toán, NHTM phải làm được chức năng
trung gian thanh toán, mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng thì số tiền trên tài
khoản mới là một bộ phận của tiền giao dịch. Với chức năng này, ngân hàng đã
làm tăng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu chi trả, chi
trả cho xã hội. Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng
và lưu thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng tạo ra làm tăng khả
năng tạo tiền và từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
Thứ tƣ, chức năng cung ứng dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác.
Ngoài chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức
năng tạo tiền, NHTM còn có thể làm tư vấn về tài chính và đầu tư cho các

Doanh nghiệp, bảo lảnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Ngân hàng có thể tư
vấn cho doanh nghiệp chọn loại chứng khoán để phát hành, về lãi suất chứng
khoán, thời hạn chứng khoán. Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp dịch vụ lưu
giữ và quản lý chứng khoán, mua bán chứng khoán cho các khách hàng.
Với điều kiện và khả năng của mình, ngân hàng còn có thể cung cấp


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
8
cho khách hàng các dịch vụ khác như dịch vụ bảo quản tài sản có giá trị, dịch
vụ tín thác, dịch vụ cho thuê két sắt.
3. Vai trò của Ngân hàng thương mại:
Như chúng ta đã biết vai trò của NHTM được thể hiện rõ nét ngay ở
chức năng của nó. Xuất phát từ chức năng trung gian tín dụng, qua nghiệp vụ
huy động vốn, ngân hàng đã tập hợp khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ
chức, cá nhân và cung ứng nguồn vốn đó cho nền kinh tế nhằm thúc đẩy phát
triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế, góp phần lưu thông hàng hoá tiền tệ, cũng
như đẩy mạnh tiêu dùng cá nhân.
Các ngân hàng đã huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn bộ nền
kinh tế vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nếu không có ngân
hàng trung gian thì việc huy động mọi của cải xã hội vào quá trình sản xuất
kinh doanh sẽ chậm đi rất nhiều. Có thể nói nó là “chất dầu bôi trơn” cho bộ
máy kinh tế hoạt động.
ới chức năng thanh toán, ngân hàng đã thực hiện dịch vụ thanh toán
cho nền kinh tế, từ đó thúc đẩy luân chuyển hàng hoá, luân chuyển vốn trong
xã hội. Đồng thời, thực hiện giám sát toàn bộ nền kinh tế, góp phần tạo ra môi
trường kinh doanh lành mạnh, tạo sự ổn định trong đời sống kinh tế xã hội.
Ngân hàng là bộ mặt của xã hội, do đó không thể kể đến vai trò quan
trọng đó là ngân hàng đã thu hút một lượng vốn đầu tư lớn cho nền kinh tế,

mở rộng đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo mọi điều kiện tốt nhất
giúp đỡ các doanh nghiệp thực hiện chiến lược kinh doanh. Bên cạnh đó,
ngân hàng còn thực hiện việc cung cấp các dịch vụ cần thiết khác như: Tư vấn
đầu tư, thuê mua tài chính, bảo lãnh, giúp đỡ khách hàng kiểm tra số dư tài
khoản của mình.
Như chúng ta đã biết, NHTM tham gia vào quá trình cung ứng tiền tệ
vì thế mà nó là công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW. Thật vậy,
để thực thi được chính sách tiền tệ, NHTW phải sử dụng các công cụ để điều


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
9
tiết lượng tiền cung ứng trong lưu thông để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ
mô, đặc biệt là mục tiêu ổn định tiền tệ. Phần lớn các công cụ của chính sách
tiền tệ chỉ được thực thi có hiệu quả khi có các NHTM và các trung gian tài
chính tham gia đầy đủ theo quy định của NHTW (về tỉ lệ dự trữ bắt buộc, quy
chế thanh toán không dùng tiền mặt).
Việt Nam cùng với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã thay
đổi mạnh mẽ cả về cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động, hoạt động hiệu quả hơn
rất nhiều. Như vậy, sự ra đời của NHTM là xu hướng tất yếu khách quan, có ý
nghĩa cực kỳ to lớn trong nền kinh tế hàng hoá thị trường: Góp phần giảm chi
phí lưu thông, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và đặc biệt trong mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế.
II. Dịch vụ ngân hàng:
1. Các loại dịch vụ ngân hàng:
Đối với nền kinh tế, bản thân hoạt động của ngân hàng là một loại dịch
vụ. Tuy nhiên, đối với từng ngân hàng người ta phân biệt thành 2 nội dung
chính như sau.
- Kinh doanh tiền tệ.

- Dịch vụ ngân hàng.
Trong giới hạn của bài viết, tôi xin đề cập đến mảng dịch vụ ngân hàng
để chúng ta thấy được tầm quan trọng của dịch vụ ngân hàng với cơ chế thị
trường như hiện nay. Trước tiên chúng ta hãy xem dịch vụ ngân hàng ở các
nước phát triển trên thế giới bao gồm những loại dịch vụ gì.
Nói tới hoạt động kinh doanh của các ngân hàng của những nước phát
triển chúng ta không thể phủ nhận một điều là hoạt động dịch vụ của họ phát
triển rất mạnh mẽ (theo con số thống kê tỷ lệ thu từ dịch vụ chiếm khoảng
trên 30% tổng thu nhập của ngân hàng đó). Hoạt động dịch vụ có rất nhiều
loại, nhiều sản phẩm nhưng chúng ta phân chia chúng ra thành những nhóm
chủ yếu sau đây.


