TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUÊ
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRI
GVC THS HOÀNG NGỌC VĨNH
HỎI ĐÁP HỆ THỐNG NGÂN HÀNG ĐỀ THI
MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
HUÊ, 4-2012
Lời nói đầu
1
- Căn cứ vào thông báo số 7785/CTCT ngày 12.9.1998 của Bộ giáo dục
và Đào tạo về việc dạy và học các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chi
Minh năm học 1998-1999,
- Căn cứ vào nhu cầu về tài liệu học tập của sinh viên không chuyên
ngành Mác-Lênin,
- Căn cứ những quy định của trường Đại học Khoa học Huế về việc tô
chức thi hết học phần các môn học theo hệ thống ngân hàng đề thi do Phòng
Khảo thi-Kiểm định chất lượng bốc thăm,
- Căn cứ Bộ ngân hàng Đề thi môn Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin do Bộ môn Triết học biên soạn đã được Hội đồng khoa học
Khoa và Trường thông qua năm 2011,
Nay biên soạn cuốn: “Hỏi đáp hệ thống ngân hàng đề thi môn Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (1)”.
Đây là tài liệu giúp cho sinh viên nắm được một cách có hệ thống những
nguyên lý cơ bản của Triết học Mác-Lênin và những quan điểm của Đảng ta
vận dụng vào cách mạng Việt Nam. Nhờ đó có thể thực hiện tốt các bài thi hết
học phần môn “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (1) của sinh
viên năm thứ nhất tại trường Đại học Khoa học Huế.
Tác giả xin được đón nhận sự hợp tác và những ý kiến trao đôi, xây dựng
của bạn sinh viên và đồng nghiệp.
Trân trọng cảm ơn!
Tác gia
GVC THS HOÀNG NGỌC VĨNH
Địa chỉ liên hệ:
Mỗi đề thi gồm 2 câu, một câu thuộc khối kiến thức 1 và một câu thuộc khối kiến
thức 2.
2
Thời gian làm bài 90 phút, không kể thời gian phát/chép đề.
Sinh viên không được sử dụng tài liệu trong khi làm bài.
KHỐI KIÊN THỨC I
1.1: Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin, từ đó hãy rút ra ý nghĩa khoa
học của định nghĩa này?
Tiếp thu tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành tựu
mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, về mặt triết học trên cơ sở
phê phán những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật chất, Lênin đã đưa ra định nghĩa về
vật chất như sau:
1. Nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cam giác, được cam giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phan ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cam giác” (V.I.Lênin toàn tập, T.18, NXB Tiến bộ, Matxcơva, 1980,
tr.151).
2. Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
Trong định nghĩa trên, chúng ta cần phân tích những nội dung chủ yếu sau đây:
a. “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan…”
- “Vật chất” là một phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận thức.
+ Phạm trù vật chất phai được xem xét dưới góc độ của triết học, chứ không phai dưới
góc độ của các khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai lầm khi đồng nhất
phạm trù vật chất trong triết học với các khái niệm vật chất thường dùng trong các khoa học
cụ thể hoặc đời sống hằng ngày.
+ Không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường. Về mặt
nhận thức luận, Lênin chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với phạm trù đối
lập của nó, đó là phạm trù ý thức (phương pháp định nghĩa thông qua cái đối lập với nó).
(Xem thêm chương khái niệm ở giáo trình Logic hình thức)
Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan,
Lênin đã bỏ qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu, nhiều vẻ của các sự vật, hiện
tượng, mà nêu bật đặc tính cơ ban nhất, phổ biến nhất có ở tất ca các sự vật, hiện tượng trong
thế giới hiện thực khách quan. Đó là đặc tính “tồn tại với tư cách là thực tại khách quan”, tồn
tại ở ngoài ý thức con người và độc lập với ý thức. Đặc tính “thực tại khách quan” là dấu hiệu
cơ ban để phân biệt vật chất với cái không phai là vật chất.
- Tính trừu tượng của phạm trù vật chất: Phạm trù vật chất khái quát đặc tính chung
nhất của mọi khách thể vật chất xét trong quan hệ với ý thức nên về hình thức nó là cái trừu
tượng. Vì thế, không được đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của nó giống như quan
niệm của các nhà duy vật trước Mác.
b. Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác.
Trong phần này, Lênin đã giai quyết được những điều sau đây:
- Thứ nhất, Lênin đã giai quyết được mối quan hệ giữa tính trừu tượng và tính hiện
thực cụ thể cam tính của phạm trù vật chất. Vật chất không phai tồn tại vô hình, thần bí mà
tồn tại một cách hiện thực, được biểu hiện cụ thể dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể mà
các giác quan của chúng ta có thể nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp.
- Thứ hai, Lênin đã giai quyết được mặt thứ nhất của vấn đề cơ ban triết học trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Thực tại khách quan đưa lại cam giác cho con
3
người, chứ không phai cam giác (ý thức) sinh ra thực tại khách quan. Điều đó có nghĩa là, vật
chất là cái có trước và đóng vai trò quyết định, nội dung khách quan của ý thức.
c. Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Đến đây, Lênin đã khẳng định rằng con người có kha năng nhận thức được thế giới
hiện thực khách quan. Tức là Lênin đã giai quyết được mặt thứ hai của vấn đề cơ ban triết học
trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Vật chất tồn tại khách quan không lệ thuộc ý thức của con người.
d. Định nghĩa đặc biệt bằng quan hệ, Lênin đồng thời đã khẳng định vật chất và ý
thức không tồn tại tách biệt lẫn nhau, mà giữa vật chất và ý thức luôn có mối quan hệ biện
chứng với nhau.
3. Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
- Giai quyết một cách đúng đắn vấn đề cơ ban của triết học trên lập trường chủ nghĩa
duy vật và biện chứng.
- Khắc phục được những quan niệm trực quan, siêu hình, máy móc về vật chất của chủ
nghĩa duy vật trước Mác và những biến tướng của nó trong trào lưu triết học tư san hiện đại.
- Chống lại tất ca các quan điểm duy tâm và tạo ra căn cứ vững chắc để nghiên cứu xã
hội.
- Khẳng định thế giới vật chất là khách quan và vô cùng, vô tận, luôn luôn vận động
và phát triển không ngừng nên nó đã có tác dụng định hướng, cổ vũ các nhà khoa học khi sâu
vào nghiên cứu thế giới vật chất, để ngày càng làm phong phú thêm kho tàng tri thức của
nhân loại.
1.2: Làm rõ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất của ý thức?
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là sự phan ánh thế giới
khách quan vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn, nên ban chất của ý thức là hình
anh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phan ánh sáng tạo, tích cực và chủ động về thế
giới khách quan. Đó chính là sự khác biệt rất cơ ban của ý thức con người so với tâm lý động
vật và sự “suy nghĩ” của máy móc.
Phan ánh của ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy định.
Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của sự phan ánh, trong khuôn khổ và theo tính
chất của quy luật phan ánh.