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
10
Nhóm thứ nhất là nhóm dịch vụ gắn liền với kinh doanh tiền tệ.
 Nhận uỷ thác và làm đại lý hoặc uỷ thác và đặt đại lý. Chẳng hạn, đại lý phát
hành trái phiếu và cổ phiếu và các giấy tờ có giá khác cho doanh nghiệp.
 Chiết khấu hoặc tái chiết khấu các giấy tờ có giá khác, hoặc cầm cố các
thương phiếu.
 Kinh doanh ngoại hối.
 Cung ứng dịch vụ bao thanh toán (factoring). Đây là một hình thức chiết
khấu chứng từ, nhằm tài trợ tín dụng cho doanh nghiệp qua việc mua lại các
hoá đơn ghi các khoản nợ phải thu của các doanh nghiệp, xuất phát từ việc
bán hàng trả chậm, quản lý sổ sách kế toán cho doanh nghiệp.
 Dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng bạc.
 Tài trợ mua trả góp.
 Thuê mua tài chính.
 Mua bán chứng khoán cho mình và cho bên thứ 3, nghĩa là mua bán công

cụ nợ (kinh doanh và mua bán chứng khoán).
 Tài trợ tiêu dùng (mua ô tô, mua cổ phần và trái phiếu).
 Bảo lãnh cho bên thứ 3.
 Dịch vụ tư vấn đầu tư.
 Giao dịch nhà đất và bất động sản.
 Tiết kiệm gắn với bảo hiểm (an sinh, giáo dục, ôtô, nhà đất, tiêu dùng).
Nhóm thứ hai là nhóm dịch vụ gắn với thanh toán.
 Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt với nhiều nội dung :
 Chuyển tiền điện tử.
 Qua máy gửi và rút tiền tự động (ATM) trên cơ sở phát hành thẻ và sử
dụng thẻ thanh toán hoặc thẻ tín dụng (gồm thẻ nội địa và thẻ thanh
toán quốc tế như: Visa card, Mastercard).
 Tham gia mạng thanh toán quốc tế (SWIFT).


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
11
 Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ từng ngân hàng.
 Tham gia hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (ở nước ta hiện nay
có khoảng 6 đơn vị tham gia) nhờ đó :
 Có thể chuyển từ hệ thống bán lẻ sang hệ thống thanh liên ngân hàng.
 Có thể chuyển từ tiết kiệm không kỳ hạn qua tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm
đầu tư có lãi suất cao.
 Khách hàng có thể trả tiền cho nhiều loại hình như: Trả lương, tiền hưu trí,
tiền điện, tiền nước, trả gốc và lãi tiền vay.
 Có thể giao dịch thanh toán tức thì, không qua trung gian thanh toán nào.
Qua hệ thống giao dịch tự động, khách hàng có thể giao dịch 24/24h tại
máy ATM trong cả nước.
 Từ tài khoản tiền gửi cá nhân, có thể rút tiền mặt qua thẻ tín dụng nội địa

hoặc quốc tế, thẻ ghi nợ quốc tế.
 Nhờ hệ thống giao dịch tự động này, khách hàng có thể mở tài khoản một
nơi nhưng có thể rút ở nhiều nơi, thậm chí khách hàng có thể giao dịch ở
nhà mà không phải đến ngân hàng.
 Dịch vụ lưu ký và thanh toán chứng khoán cho các bên giao dịch ở SGD
chứng khoán.
Nhóm thứ ba là nhóm dịch vụ ngân quỹ.
 Dịch vụ đếm kiểm, thu nộp và cung ứng tiền mặt cho đối tác có tài khoản.
 Dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá.
 Cho thuê tủ két sắt, cầm đồ.
 Các loại dịch vụ ngân quỹ khác.
Dịch vụ Ngân hàng Việt Nam hiện nay phát triển ra sao so với các ngân
hàng trong khu vực, từ đó chúng ta có thể đánh giá chính xác được thực trạng
này ở nước ta hiện nay như thế nào.
Theo luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi năm 2003) nước ta cho phép


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
12
các ngân hàng được thực hiện các loại dịch vụ chủ yếu sau đây :
1. Tham gia vào thị trường tiền tệ.
 Thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc.
 Thị trường nội tệ, ngoại tệ liên ngân hàng.
 Thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
2. Tham gia hệ thống thanh toán.
 Thanh toán nội bộ từng ngân hàng.
 Thanh toán liên Ngân hàng trong nước.
 Thanh toán quốc tế.
3. Làm dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế trong đó có :

 Cung ứng phương tiện thanh toán.
 Dịch vụ thu hộ, chi hộ.
4. Dịch vụ ngân quỹ.
 Thu nộp và cung ứng dịch vụ cho khách hàng.
5. Kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và quốc tế
6. Uỷ thác, nhận uỷ thác ; làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt
động ngân hàng.
7. Kinh doanh và làm dịch vụ bảo hiểm qua Công ty độc lập.
 Kinh doanh bảo hiểm.
 Cung ứng các dịch vụ bảo hiểm.
8. Dịch vụ tư vấn về tài chính cho khách hàng.
9. Các loại dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân.
 Bảo quản vật quý, giấy tờ có giá.
 Cho thuê tủ sắt, két sắt.
Ngoài ra còn có các dịch vụ thông tin tư vấn, dịch vụ thẩm định kỹ thuật.
2. Đặc điểm của dịch vụ ngân hàng:
Thứ nhất, dịch vụ ngân hàng mang tính vô hình: Do dịch vụ của


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
13
ngân hàng không tồn tại dưới dạng vật chất vì vậy khách hàng khi mua dịch
vụ không thể sờ nắm được vật mà mình mua. Để tăng lòng tin tưởng của
khách hàng khi sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thì ngân hàng cần
rất nhiều biện pháp tác động tới khách hàng, từ đó để họ tin rằng họ sẽ thu
được nhiều lợi ích khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Do đó hoạt động
marketing là rất quan trọng, hoạt động này coi như là hoạt động chính của
ngân hàng, tác động chính vào khách hàng, đi sâu vào tâm lý của khách hàng,
hướng tới khách hàng và coi đây là hoạt động chủ yếu của ngân hàng.

Thứ hai, tính không thể tách rời. Trên thực tế, Quá trình cung ứng
dịch vụ Ngân hàng luôn luôn cùng diễn ra đồng thời với quá trình tiêu dùng
của khách hàng, họ cũng có mặt khi dịch vụ được thực hiện nên sự tác động
qua lại giữa người cung ứng dịch vụ và khách hàng là một tính chất đặc biệt
của marketing dịch vụ. Cả nhân viên ngân hàng và khách hàng đều tác động
ảnh hưởng tới kết quả dịch vụ. Trong khi đó, xuất phát từ tính chất phức tạp
của dịch vụ, các giải pháp marketing không chỉ hướng riêng vào nhân viên
ngân hàng mà còn phải nhanh gọn, chính xác với thái độ thiện cảm với khách
hàng. Bên cạnh đó còn phải phối hợp chặt chẽ với khách hàng hoàn tất quá
trình cung ứng dịch vụ.
Thứ ba, tính không ổn định về chất lƣợng: Dịch vụ Ngân hàng phụ
thuộc phần lớn vào nhân tố con người mà con người là nhân tố không ổn định
vì vậy chất lượng dịch vụ không ổn định. Giải pháp điều này là phải hướng
tới đào tạo nhân viên ngân hàng làm việc có bài bản nhưng không mất đi tính
năng động vốn có của con người.
Thứ tƣ, dịch vụ Ngân hàng không có tính lƣu trữ đƣợc. Thật vậy
dịch vụ ngân hàng không thể sản xuất rồi lưu kho như các sản phẩm thông
thường khác, vì vậy hoạt động ngân hàng cần hướng vào việc điều chỉnh nhịp
độ cung ứng theo kịp nhịp độ mua bán, rút ngắn quá trình xử lý nghiệp vụ,
tăng cường nhân viên cung ứng tại giờ cao điểm.


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
14
3. Mục đích của việc phát triển dịch vụ ngân hàng:
Tại sao lại cần phải xác định mục đích? Để tạo ra vị thế cạnh tranh trên
thị trường lẽ tất nhiên là chúng ta cần tạo cho ngân hàng mình một điểm
riêng, một ưu thế riêng, một đoạn thị trường nào mà ở đó ngân hàng của mình
có ưu việt hơn đối thủ cạnh tranh hoặc chúng ta cần phải biết “từ bỏ” khỏi thị

trường đó nếu như đối thủ cạnh tranh có thể mạnh hơn hẳn mình. Đây cũng là
một chiến lược trong cạnh tranh mà chúng ta cần phải xác định rõ mục đích.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh thì phát triển dịch vụ là điều rất quan
trọng bởi chỉ có ngân hàng có nhiều tiện ích thì mới thoả mãn tối đa nhu cầu.
Do vậy chỉ có những ngân hàng nào có thế mạnh thì mới đứng vững trên thị
trường. Việc phát triển dịch vụ nhằm mục đích phát triển một lượng lớn tài
chính, doanh thu tăng lên. Theo lý thuyết, đầu tư càng lớn, vốn càng lớn, càng
dễ thu nhiều lợi nhuận.
Bên cạnh đó, xác định mục đích phát triển dịch vụ chúng ta tạo nên
hoạt động của các ngân hàng trở lên sôi động hơn, tạo nên một môi trường
kinh doanh phát triển ở trình độ cao, “cạnh tranh ở mức độ cao sẽ tạo ra động
lực để mỗi người tự hoàn thiện và phát triển bản thân”.
Tiếp đến, hiện nay thị trường của chúng ta đang rất lộn xộn, các cơ
quan chức năng rất khó kiểm soát, chưa hình thành một thị trường cạnh tranh,
chưa hình thành văn minh thương mại. Đó là một điều rất bất lợi cho tiêu
dùng: đó là hiện tượng hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, Đồng
thời khách hàng cũng chưa được cung ứng dịch vụ tốt nhất. Từ bất cập trên,
việc phát triển dịch vụ cần phải làm tốt công tác khách hàng, lấy khách hàng
là “cuộc sống” của Ngân hàng. Từ đó mới có thể cung cấp dịch vụ tốt nhất
đối với khách hàng. Một mục đích quan trọng nữa không thể không kể đến đó
là việc đóng góp của các ngân hàng làm tăng tiềm lực tài chính của quốc gia
cho nền kinh tế như thông qua nghĩa vụ đóng góp với ngân sách Nhà nước,
trích lập các quỹ tương trợ cho xã hội.