Con người khác với động vật là thông qua hoạt động thực tiễn có mục đích, có định
hướng, tác động vào sự vật, hiện tượng trong thế giới, buộc chúng phai bộc lộ đặc tính, kết
cấu, quy luật lao động để phan ánh và nhận thức. Khi con người nhận thức được quy luật, thì
con người vận dụng tri thức đó vào việc cai biến thế giới khách quan nhằm phục vụ cho cuộc
sống của mình.
Điểm xuất phát để hiểu ban chất của ý thức là phai thừa nhận ý thức là sự phan ánh, là
cái phan ánh, còn vật chất là cái được phan ánh. Phan ánh là sự lưu lại, tái hiện lại những dấu
hiệu cơ ban, ban chất của hệ thống vật chất này trong hệ thống vật chất khác và ngược lại
(song ánh).
Ban chất sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Ý thức là sự phan ánh
hiện thực khách quan vào bộ óc người, song đây là sự phan ánh đặc biệt – phan ánh trong quá
trình con người cai tạo thế giới. Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt: Trao đổi
thông tin giữa chủ thể và đối tượng phan ánh; Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng
hình anh tinh thần; Chuyển hóa mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan.
4
Ban chất xã hội của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức không phai là một hiện tượng tự
nhiên thuần túy mà là một hiện tượng xã hội. Ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử-xã hội,
phan ánh những quan hệ xã hội khách quan.
Tóm lại: Ban chất của ý thức là “hình anh chủ quan của thế giới khách quan được
phan ánh trong bộ óc người thông qua hoạt động thực tiễn”.
1.3: Phân tích nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, từ đó hãy rút ra ý nghĩa phương
pháp luận của nguyên lý này?
- Phép siêu hình không thừa nhận mối liên hệ phổ biến của thế giới. Theo quan điểm
này, sự vật hiện tượng trong thế giới về cơ ban không có sự liên hệ, ràng buộc, quy định lẫn
nhau. Cho nên đối với phép siêu hình, thế giới chỉ là một tập hợp rời rạc các sự vật cô lập
nhau. Cách nhìn ấy không cho phép chúng ta vạch ra cái chung, cái ban chất và quy luật của
các sự vật hiện tượng.
- Trái với quan điểm siêu hình, phép biện chứng duy vật thừa nhận mối liên hệ phổ
biến của các sự vật, hiện tượng trong thế giới và coi đó là nguyên lý cơ ban của nó. Khái niệm
liên hệ nói lên sự quy định, anh hưởng, ràng buộc, tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng và quá trình. Phép biện chứng duy vật phát biểu rằng: mọi sự vật, hiện
tượng quá trình muôn vẻ trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến với nhau, không
có cái gì tồn tại biệt lập với cái khác. Điều đó là dễ hiểu, vì vật chất tồn tại thông qua vận
động, mà vận động cũng là liên hệ. Ăngghen viết: “tất ca thế giới mà chúng ta có thể nghiên
cứu được, là một hệ thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau… Việc các vật thể có
liên hệ qua lại với nhau đã có ý nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau và sự tác động qua
lại ấy chính là sự vận động”.
Như vậy phép biện chứng duy vật thừa nhận liên hệ diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi sự
vật và quá trình của hiện thực, nó có tính khách quan, xuất phát từ tính thống nhất vật chất của
thế giới.
Phép biện chứng duy vật cũng chỉ ra rằng, liên hệ của thế giới rất đa dạng, bởi thế giới
bao gồm vô số sự vật hiện tượng muôn vẻ khác nhau.
Tùy theo tính chất, vai trò, phạm vi của liên hệ mà người ta phân thành nhiều loại: liên
hệ bên trong và liên hệ bên ngoài, liên hệ cơ ban và không cơ ban, liên hệ không gian và thời
gian, liên hệ trực tiếp và gián tiếp…
Sự phân loại các liên hệ này chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì mỗi loại liên hệ chỉ là
một hình thức, một bộ phận, một mắt khâu của mối liên hệ phổ biến của thế giới xét như một
chỉnh thể.
Tuy nhiên, sự phân loại các liên hệ là cần thiết, vì rằng vị trí của từng mối liên hệ
trong việc quy định sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng không như nhau.
Sự phân loại các liên hệ còn là cơ sở để xác định phạm vi nghiên cứu của phép biện
chứng duy vật và của các ngành khoa học cụ thể. Những hình thức riêng biệt, cụ thể của từng
mối liên hệ thuộc phạm vi nghiên cứu của từng ngành khoa học cụ thể, còn phép biện chứng
duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, phổ biến nhất của thế giới. Vì thế,
Ăngghen viết: “phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến”.
- Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghĩa phương pháp luận to lớn
đối với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nếu các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và
nhiều vẻ, thì muốn nhận thức và tác động vào chúng, phai có quan điểm toàn diện, khắc phục
quan điểm phiến diện, một chiều. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật
phai đặt nó trong mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác; phai xem xét tất ca các mặt, các yếu
5
tố, kể ca khâu trung gian, gián tiếp của chúng. Chỉ có như vậy, chúng ta mới nắm bắt được
một cách đầy đủ ban chất của sự vật, tránh được những kết luận phiến diện chủ quan, vội
vàng.
Tuy nhiên quan điểm toàn diện không có nghĩa là cách xem xét cào bằng, tràn lan mà
phai thấy được tính chất, vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong tổng thể của
chúng. Như vậy, quan điểm toàn diện bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm này đòi
hỏi, phai xét sự vật trong từng liên hệ cụ thể của nó, gắn với những tính chất, vị trí cụ thể của
mối liên hệ cụ thể đó; phai biết phân loại các liên hệ của sự vật để nắm lấy cái cơ ban, cái có
tính quy luật của nó; đồng thời phai xét ca những điều kiện cụ thể của sự vật trong đó xuất
hiện từng liên hệ quy định từng tính chất và xu hướng cụ thể của nó. Từ đó mà tìm ra những
phương thức cụ thể để tác động đến sự vật.
1.4: Phân tích nguyên lý về sự phát triển từ đó hãy rút ra ý nghĩa phương pháp
luận của nguyên lý này?
- Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thống nhất hữu cơ
với nguyên lý về sự phát triển, bởi vì liên hệ tức là vận động, mà không có vận động thì
không có sự phát triển.
Nhưng “vận động” và “phát triển” là hai khái niệm khác nhau. Khái niệm “vận động”
khái quát mọi sự biến đổi nói chung, không tính đến xu hướng và kết qua của những biến đổi
ấy như thế nào. Sự vận động diễn ra không ngừng trong thế giới và có nhiều xu hướng.