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
15
Đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng bằng việc áp dụng những tiến bộ của
khoa học kỹ thuật hiện đại sẽ tiết kiệm chi phí trên một sản phẩm và các sản

phẩm đơn lẻ sẽ được liên kết thành “dịch vụ ngân hàng” thắt chặt quan hệ lợi
ích giữa khách hàng và ngân hàng. Ví dụ: chỉ với dịch vụ giao dịch địa ốc
ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng các dịch vụ: dịch vụ tư vấn thủ
tục, thanh toán qua ngân hàng, sẵn sàng cho khách hàng vay nếu họ có nhu
cầu, ngăn ngừa rủi ro trong quá trình mua nhà và nhiều tiện ích khác nữa.
4. Ý nghĩa của việc phát triển dịch vụ ngân hàng:
Như chúng ta đã biết, dịch vụ Ngân hàng là một tín hiệu cho thấy trình
độ phát triển của một quốc gia. Do vậy nó có ý nghĩa cực kỳ to lớn không
những có những đóng góp cho xã hội mà còn lợi ích của một nền kinh tế.
Chúng ta hãy tách lợi ích của nó đem lại ra cho từng đối tượng để thấy được
tầm quan trọng của nó :
Thứ nhất, đối với nền kinh tế và khách hàng.
Thông qua hoạt động dịch vụ tài chính ngân hàng thực hiện quá trình
chu chuyển tiền tệ cho nền kinh tế, khai thác và sử dụng các nguồn vốn chu
chuyển tiền tệ cho nền kinh tế, làm luân chuyển tiền tệ trong không gian và
thời gian để sinh lời. Từ đó, các khối tiền bất động trở thành sống động hơn di
chuyển từ nơi này sang nơi khác, từ khách hàng này sang khách hàng khác để
phục vụ sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế xã hội,
kích thích và thúc đẩy sản xuất phát triển thông qua các dịch vụ đầu tư , dịch
vụ ngoại hối, dịch vụ thuê mua tài chính góp phần thực hiện công cuộc công
nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, thực hiện chuyển giao công
nghệ, kích thích sản xuất kinh doanh nhập khẩu phát triển kinh tế đất nước.
Hoạt động dịch vụ tài chính ngân hàng đã tạo điều kiện cho quá trình
sản xuất kinh doanh được tiến hành trôi chảy nhịp nhàng thúc đẩy đồng vốn
luân chuyển nhanh chóng góp phần đẩy nhanh tốc độ sản xuất, luân chuyển
hàng hoá. Dịch vụ tài chính của ngân hàng góp phần tích cực trong việc mang


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.

16
lại nhiều lợi ích chung cho nền kinh tế, cho khách hàng và cho ngân hàng
thông qua việc giảm chi phí nhờ sự tiện ích và sự chuyên môn hóa của từng
dịch vụ: giảm chi phí kiểm đếm, bảo quản, vận chuyển tiền, cũng như tiết
kiệm nhân lực để thực hiện; chi phí dịch vụ thấp so với giá trị tài sản hoặc
thấp trong trường hợp phải đầu tư phương tiện phải bảo quản tại nhà, khi thực
hiện quản lý hộ, giữ hộ. Thông qua đó khách hàng có cơ hội lựa chọn sản
phẩm dịch vụ có lợi nhất, hiệu quả nhất.
Thứ hai, đối với các Ngân hàng.
Hoạt động dịch vụ tài chính của ngân hàng, đem lại cho ngân hàng một
khoản thu nhập lớn từ phí dịch vụ, hoa hồng. Phát triển dịch vụ Ngân hàng đa
dạng hoá tiện ích theo hướng cải tiến công tác thanh toán, đơn giản hoá thủ
tục, mở rộng mạng lưới hoạt động. Bên cạnh đó, Ngân hàng có thể phát triển
những dịch vụ hỗ trợ như: dịch vụ trả lương, dịch vụ chuyển tiền mặt giao tận
tay cho người nhận sẽ thu hút được nhiều khách hàng thanh toán qua ngân
hàng từ đó làm tăng trưởng nguồn thu dịch vụ của Ngân hàng.
Tận dụng được nguồn vốn trong thanh toán của khách hàng đang lưu ký
trên các tài khoản tiền gửi séc bảo chi, séc chuyển tiền cầm tay trong thời gian tờ
séc chưa quay trở về ngân hàng. Những tài khoản dùng để đảm bảo thanh toán này,
ngân hàng không phải trả lãi như đối với các loại tài khoản tiền gửi khác.
Sự phát triển dịch vụ ngân hàng trong lĩnh vực tài chính Công ty đặc
biệt là cung ứng dịch vụ tư vấn và phân tích tài chính phục vụ hoạt động của
ngân hàng, đã mở ra khả năng to lớn để tăng lợi nhuận cho các tổ chức ngân
hàng cũng như khả năng mở rộng thêm đội ngũ khách hàng. Từ đó các ngân
hàng có thể chuyển các rủi ro của người đi vay từ bảng cân đối của các ngân
hàng sang các tổ chức đầu tư, tăng vốn tư bản và thực thi chiến lược phát triển
của các Công ty.
Đối với các ngân hàng, việc cung ứng các dịch vụ trong lĩnh vực tài
chính Công ty không chỉ mang lại khoản lợi nhuận khổng lồ mà còn tạo ra



Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
17
cho họ những lợi thế rất quan trọng để đảm bảo nâng cao hiệu quả và độ an
toàn cho hoạt động ngân hàng như: Duy trì và tăng cường tính trung thực của
khách hàng đối ngân hàng, có điều kiện nghiên cứu kỹ các chỉ tiêu sản xuất
kinh doanh của khách hàng, thu hút thêm được khách hàng mới, thiết lập
được cơ sở dữ liệu thông tin tin cậy của riêng mình về khách hàng lớn nâng
cao chất lượng dịch vụ tư vấn đầu tư và trình độ của cán bộ nhân viên ngân
hàng. Thực ra, bất cứ một ngân hàng nào hoạt động chân chính đều phải thực
hiện đầy đủ ba nghĩa vụ sau:
Trước hết, đối với chính bản thân ngân hàng đó là nghĩa vụ kinh doanh
làm sao cho đạt lợi nhuận tối đa. Nói gì thì nói, lợi nhuận cũng chính là nhiệm
vụ sống còn của ngân hàng bởi ngân hàng bắt buộc phải tồn tại và phát triển.
Từ đó mới có tiềm lực và điều kiện để thực hiện các nhiệm vụ đối với xã hội.
Tiếp theo, là phải làm nhiệm vụ đối với thị trường, thể hiện ở việc làm
tròn bổn phận đối với khách hàng. Ngay từ đầu, phải xác định mục tiêu phục
vụ khách hàng là mục tiêu cao nhất, phải cung cấp cho khách hàng những
dịch vụ hoàn hảo nhất. Luôn coi khách hàng là cuộc sống của ngân hàng.
Tránh kiểu làm ăn “lừa đảo khách hàng” sau đó chuyển sang khách hàng
khác. Ngân hàng phải nghĩ tới làm ăn lâu dài điều đó có nghĩa là lấy khách
hàng làm đầu, củng cố và giữ chữ tín để chuẩn bị cho những bước cao hơn.
Cuối cùng, thể hiện trách nhiệm đối với xã hội, trách nhiệm này thể
hiện ở một số mặt chủ yếu sau:
 Trách nhiệm phải tạo thêm việc làm cho xã hội. Tất nhiên không phải nói
ai cũng hiểu tầm quan trọng của việc làm trong việc hạn chế các tệ nạn xã
hội, tận dụng và phát huy tối đa nguồn lực.
 Trách nhiệm bảo vệ môi trường việc này thể hiện ở chỗ việc lựa chọn công
nghệ phù hợp, tuân theo các tiêu chuẩn kinh doanh do NHTW đề ra.

 Trách nhiệm đóng góp vào ngân sách quốc gia “ thuế là nguồn thu chủ yếu


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
18
của ngân sách Nhà nước”
 Ngoài ra, trong điều kiện cụ thể mà ngân hàng có thể tham gia đóng góp
tài chính cho trong việc ủng hộ các vấn đề xã hội như bão lụt.
III. Hoạt động ngân hàng trong điều kiện hội nhập KTQT:
1. Tính tất yếu phải hội nhập KTQT trong lĩnh vực ngân hàng:
Hội nhập KTQT của một nền kinh tế là mức độ mở cửa về hoạt động
kinh tế giữa nền kinh tế đó và các nước trong khu vực và trên toàn thế giới.
Mức độ mở cửa hội nhập về hoạt động ngân hàng là mức độ giao dịch về các
nghiệp vụ tín dụng, tiền tệ thanh toán của một nền kinh tế với thế giới bên
ngoài. Độ mở cửa này có thể được đo bằng mức độ tự do hoá khu vực tiền tệ
tín dụng ngân hàng.
Bản chất của hội nhập KTQT về ngân hàng là giao lưu về hoạt động của
hệ thống ngân hàng trong nước với cộng đồng tài chính khu vực và quốc tế, là
sự dỡ bỏ các rào cản ngăn cách, tạo nên sự tự do hoá các hoạt động dịch vụ
ngân hàng giữa trong nước và thế giới. Như vậy có thể nói hội nhập KTQT
trong lĩnh vực tài chính tiền tệ nói chung và ngành ngân hàng nói riêng là một
xu thế tất yếu. Nhận thức được vấn đề này, trong những năm gần đây, nhiều
quốc gia trên thế giới đã tiến hành những bước đi quan trọng nhằm mục đích tự
do hoá thị trường tài chính và thực tế đã cho thấy hội nhập KTQT về ngân hàng
đã mang lại rất nhiều lợi ích kinh tế cho mỗi quốc gia và toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hệ thống tài chính - ngân hàng cạnh
tranh và mở cửa là những hệ thống hỗ trợ hiệu quả cho phát triển và tăng
trưởng kinh tế. Cạnh tranh sẽ làm cho hệ thống ngân hàng vững mạnh, hiệu
quả và lành mạnh hơn. Do vậy các nước đang phát triển nói chung muốn hội