Khái niệm “phát triển” không khái quát mọi sự biến đổi nói chung; nó chỉ là khái quát
những vận động đi lên, cái mới ra đời thay thế cho cái cũ. Tiêu chuẩn để xác định sự phát
triển là có xuất hiện “cái mới” trong những biến đổi của sự vật hiện tượng. Sự phát triển trong
thế giới theo các chiều hướng cơ ban sau: phát triển về trình độ (từ thấp đến cao), phát triển về
cấu trúc (từ đơn gian đến phức tạp), phát triển về ban chất (từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn). Sự phân biệt đó về các chiều hướng chỉ là tương đối, một sự phát triển thường bao hàm
ca các chiều hướng này.
- Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng sự phát triển, đổi mới là hiện tượng diễn ra
không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy, mà nguồn gốc của nó là cuộc đấu
tranh giữa các mặt đối lập trong ban thân sự vật và hiện tượng. Nhưng không nên hiểu sự phát
triển bao giờ cũng diễn ra một cách đơn gian, theo đường thẳng. Xét từng trường hợp cá biệt,
thì có những vận động đi lên, tuần hoàn, thậm chí đi xuống, nhưng xét ca quá trình, trong
phạm vi rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hướng thống trị. Khái quát tình hình trên đây,
phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, phát triển là khuynh hướng chung của sự vận động
của sự vật và hiện tượng.
- Quan điểm biện chứng xác định nguồn gốc bên trong của mọi sự phát triển. Cho nên
thế giới phát triển là tự thân phát triển, là quá trình bao hàm mâu thuẫn và thường xuyên giai
quyết mâu thuẫn, vừa liên tục vừa có gián đoạn; là quá trình bao hàm sự phủ định cái cũ và ra
đời cái mới. Sự phát triển như là vận động đi lên ra đời cái mới, nhưng cái mới không đoạn
tuyệt với cái cũ mà kế thừa tất ca những gì tích cực của cái cũ. Tất ca những điều đó nói lên
tính chất phức tạp của sự phát triển, nhưng bao giờ cũng theo khuynh hướng đi lên.
- Đối lập với quan điểm trên đây của phép biện chứng; phép siêu hình nói chung phủ
nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa tính ổn định của các sự vật hiện tượng. Nếu có thừa nhận sự
phát triển, thì phép siêu hình cho rằng đó chỉ là sự tăng giam về lượng, sự lặp lại mà không có
chuyển hóa về chất, không có sự ra đời cái mới thay thế cho cái cũ. Lênin nhận xét rằng, quan
niệm siêu hình là cứng nhắc, nghèo nàn, khô khan, chỉ có quan niệm biện chứng là sinh động,
mới cho ta chìa khóa của “sự tự vận động” của tất thay mọi cái đang tồn tại, của những “bước
6
nhay vọt” và “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hóa thành mặt đối lập”, của
“sự tiêu diệt cái cũ và sự nay sinh ra cái mới”. Cũng vì vậy mà ông nhấn mạnh rằng, phép
biện chứng là học thuyết “hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện về sự phát triển”.
- Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển, giúp cho chúng ta nhận thức rằng, muốn thực
sự nắm được ban chất của sự vật hiện tượng, nắm được quy luật và xu hướng của chúng phai
có quan điểm phát triển, khắc phục tư tưởng bao thủ trì trệ.
Quan điểm này yêu cầu khi phân tích sự vật phai xét nó như một quá trình; đặt nó
trong sự vận động, sự phát triển mới nắm được quy luật và những xu hướng của nó. Quan
điểm phát triển còn bao hàm yêu cầu xét sự vật trong từng giai đoạn cụ thể của nó nhưng
không được tách rời với các giai đoạn khác mà phai liên hệ chúng với nhau mới có thể nắm
được logic của toàn bộ tiến trình vận động sự vật. Quan điểm phát triển cũng đòi hỏi tinh thần
lạc quan tích cực trong thực tiễn, khắc phục mọi sụ trì trệ bao thủ.
1.5: Phân tích cặp phạm trù cái chung và cái riêng, từ đó hãy rút ra ý nghĩa
phương pháp luận của cặp phạm trù này?
1. Khái niệm cái chung, cái riêng, cái đơn nhất.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối
liên hệ giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình
riêng lẻ nhất định.
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chỉ có ở
một kết cấu vật chất nhất định, mà không lặp lại ở kết cấu khác.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ca cái riêng và cái chung đều tồn tại khách
quan và quan hệ biện chứng với nhau.
- Cái chung thì tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Điều đó có nghĩa là cái
chung thực sự tồn tại, nhưng chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Không có cái
chung thuần túy, trừu tượng tồn tại bên ngoài cái riêng.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung, bao hàm cái chung. Điều
đó cho thấy là cái riêng tồn tại độc lập nhưng sự tồn tại độc lập đó không có nghĩa là cái riêng
hoàn toàn cô lập với cái khác mà bất cứ cái riêng nào cũng nằm trong mối liên hệ đưa tới cái
chung. Cái riêng không những chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung mà thông qua
hàng nghìn sự chuyển hóa, nó còn liên hệ với cái riêng loại khác.
- Cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào cái chung
vì vậy cái riêng phong phú hơn cái chung. Bởi ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chung,
cái riêng còn giữ lại những đặc điểm riêng biệt mà chỉ nó mới có. Trong khi đó, cái chung
phai là cái sâu sắc hơn vì nó phan ánh những mối liên hệ ở bên trong, phổ biến tồn tại trong
cái riêng cùng loại, nó gắn liến với các cái riêng, quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
- Trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái
đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến thành cái đơn nhất.
Sỡ dĩ có tình trạng này là do trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay
trong một lúc mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng đơn nhất cá biệt. Nhưng theo quy luật, cái mới
nhất định sẽ phát triển mạnh lên, ngày càng trở nên hoàn thiện tiến tới trở thành cái chung.
Ngược lại, cái cũ ngày càng mất dần đi từ chỗ là cái chung biến dần thành cái đơn nhất.
- Trong phạm vi khái quát của con người, cái được xem là cái chung trong quan hệ
này lại có thể được xem là cái riêng, cái đơn nhất trong quan hệ khác.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
7
- Không được tuyệt đối hóa cái chung hay cái riêng mà phai thấy được mối quan hệ
biện chứng giữa chúng. Nếu tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ dẫn đến giáo điều chủ nghĩa, rập
khuôn một cách máy móc. Ngược lại nếu tuyệt đối hóa cái riêng thì sẽ dẫn đến chủ nghĩa kinh
nghiệm, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tập thể phường hội, địa phương chủ nghĩa và chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi.
- Trong nhận thức và thực tiễn để phát hiện cái chung cần phai xuất phát từ những cái
riêng, từ những sự vật, hiện tượng quá trình riêng lẻ cụ thể chứ không được xuất phát từ ý
muốn chủ quan của chủ thể, và để giai quyết những vấn đề riêng một cách có hiệu qua thì
không lang tránh việc giai quyết những vấn đề chung, để tránh tình trạng sa vào mò mẫm tùy
tiện.
- Trong hoạt động thực tiễn cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất chuyển
hóa thành cái chung nếu cái đơn nhất đó có lợi, và cũng phai tạo điều kiện để cái chung
chuyển hóa thành cái đơn nhất nếu cái chung đó là lạc hậu.
1.6: Phân tích cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, từ đó hãy rút ra ý nghĩa
phương pháp luận của cặp phạm trù này?
1. Khái niệm nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân là phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một
sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
- Kết qua là phạm trù triết học chỉ là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
- Phân biệt nguyên nhân và nguyên cớ, nguyên nhân và điều kiện:
+ Nguyên cớ là một sự kiện nào đó trực tiếp xay ra trước kết qua, có liên hệ với kết
qua nhưng chỉ là liên hệ bên ngoài không ban chất.
+ Điều kiện: Đó là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân
nhưng lại có tác dụng biến kha năng chứa đựng trong nguyên nhân thành kết qua, thành hiện
thực. Vì vậy, điều kiện là cái không thể thiếu được cho sự xuất hiện kết qua.
2. Tính khách quan và phổ biến của mối quan hệ nhân quả:
- Tính khách quan:
Thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó cho thấy vật chất đang vận động quy đến
cùng là nguyên nhân duy nhất, là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng, quá trình. Và mỗi sự
vật, hiện tượng, quá trình đều có căn cứ của nó trong những sự vật, hiện tượng, quá trình
khác. Cho nên không có sự vật hiện tượng nào không có nguyên nhân mà chỉ có chúng ta
chưa tìm ra nguyên nhân của hiện tượng đó, và cũng không có một hiện tượng nào không sinh
ra kết qua mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra được kết qua của nó.
- Tính phổ biến:
Tính phổ biến của quan hệ nhân qua thể hiện ở chỗ mọi sự vật và hiện tượng đều nay
sinh từ những sự vật hiện tượng khác. Trong đó cái san sinh ra cái khác được gọi là nguyên
nhân và cái được sinh ra gọi là kết qua.
3. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả
- Nguyên nhân sinh ra kết qua vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết qua, còn
kết qua bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân, khi nguyên nhân đã xuất hiện, đã bắt đầu tác
động.
Tuy nhiên không phai mọi sự nối tiếp nhau về mặt thời gian của các sự vật hiện tượng
cũng là biểu hiện của mối liên hệ nhân qua. Cái để phân biệt quan hệ nhân qua với quan hệ
nối tiếp nhau về mặt thời gian là ở chỗ quan hệ nhân qua bao giờ cũng là quan hệ san sinh,
trong đó nguyên nhân phai san sinh ra kết qua.
8
- Trong hiện thực, mối quan hệ nhân qua biểu hiện hết sức phức tạp. Một kết qua
thường không phai do một nguyên nhân mà do nhiều nguyên nhân gây ra; đồng thời một
nguyên nhân cũng có thể san sinh ra nhiều kết qua. Vì sự phối hợp tác động của nhiều nguyên
nhân đòi hỏi phai phân tích tính chất, vai trò của mỗi loại nguyên nhân đối với kết qua cũng
như sự liên hệ anh hưởng lẫn nhau giữa các nguyên nhân và phân loại các nguyên nhân.
+ Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết qua nhanh
hơn. Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết qua
chậm lại. Thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
+ Phân loại nguyên nhân:
* Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu:
Nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà không có nó thì kết qua không thể xuất hiện.
Nó quyết định những đặc trưng tất yếu của sự vật, hiện tượng. Nguyên nhân thứ yếu là
nguyên nhân chỉ quyết định những mặt, những đặc điểm nhất thời, tác động có giới hạn và có
mức độ vào việc san sinh ra kết qua.
* Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài: Nguyên nhân bên trong là
nguyên nhân tác dụng ngay bên trong sự vật, được chuẩn bị và xuất hiện trong tiến trình phát
triển của sự vật, phù hợp với đặc điểm về chất của nó. Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động
giữa các sự vật khác nhau đem lại sự biến đổi nhất định giữa các sự vật đó.
- Tác động trở lại của kết qua đối với nguyên nhân và sự chuyển hóa của nguyên
nhân-kết qua:
Mối liên hệ nhân qua có tính chất tác động qua lại lẫn nhau trong đó không những
nguyên nhân sinh ra kết qua mà kết qua còn tác động trở lại đối với nguyên nhân đã sinh ra
nó, làm cho những nguyên nhân cũng biến đổi bởi vì nguyên nhân sinh ra kết qua bao giờ
cũng là một quá trình. Sự tác động trở lại của kết qua đối với nguyên nhân chính là sự anh
hưởng thường xuyên lẫn nhau giữa nguyên nhân và kết qua, gây nên sự biến đổi giữa chúng.
Nguyên nhân và kết qua thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau, nên “cái bây giờ ở đây là kết qua
thì ở chỗ khác, lúc khác lại trở thành nguyên nhân và ngược lại”.
Trong thế giới vô tận, nguyên nhân sinh ra kết qua, đến lượt nó kết qua chuyển hóa
thành nguyên nhân mới sinh ra kết qua mới,.. là vô tận. Chính vì thế, trong thế giới ta không
thể chỉ ra được đâu là nguyên nhân đầu tiên và đâu là kết qua cuối cùng.
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Mối quan hệ nhân qua đã vạch rõ nguồn gốc của các hiện tượng cụ thể, riêng biệt vì
vậy là cơ sở để đánh giá kết qua của sự nhận thức thế giới, hiểu rõ con đường phát triển của
khoa học, khắc phục tính hạn chế của các lý luận hiện có và là công cụ lý luận cho hoạt động
thực tiễn để cai tạo tự nhiên và xã hội.
- Hiện tượng nào cũng có nguyên nhân, nên muốn hiểu đúng một hiện tượng thì phai
tìm hiểu nguyên nhân xuất hiện của nó hoặc muốn xóa bỏ một hiện tượng thì phai xóa bỏ
nguyên nhân san sinh ra nó.
- Nếu nguyên nhân chỉ sinh ra kết qua trong những điều kiện nhất định thì phai nghiên
cứu điều kiện để thúc đẩy hay kìm hãm sự ra đời của kết qua. Phai có quan điểm toàn diện và
cụ thể khi nghiên cứu hiện tượng chứ không được vội vàng kết luận về nguyên nhân của hiện
tượng đó.
1.7: Trình bày nội dung của quy luật chuyển hóa những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất và ngược lại, từ đó hãy rút ra ý nghĩa phương pháp luận của quy
luật này?
I. Nội dung quy luật:
9
Mỗi sự vật, hiện tượng là sự thống nhất giữa hai mặt: chất lượng (chất) và số lượng
(lượng). Từ những thay đổi dần dần về lượng dẫn sẽ đến những thay đổi về chất và ngược lại;
là cách thức của sự vận động và phát triển.
1. Khái niệm chất và lượng
a. Khái niệm chất:
- Chất là tính quy định vốn có của các sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ
của những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, nói lên sự vật đó là gì, phân biệt nó với
các sự vật và hiện tượng khác.