nhập quốc tế, phát triển và cải cách hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao khả
năng thu hút và phân bổ các nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ
chức kinh tế có thể tiếp cận các dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao hơn


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
19
nhưng với chi phí thấp hơn.
Về mặt chính sách nhằm khuyến khích hội nhập kinh tế quốc tế, chính
phủ thường thực hiện mở cửa tiếp cận thị trường, đối xử quốc gia, xây dựng
môi trường chính sách trong nước hỗ trợ cho cạnh tranh, từng bước cho phép
các ngân hàng nước ngoài cạnh tranh trong một sân chơi công bằng và tạo
thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong nước thâm nhập thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó chính phủ các nước cũng áp dụng các tiêu chuẩn, thông lệ tốt
nhất của quốc tế liên quan đến hoạt động ngân hàng làm cho thương mại và
luân chuyển vốn quốc tế tự do hơn. Mức độ hội nhập quốc tế đạt được trên
thực tế tùy thuộc vào sự phản hồi của các ngân hàng nước ngoài và các ngân
hàng trong nước đối với các cơ hội do sự thay đối chính sách tạo ra. Hội nhập
quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng được thể hiện qua: mức độ sở hữu nước
ngoài trong các ngân hàng trong nước; thị phần dịch vụ ngân hàng của các
ngân hàng nước ngoài
Ngành ngân hàng đóng vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, hoạt
động ngân hàng có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động của các ngành khác
trong nền kinh tế. Chính vì vậy trong tiến trình hội nhập KTQT lĩnh vực ngân
hàng luôn là lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu. Tính tất yếu phải hội nhập của
ngành ngân hàng được thể hiện như sau:
Thứ nhât, khi hoạt động trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước
không ngừng được mở rộng đã làm phát sinh các khoản thu chi bằng tiền mặt
giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu. Tuy nhiên nếu họ thanh toán trực

tiếp với nhau thì rất tốn thời gian và tiền của do vậy các ngân hàng đã xuất
hiện với vai trò làm trung gian thanh toán. Điều này làm cho hoạt động thanh
toán giữa người mua và người bán trở nên thuận lợi hơn rất nhiều.
Thứ hai, trong nền kinh tế có những lúc vào một thời điểm nơi này
thừa vốn và nơi khác thiếu vốn nhất là khi hội nhập. Khi đó ngân hàng đã


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
20
đóng vai trò điều chuyển vốn giữa những nơi thừa và nơi thiếu để nguồn vốn
được sử dụng một cách hiệu quả.
Thứ ba, quan hệ thương mại quốc tế rất phức tạp nó liên quan tới nhiều
doanh nghiệp tại nhiều quốc gia khác nhau. Chính vì vậy nếu hoạt động kinh tế
giữa các bên không rõ ràng thì tranh chấp rất dễ xảy ra. Lúc này ngân hàng
xuất hiện với vai trò là người tư vấn ký kết hợp đồng thương mại giúp khách
hàng trong việc lựa chọn các phương thức thanh toán và thủ tục thanh toán.
Tóm lại, trong quá trình toàn cầu hoá, tự do hoá và hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực tài chính, NH đã trở thành một trong những nội dung chủ yếu
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hầu hết các quan hệ kinh tế, tài chính của mỗi
nước trên thế giới. Các NHTM cùng hoà mình vào dòng chảy đó. Đi đôi với
nó, dịch vụ ngân hàng không ngừng phát triển theo xu thế đó bởi lẽ khi nhìn
nhận một quốc gia nào đó, điều đầu tiên là xem xét hệ thống ngân hàng nước
đó như thế nào? Hoạt động ra sao? Bởi dịch vụ ngân hàng là tín hiệu cho thấy
trình độ và chất lượng hoạt động ngân hàng. Bởi đây là thử thách hàng đầu và
là mặt trận chủ yếu trong quá trình cạnh tranh và hội nhập mà chúng ta phải
trải qua là đứng vững.
2. Các đặc trưng của ngân hàng trong điều kiện hội nhập.
Khi hội nhập quốc tế, hoạt động của các ngân hàng không còn chỉ diễn
ra trong phạm vi một quốc gia mà sẽ mở rộng hoạt động ra khu vực và thế

giới. Vì vậy hoạt động của hệ thống ngân hàng không chỉ bị chi phối bởi các
yếu tố trong nước mà còn chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố từ bên ngoài, từ
đó hoạt động của ngân hàng sẽ có nhiều thay đổi để thích nghi với môi trường
hoạt động mới. Trong quá trình hội nhập, hoạt động ngân hàng mang những
đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: Ngân hàng phải tuân theo qui luật thị trường và các luật lệ
tập quán kinh doanh quốc tế trong điều kiện hội nhập.


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
21
Hội nhập tạo ra một môi trường cạnh tranh bình đẳng, mọi ngăn cách bị
phá vỡ, các ngân hàng sẽ hoạt động theo qui luật thị trường, trong điều kiện
như vậy, ngân hàng nào có phương án hoạt động kinh doanh phù hợp sẽ tồn
tại và phát triển, ngược lại, nếu ngân hàng nào chuyển biến một cách chậm
chạp sẽ bị đào thải .
Thứ hai: Hoạt động ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế rất
đa dạng, phức tạp và diễn ra trên diện rộng .
Khi hội nhập KTQT, các ngân hàng mở rộng mạng lưới chi nhánh ra
nước ngoài khi đó sản phẩm của ngân hàng sẽ trở nên phức tạp hơn, cơ cấu tài
sản, nguồn vốn của ngân hàng hàm chứa nhiều yếu tố nước ngoài hơn, điều
này đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro tiềm ẩn
bởi chính chi nhánh của ngân hàng mình .
Ngoài ra, khi hội nhập KTQT, các ngân hàng còn chịu nhiều ảnh hưởng
của những biến động thế giới về kinh tế chính trị xã hội như khủng bố, xung
đột quân sự, nạn dịch, sự đổ vỡ của các tập đoàn kinh tế, những biến động đó
có thể xảy ra bất cứ lúc nào và không thể dự đoán trước, do đó để hạn chế
những rủi ro trên các ngân hàng phải có chính sách đối phó thích hợp nhằm
hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính tiền tệ nói

chung và an toàn hoạt động ngân hàng nói riêng.
Thứ ba: Hoạt động ngân hàng trong điều kiện hội nhập mang tính
cạnh tranh cao.
Một trong những ưu điểm của hội nhập KTQT là tạo ra môi trường cạnh
tranh bình đẳng cho các ngân hàng trong nước cũng như nước ngoài nhưng
cũng chính điều này lại tạo ra khó khăn cho các ngân hàng trong nước đặc
biệt là với những nước đang phát triển vì lúc này môi trường cạnh tranh trở
nên khốc liệt hơn. Các ngân hàng nước ngoài khi tham gia vào thị trường tài
chính tiền tệ trong nứơc với những tranh thiết bị hiện đại, sản phẩm dịch vụ
nhiều tiện ích, quy cách phục vụ hoàn toàn mới sẽ thu hút được nhiều đối


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
22
tượng khách hàng có năng lực về tài chính. Như vậy trong cùng một môi
trường hoạt động với các chính sách hoạt động và ưu đãi như nhau, các
NHTM trong nước muốn tồn tại và phát triển phải không ngừng đổi mới và
hoàn thiện mình để giữ được khách hàng truyền thống và thu hút thêm khách
hàng mới. Đây là một thách thức với các nước đang phát triển vì những nước
này tiềm lực tài chính còn yếu, kinh nghiệm kinh doanh cũng như khả năng
cạnh tranh quốc tế chưa cao.
Thứ tƣ: Hoạt động ngân hàng diễn ra trong môi trường công nghệ
tiên tiến hiện đại và sự phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân hàng
Internet.
Nền tảng cơ bản trong quá trình hội nhập của các ngân hàng đó là sự ứng
dụng những thành tựu của công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, từ
đó đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ ngân hàng, thoả mãn nhu cầu cho số lượng
lớn khách hàng. Trong quá trình vận động để đổi mới, hoàn thiện mình, các
ngân hàng đã đưa ra rất nhiều các sản phẩm dịch vụ với mức độ tiện ích cao,

trình độ công nghệ vượt trội như: sản phẩm dịch vụ điện tử (E- Marketing ),
ngân hàng Internet, dịch vụ thanh toán điện tử từ xa (Telebank). Sự phát triển
của các mạng dịch vụ tài chính quốc tế đã khắc phục được các trở ngại về thời
gian, không gian, tiết kiệm chi phí, tạo điều kiện cho các giao dịch có thể thực
hiện nhanh chóng, thuận lợi đem lại tiện ích cho khách hàng.
3. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực
ngân hàng.
Theo từ điển Việt Nam, cạnh tranh được hiểu là cố gắng giành phần
hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động, giữa
những người hoạt động như nhau.
Cạnh tranh là quy luật tất yếu, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
Để tồn tại trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh
tranh như là sự lựa chọn duy nhất. Cạnh tranh chỉ xuất hiện trong nền kinh tế