- Phân biệt chất với tính cách là phạm trù triết học với chất hiểu theo khái niệm thường
dùng hàng ngày hoặc với khái niệm chất liệu.
- Phân biệt chất với thuộc tính. Mỗi chất gồm nhiều thuộc tính.
- Mỗi sự vật, hiện tượng có thể có một hoặc nhiều chất tuy theo những mối quan hệ
xác định
- Chất tồn tại khách quan.
- Chất biểu hiện tình trạng tương đối ổn định của sự vật, hiện tượng.
- Trong những trường hợp đặc biệt, chất là cái trừu tượng và dường như nằm ngoài sự
vật, hiện tượng.
b. Khái niệm lượng
- Lượng là tính quy định của sự vật, hiện tượng về mặt qui mô, trình độ, tốc độ phát
triển của nó, biểu thị bằng các con số, các thuộc tính, các yếu tố,.. cấu thành nó.
- Lượng không chỉ biểu hiện bằng các con số, các đại lượng xác định cụ thể, mà lượng
còn được nhận thức bằng kha năng trừu tượng hóa.
- Lượng là nhân tố quy định bên trong, nhưng đồng thời cũng có những lượng chỉ nói
lên nhân tố dường như bên ngoài sự vật.
- Lượng tồn tại khách quan.
- So với chất, lượng là cái thường xuyên biến đổi.
* Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối.
2. Tinh thống nhất và mối quan hệ phô biến của lượng và chất.
a. Khái niệm “Độ”
Mỗi sự vật là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời
nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng.
- “Độ” là khái niệm nói lên mối quan hệ quy định lẫn nhau của chất và lượng. Nó là
giới hạn mà trong đó sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó mà chưa biến thành cái khác. Trong
giới hạn “độ” lượng biến đổi nhưng chưa dẫn đến chuyển hóa về chất.
- Độ cũng biến đổi khi những điều kiện tồn tại của sự vật, hiện tượng biến đổi.
b. Những hình thức biến đổi từ lượng dẫn đến sự biến đổi về chất.
Ranh giới của lượng do chất quy định, nhưng sự chuyển hóa thì bao giờ cũng bắt đầu
từ sự thay đổi về lượng. Các hình thức cơ ban của sự chuyển hóa:
+ Tăng lên hoặc giam đi đơn thuần về mặt số lượng
+ Sự dung hợp của nhiều lực lượng thành một hợp lực về căn ban khác với tổng số
những lực lượng cá biệt.
+ Thay đổi về kết cấu, tổ chức, qui mô của sự vật, hiện tượng.
- Khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ thì dẫn đến thay đổi về chất. Sự thay đổi
về chất được gọi là bước nhay (có 4 loại bước nhay cơ ban: bước nhay toàn phần, bước nhay
cục bộ, bước nhay dần dần, bước nhay đột biến), đó là bước ngoặt căn ban trong sự biến đổi
dần dần về lượng.
10
- Giới hạn mà ở đó xay ra bước nhay được gọi là điểm nút.
- Sự chuyển hóa đòi hỏi phai có điều kiện.
c. Ảnh hưởng của chất mới đối với sự biến đổi của lượng
Khi chất mới ra đời nó tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có một sự thống nhất
mới giữa chất và lượng. Sự quy định này được biểu hiện ở qui mô và nhịp điệu phát triển mới
của lượng.
Tóm lại, quy luật lượng-chất chỉ ra cách thức biến đổi sự vật, hiện tượng. Đó là quá
trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt: chất và lượng. Lượng biến đổi mâu thuẫn với chất cũ,
chất mới ra đời với lượng mới. Lượng mới lại tiếp tục biến đổi đến giới hạn nào đó lại phá vỡ
chất đang kìm hãm nó, tạo nên chất mới với lượng mới. Như vậy phát triển là quá trình vô
hạn, vừa mang tính liên tục (biểu hiện ở sự biến đổi của lượng) vừa có tính gián đoạn (biểu
hiện ở sự thay đổi về chất).
II. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Sự vận động và phát triển là kết qua của quá trình tích lũy về lượng. Trong hoạt động
thực tiễn cần chống lại hai khuynh hướng:
+ Tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, chưa có sự tích lũy đầy đủ về lượng đã
muốn thực hiện bước nhay về chất. Hoặc chỉ nhấn mạnh đến bước nhay, xem nhẹ tích lũy về
lượng, dẫn đến các hành động phiêu lưu mạo hiểm.
+ Tư tưởng bao thủ, trì trệ, ngại khó không dám thực hiện bước nhay về chất. Hoặc
chỉ nhấn mạnh đến sự biến đổi dần dần về lượng, từ đó rơi vào chủ nghĩa cai lương và tiến
hóa luận.
- Cần có thái độ khách quan, khoa học và có quyết tâm thực hiện bước nhay khi điều
kiện thực hiện bước nhay đã chín muồi.
+ Cần phân biệt các bước nhay trong tự nhiên và trong xã hội.
+ Phai nhận thức đúng đắn các bước nhay khác nhau về qui mô, nhịp độ.
+ Chống chủ nghĩa giáo điều.
1.8: Trình bày nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, từ
đó hãy rút ra ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này?
I. Nội dung quy luật:
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn)
là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật, là “hạt nhân của phép biện chứng”.
Bởi vì nó vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển.
- Khái quát nội dung quy luật:
Mọi sự vật, hiện tượng đều bao hàm mâu thuẫn bên trong. Mỗi sự vật, hiện tượng đều
là thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Chính sự đấu tranh
của các mặt đối lập đó làm cho sự vật, hiện tượng vận động, phát triển.
- Phân tích nội dung quy luật:
1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến.
- “Mặt đối lập”?
Mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng thay đổi, phát triển chống đối nhau, trái
ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên sự vật hiện tượng.
Mỗi sự vật, hiện tượng có thể có nhiều yếu tố, nhiều mặt,.. cấu thành, nhưng có hai
mặt đối lập cơ ban thống nhất với nhau quyết định kết cấu tạo thành sự vật, hiện tượng.
-“Mâu thuẫn”?
“Mâu thuẫn” là khái niệm để chỉ sự liện hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập
trong một sự vật, hiện tượng nhất định.
11
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, vì mâu thuẫn tồn tại trong ban thân sự vật, hiện
tượng.
Mâu thuẫn tồn tại phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy (mâu thuẫn trong tư duy là
sự phan ánh mâu thuẫn của hiện thực khách quan).
2. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu
tranh với nhau.
- Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập vừa có quan hệ thống nhất với nhau, vừa đấu
tranh lẫn nhau.
- Khái niệm “thống nhất” trong quy luật biểu hiện: Các mặt đối lập liên hệ ràng buộc
với nhau, quy định lẫn nhau và làm tiền đề tồn tại của nhau.
Khái niệm “thống nhất” trong quy luật này còn được hiểu là sự “đồng nhất”, nghĩa là
cũng thừa nhận trạng thái ổn định của mối liên hệ của các mặt đối lập. Đồng thời cũng thừa
nhận sự chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập.
- Khái niệm “đấu tranh” của các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập bài trừ lẫn
nhau, phủ định lẫn nhau. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá
trình đó có thể chia ra nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng của nó.
- Về mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin viết: “Sự
thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm
thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối,
cũng như sự phát triển sự vận động là tuyệt đối” (V.I.Lênin toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ,
Mátxcơva, 1981, tr.379 - 380). Sự thống nhất của các mặt đối lập có tính chất tạm thời,
thoáng qua, tương đối, cũng như trạng thái đứng im của sự vật, bởi vì mọi sự vật, hiện tượng
cụ thể đều có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong để nhường chỗ cho các sự vật, hiện
tượng khác cao hơn, hoàn thiện hơn, mới hơn về chất ra đời.
Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối vì: trong mọi sự vật hiện tượng đều có mâu
thuẫn và mâu thuẫn quán xuyến từ đầu đến cuối quá trình phát triển của sự vật. Tính tuyệt đối
của sự đấu tranh của các mặt đối lập nói lên sự vận động, sự biến đổi liên tục của sự vật, hiện
tượng. Đấu tranh của các mặt đối lập là điều kiện quan trọng nhất, có tính quyết định đối với
sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng.
3. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
- Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là kết qua của quá trình đấu tranh của các mặt đối
lập.
- Sự chuyển hóa của các mặt đối lập được thực hiện ở giai đoạn chín muồi của mâu
thuẫn. Sự chuyển hóa diễn ra dưới nhiều hình thức và tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể.
Hai hình thức khái quát nhất của sự chuyển hóa là:
+ Các mặt đối lập chuyển sang mặt đối lập của chính mình.
+ Các mặt đối lập cũ bị xóa bỏ và hình thành các mặt đối lập mới trong sự vật mới.
4. Phân loại mâu thuẫn
Thế giới phong phú, đa dạng và phức tạp, nhưng nhìn chung có 4 loại mâu thuẫn cơ
ban:
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài: Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa
các mặt, các yếu tố, các thuộc tính, các quá trình cấu thành nên sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn
này giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn bên ngoài
là mâu thuẫn giữa các sự vật hiện tượng, hoặc giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính, các
12
quá trình giữa sự vật, hiện tượng với nhau. Mâu thuẫn này không giữ vai trò quyết định sự
vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Nó chỉ có tác dụng anh hưởng khi liên hệ được
với mâu thuẫn bên trong.
Mâu thuẫn cơ ban và mâu thuẫn không cơ ban: Mâu thuẫn cơ ban là mâu thuẫn phát
sinh, hình thành, tồn tại cùng sự phát sinh, hình thành, tồn tại của vật, hiện tượng và giữ vai
trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn không cơ ban là mâu
thuẫn phát sinh, hình thành, tồn tại cùng sự phát sinh, hình thành, tồn tại của vật, hiện tượng
và không giữ vai trò quyết định mà chỉ anh hưởng nhất định đến sự vận động, phát triển của
sự vật hiện tượng.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu: Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi
lên hàng đầu và giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng ở mỗi
giai đoạn phát triển. Mâu thuẫn không chủ yếu là mâu thuẫn phát sinh và không giữ vai trò
quyết định nhưng gây anh hưởng nhất định đến sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng
ở mỗi giai đoạn phát triển.
Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng (loại mâu thuẫn này chỉ có trong
lĩnh vực đời sống xã hội): Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp có lợi ích cơ
ban đối lập nhau. Mâu thuẫn này chỉ được giai quyết thông qua cách mạng xã hội. Mâu thuẫn
không đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai tầng có lợi ích cơ ban không đối lập nhau. Mâu
thuẫn này được giai quyết bằng phương pháp hòa bình thông qua giáo dục và đổi mới xã hội.
II. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật mâu thuẫn đem lại phương pháp khoa học cho việc xem xét và giai quyết
các vấn đề: phương pháp phân tích và giai quyết mâu thuẫn.
- Phai thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn. Yêu cầu này đòi hỏi chúng ta, muốn
nắm được ban chất của sự vật, hiện tượng cần phai biết phân tích các mặt đối lập của mâu
thuẫn.
- Phai biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và phai có biện pháp cụ thể để giai
quyết đối với từng loại mâu thuẫn.
- Phai nắm vững nguyên tắc giai quyết mâu thuẫn: Bất kỳ mâu thuẫn nào, bất kỳ giai
đoạn nào của mâu thuẫn, cũng chỉ được giai quyết bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối
lập, chứ không phai bằng con đường điều hòa giữa chúng.
1.9: Trình bày nội dung quy luật phủ định của phủ định, từ đó hãy rút ra ý nghĩa
phương pháp luận của quy luật này?
Quy luật phủ định của phủ định vạch rõ xu hướng đi lên của sự vật, hiện tượng trong
quá trình vận động, phát triển.
1. Phủ định biện chứng:
- “Phủ định”: là khái niệm nói lên quá trình vận động của sự vật, hiện tượng. Trong đó
sự vật, hiện tượng này thay thế cho sự vật, hiện tượng khác.
- “Phủ định biện chứng”: là phủ định mà trong đó cái mới ra đời thay thế cho cái cũ.
Cái mới làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng
duy vật cho rằng: sự diệt vong của cái cũ và sự ra đời của cái mới, sự thoái hóa và sự phát
triển có liên hệ nội tại với nhau. Không có mặt này cũng không có mặt kia.
“Phủ định trong phép biện chứng không chỉ có ý nghĩa đơn gian là nói không hoặc gia
là tuyên bố rằng một sự vật không tồn tại, hay phá hủy sự vật ấy theo một cách nào đó… Cho
nên phai thiết lập sự phủ định thứ nhất như thế nào cho sự phủ định lần thứ hai vẫn có kha
năng thực hiện được hay trở thành có kha năng thực hiện được” (Ăngghen “Chống Đuy-rinh”,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 230-321).
13
- Đặc trưng của phủ định biện chứng:
Thứ nhất: Tính khách quan
Thứ hai: Tính kế thừa
Phủ định biện chứng là kết qua của sự tự thân phát triển trên cơ sở những mâu thuẫn
vốn có của sự vật và hiện tượng nên nó không thể là một sự phủ định tuyệt đối, một sự phủ
định sạch trơn.
Phép biện chứng duy vật coi sự kế thừa là nội dung cơ ban của phủ định biện chứng.
2. Nội dung quy luật:
Tất ca mọi sự vật, hiện tượng đều luôn luôn vận động, phát triển, quá trình đó cũng là
quá trình phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập. Khuynh hướng tất yếu của sự vận động là:
cái mới thay thế cho cái cũ, cái mới làm tiền đề tạo điều kiện cho sự phát triển của sự vật, hiện
tượng. Nhưng sự phát triển có tính chu kỳ.
a. Tinh chu kỳ của sự phát triển:
Từ một điểm xuất phát (A) qua một số lần phủ định biện chứng (B(n)) sự vật dường
như lặp lại điểm xuất phát (A’) nhưng trên cơ sở cao hơn.