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
23
thị trường, nơi có sự cung ứng hàng hóa, dịch vụ của ít nhất hai doanh nghiệp
trong cùng một điều kiện giống nhau. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp
phải bằng mọi biện pháp khác nhau để sử dụng tối đa các nguồn lực mà mình
có để vượt lên trên đối thủ cạnh tranh cùng loại để khẳng định vị trí của mình
trong nền kinh tế.
Trong hoạt động ngân hàng, các ngân hàng cũng phải cạnh tranh với
nhau để tồn tại. Hiện nay, nước ta có 5 NHTM nhà nước tuy chiếm gần 76%
tổng nguồn vốn huy động và 80% thị phần tín dụng, nhưng tổng số vốn tự có
chưa tới 1 tỷ USD, đạt tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản chưa đến 5% (theo
thông lệ tối thiểu là 8%); nhóm NHTM cổ phần với 36 ngân hàng chiếm 11%
tổng nguồn vố huy động và 10% thị phần tín dụng; 4 ngân hàng liên doanh,
29 chi nhánh ngân hàng của 14 quốc gia và vùng lảnh thổ tại Việt Nam chỉ

chiếm 10% thị phần tín dụng nhưng nhìn chung họ có ưu thế hơn các NHTM
Việt Nam về công nghệ, loại hình dịch vụ, chiến lược khách hàng, hiệu quả
hoạt động và chất lượng tài sản
1
. Với một số lượng đông đảo các ngân hàng
hoạt động tại Việt Nam thì cạnh tranh của các ngân hàng cũng sẽ ngày càng
gay gắt hơn.
Cạnh tranh của các ngân hàng là việc các ngân hàng sử dụng tối đa các
nguồn lực của mình để giành và vượt lên các đối thủ cạnh tranh nhằm khẳng
định vị trí của mình trong thị trường tiền tệ. Cạnh tranh trong hoạt động ngân
hàng có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng diễn ra trong
bối cảnh chúng ta đang hội nhập ngày càng mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới,
những tác động của tiến trình toàn cầu hóa đến nền kinh tế Việt Nam ngày
càng rõ rệt. Những tác động và ảnh hưởng to lớn của toàn cầu hóa đến mọi
mặt của đời sống kinh tế - xã hội cũng đã được các nhà nghiên cứa quan tâm,


1
Báo cáo của NHNN về thị phần tín dụng của các NHTM tại Việt Nam năm 2005.


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Bích Trang Lớp: A1-K41A-KTNT.
24
luận giải không chỉ ở những khía cạnh chung nhất của vấn đề mà còn ở từng
lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực ngân hàng. Trong các phiên đàm phán song
phương và đa phương về việc Việt Nam gia nhập WTO, vấn đề mở cửa trong
lĩnh vực ngân hàng cũng là đề tài được tranh luận gay gắt. Lý giải cho vấn đề
này phải chăng là chúng ta đang tiếp cận từng bước để làm quen với việc

quản lý hoạt động của các chủ thể hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân
hàng trong bối cảnh toàn cầu hóa?
Thứ hai, hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng diễn ra trong
điều kiện có sự tham gia ngày càng nhiều của các ngân hàng nước ngoài tại
Việt nam. Ưu thế của các NHTM nước ngoài khi cạnh tranh với các NHTM
trong nước đó chính là công nghệ hiện đại, vốn lớn, trình độ quản lý điều
hành của họ mạnh hơn hẳn các NHTM trong nước rất nhiều. Nhiều dịch vụ
ngân hàng mà các ngân hàng nước ngoài đã cung cấp như Internet Bank,
Mobile Bank, Home Bank. Với đội ngũ nhân viên dày dạn kinh nghiệm, am
hiểu thị trường thì trong một tương lai không xa, các NHTM nước ngoài sẽ
chiếm thị phần ngày càng lớn trên thị trường tài chính Việt nam. Các chi
nhánh của các ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh hiện nay đang tìm
cách mở rộng địa bàn họat động của mình về các tỉnh lân cận các thành phố
lớn, tức họ đang mở rộng thị phần của mình không chỉ trong phạm vi các
thành phố lớn.
Hiện nay các Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh tại Việt
Nam đang gặp trở ngại trong việc huy động vốn do tâm lý người Việt Nam
không mấy tin tưởng các ngân hàng này. Họ sợ mất tiền khi gửi tại các ngân
hàng này, bởi họ quan niệm, nếu các NHTM Nhà nước phá sản thì họ được
nhà nước hoàn trả lại khoản tiền gửi cho họ. Tuy nhiên, những tiện ích mà họ
cung cấp chắc chắn những trở ngại trên sẽ dần được xóa bỏ. Một cuộc điều tra
của tổ chức phát triển Liên Hợp Quốc nữa cuối năm 2005 cho thấy: 45%
khách hàng được hỏi (kể cả doanh nghiệp và cá nhân) đều trả lời sẽ chuyển

×