┤A → B(n) →A’├ →
- Sự phủ định biện chứng lần thứ nhất (B) là bước trung gian trong sự phát triển. Trình
độ mới của (A) phai qua (B) mà được thực hiện chứ không phai (B) là giai đoạn cao hơn (A).
- Sự phủ định biện chứng lần thứ hai (A’) là phủ định của phủ định.
- (A’) là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển đồng thời lại là điểm xuất phát
của một chu kỳ phát triển mới.
- Để hoàn thành một chu kỳ phát triển, sự vật hiện tượng phai trai qua ít nhất hai lần
phủ định biện chứng.
b. Hình thức và khuynh hướng của sự phát triển:
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính tất yếu tiến lên của sự vận động của sự
vật và hiện tượng. Sự phát triển đi lên đó không diễn ra theo con đường thẳng mà theo đường
“xoáy ốc”.
Lênin viết: “Một sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua nhưng dưới
một hình thức khác ở một trình độ cao hơn (phủ định của phủ định), một sự phát triển có thể
nói là theo đường xoáy ốc chứ không theo đường thẳng (Lênin toàn tập, T.26, Nxb Tiến bộ,
Maatsxcơva, 1981, tr.65).
- “Đường xoáy ốc” biểu hiện các mặt của quá trình phát triển biện chứng: tính kế thừa,
tính lặp lại, tính tiến lên của sự vận động.
- “Đường xoáy ốc” thể hiện tính phức tạp trong quá trình biến đổi, phủ định của sự
vật. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu rằng quá trình phát triển không diễn ra
theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, phai trai qua nhiều lần phủ định biện chứng,
nhiều khâu trung gian.
- Là cơ sở lý luận để hiểu về sự ra đời của cái mới: trong thực tiễn xã hội, các quá
trình diễn ra phức tạp, nhưng cái cũ nhất định sẽ mất đi, cái mới nhất định sẽ xuất hiện. Cái
mới ra đời trên cơ sở kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ. Phai biết phát hiện cái mới,
duy trì và phát triển cái mới.
- Phai có cách nhìn biện chứng khi phê phán cái cũ, kế thừa những yếu tố hợp lý của
cái cũ. Tránh nhìn đơn gian trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, đặc biệt là các hiện
14
tượng xã hội. Cần chống lại hai khuynh hướng: kế thừa không chọn lọc hoặc phủ định sạch
trơn.
1.10: Thực tiễn là gì? Nhận thức là gì? Làm rõ vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức?
- Thực tiễn là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có tính
chất lịch sử-xã hội của con người nhằm làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
+ Ban chất của hoạt động thực tiễn là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể,
trong đó chủ thể với tính năng động của mình tác động làm biến đổi khách thể.
+ Hoạt động thực tiễn đa dạng, song chúng ta có thể chia làm ba hình thức cơ ban:
Hoạt động san xuất vật chất: Đây là hình thức cơ ban của hoạt động thực tiễn có vai trò quyết
định và là cơ sở cho các hoạt động khác của thực tiễn; Hoạt động làm biến đổi các quan hệ xã
hội (đấu tranh giai cấp, đấu tranh giai phóng dân tộc, đấu tranh vì hòa bình…), đây là hình
thức cao nhất của hoạt động thực tiễn; Thực nghiệm khoa học: đây là hình thức đặc biệt của
hoạt động thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện nhân tạo để tạo ra cơ sở nhận thức,
làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
- Nhận thức là sự phan ánh thế giới khách quan vào trong bộ não người. Đó là sự phan
ánh năng động, sáng tạo dựa trên hoạt động tích cực của chủ thể trong quan hệ với khách thể.
+ Chủ thể nhận thức: theo nghĩa rộng là xã hội loài người nói chung. Hiểu một cách cụ
thể, chủ thể là nhóm người như giai cấp, dân tộc, tập thể, cá nhân… Tuy nhiên không phai bất
kỳ con người nào cũng trở thành chủ thể nhận thức, con người chỉ trở thành chủ thể khi nó
tham gia vào hoạt động xã hội nhằm nhận thức và biến đổi khách thể.
+ Khách thể nhận thức: không phai toàn bộ hiện thực khách quan, mà chỉ là bộ phận,
là lĩnh vực nào đó của nó ở trong miền hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của chủ
thể.
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
+ Thực tiễn là cơ sở và động lực của nhận thức.
Nhận thức bắt nguồn từ thực tiễn. Chính là từ trong hoạt động thực tiễn làm xuất hiện
những nhu cầu buộc con người phai nhận thức thế giới. Vì vậy mà con người nhận thức thế
giới thông qua thực tiễn.
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm cho sự vật, hiện tượng bộc lộ những
thuộc tính, những liên hệ, trên cơ sở đó con người nhận thức chúng. Như vậy, thực tiễn đã
đem lại những tài liệu cho quá trình nhận thức, giúp cho nhận thức nắm được ban chất, các
quy luật của thế giới.
Thực tiễn còn làm hoàn thiện giác quan của con người, tạo ra những phương tiện làm
tăng kha năng nhận biết của các giác quan nhờ đó nó thúc đẩy nhận thức phát triển.
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
Tri thức do nhận thức đem lại chỉ trở thành sức mạnh vật chất khi áp dụng có hiệu qua
trong hoạt động thực tiễn. Như vậy, nhận thức không phai là để nhận thức mà có mục đích
cuối cùng, đó là giúp cho con người trong hoạt động biến đổi thế giới.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức.
Nhận thức phai thông qua thực tiễn mới kiểm tra được tính chân lý của nó. Chỉ trong
thực tiễn, con người mới xác định được cái đúng đắn, cái sai lầm và giới hạn của tính đúng
đắn của mọi tri thức do nhận thức đem lại.
KHỐI KIÊN THỨC II
15
2.1: Làm rõ khái niệm, kết cấu và vai trò của phương thức sản xuất?
- Khái niệm: Phương thức san xuất là cách thức mà con người làm ra của cai vật chất
trong một giai đoạn lịch sử nhất định, theo cách đó con người có những quan hệ nhất định với
tự nhiên và với nhau trong san xuất.
- Kết cấu của phương thức san xuất: Lực lượng san xuất bao gồm ba yếu tố cấu thành:
Người lao động (lứa tuổi, sức khỏe, trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xao, năng lực), tư liệu
san xuất và khoa học kỹ thuật công nghệ. Trong đó người lao động là nhân tố quyết định của
lực lượng san xuất.
Tính chất của lực lượng san xuất là tính chất của tư liệu san xuất và của lao động, là
kết tinh sức lao động xã hội trong từng đơn vị san phẩm do quá trình san xuất tạo ra. Nếu
công cụ thủ công thì lực lượng san xuất có tính chất cá nhân, nếu công cụ là máy móc thì lực
lượng san xuất mang tính chất xã hội hóa.
Trình độ của lực lượng san xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động, của kỹ
thuật, trình độ kinh nghiệm, kỹ năng lao động của người lao động, qui mô san xuất, trình độ
phân công lao động xã hội…
- Vai trò của phương thức san xuất: Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng, lịch sử
xã hội loài người trước hết là lịch sử phát triển của san xuất, lịch sử vận động của các phương
thức san xuất lần lượt thay thế nhau, là lịch sử của quần chúng nhân dân lao động trực tiếp san
xuất ra của cai vật chất cho xã hội. Do đó, muốn hiểu lịch sử phát triển của xã hội loài người,
trước hết phai hiểu lịch sử phát triển của san xuất, hiểu quá trình san xuất của con người qua
các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Xã hội là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên, vận động và phát triển theo quy luật
đặc thù của nó. Tuy nhiên, giữa xã hội và tự nhiên thường xuyên diễn ra sự trao đổi vật chất.
Sự trao đổi đó được thực hiện trong quá trình lao động san xuất của con người. Như vậy, nếu
tách lịch sử xã hội loài người với lịch sử phát triển của san xuất vật chất thì sẽ không thể nào
hiểu được loài người phai trai qua những hình thái kinh tế-xã hội từ thấp lên cao.
San xuất vật chất là lực lượng chủ yếu và là động lực cơ ban thúc đẩy lịch sử phát
triển, xã hội tiến lên. Đó là điều kiện quyết định của đời sống con người, là yêu cầu tất yếu
khách quan đối với sự sinh tồn của xã hội. Xã hội không thể thỏa mãn nhu cầu của mình bằng
cái đã có sẵn trong giới tự nhiên, để duy trì đời sống của mình, con người phai tiến hành san
xuất của cai vật chất. Vì thế, san xuất của cai vật chất là một điều kiện cơ ban của mọi xã hội,
là một hành động lịch sử mà loài người phai duy trì từ xưa đến nay.
Xã hội là một hệ thống và trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, tính chất và kết cấu
xã hội không phai do nguyện vọng và ý chí của cá nhân, tập đoàn, cũng không do hình thức
nhà nước pháp quyền quy định mà do phương thức san xuất quyết định. Phương thức san xuất
thống trị trong mỗi xã hội quyết định tính chất của chế độ xã hội; các giai cấp, kết cấu giai cấp
và tính chất của các mối quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các quan điểm về chính trị pháp
quyền, đạo đức, triết học…
Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có phương thức san xuất đặc thù của nó. Và sự thay thế
của các phương thức san xuất khác nhau chính là cơ sở của sự thay thế của các hình thái kinh
tế-xã hội nối tiếp nhau. Điều này chứng tỏ, phương thức san xuất giữ vai trò quyết định trong
sự chuyển hóa của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Mỗi khi phương
thức san xuất mới ra đời, giai cấp mới lên cầm quyền, kết cấu kinh tế xã hội thay đổi thì
những quan hệ xã hội về mặt chính trị, pháp quyền, tư tưởng, đạo đức,.. cũng biến đổi theo.
Với ý nghĩa nói trên mà C.Mác đã nhấn mạnh: “Do có được những lực lượng san xuất
mới, loài người thay đổi phương thức san xuất của mình, và do thay đổi phương thức san
16
xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất ca những quan hệ xã hội của mình. Cái
cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã
hội có nhà tư ban công nghiệp” (C.Mác, Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, T.1,
tr.380).
Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của san xuất, lịch sử của các phương thức
san xuất vận động phát triển và thay thế nhau từ thấp lên cao.
2.2: Trình bày nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
của lực lượng sản xuất, từ đó hãy rút ra ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu quy luật
này?
Bất cứ phương thức san xuất ở một giai đoạn phát triển lịch sử nào cũng đều bao gồm
hai mặt: Lực lượng san xuất và quan hệ san xuất. Lực lượng san xuất - là biểu hiện mối quan
hệ giữa người và tự nhiên trong quá trình san xuất; quan hệ san xuất - là biểu hiện mối quan
hệ giữa người với người trong quá trình san xuất. C.Mác đã chỉ rõ: “Trong san xuất, con
người không chỉ có quan hệ với tự nhiên mà còn phai có những mối liên hệ và quan hệ nhất
định với nhau, và chỉ trong phạm vi những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó thì mới có tác
động vào tự nhiên, vào san xuất được”.
Lực lượng san xuất và quan hệ san xuất là hai mặt của phương thức san xuất, chúng
phan ánh hai mối quan hệ khác nhau, đặc trưng phát triển không giống nhau, nhưng chúng có
mối liên hệ hữu cơ không thể tách rời và tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật xã
hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ san xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng san xuất. Quy luật này vạch rõ sự quy định, phụ thuộc lẫn
nhau giữa lực lượng san xuất và quan hệ san xuất, trong đó lực lượng san xuất giữ vai trò
quyết định.
- Kết cấu của lực lượng sản xuất:
Lực lượng san xuất bao gồm ba yếu tố cấu thành: Người lao động (lứa tuổi, sức khỏe,
trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xao, năng lực), tư liệu san xuất và khoa học kỹ thuật công
nghệ. Trong đó người lao động là nhân tố quyết định của lực lượng san xuất.
- Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:
Tính chất của lực lượng san xuất là tính chất của tư liệu san xuất và của lao động, là
kết tinh sức lao động xã hội trong từng đơn vị san phẩm do quá trình san xuất tạo ra. Nếu
công cụ thủ công thì lực lượng san xuất có tính chất cá nhân, nếu công cụ là máy móc thì lực
lượng san xuất mang tính chất xã hội hóa.
Trình độ của lực lượng san xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động, của kỹ
thuật, trình độ kinh nghiệm, kỹ năng lao động của người lao động, qui mô san xuất, trình độ
phân công lao động xã hội…
- Quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi và phát triển dưới ảnh hưởng quyết định
của lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng sự thay đổi và phát triển của bất cứ một
phát triển san xuất nào bao giờ cũng bắt đầu bằng sự thay đổi và phát triển của các lực lượng
san xuất.
Trong quá trình san xuất để đạt được năng suất lao động cao hơn, con người luôn luôn
tìm cách cai tiến công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động mới tinh xao hơn.
Cùng với sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động, kinh nghiệm san xuất, kỹ năng lao
động, kiến thức khoa học,.. của người lao động cũng không ngừng tăng lên.
17
Mặt khác, trong cấu trúc của phương thức san xuất thì lực lượng san xuất là nội dung
còn quan hệ san xuất là hình thức xã hội của nó, trong mối quan hệ đó nội dung là quyết định.
Nội dung biến đổi kéo theo sự biến đổi của hình thức.
Do đó lực lượng san xuất là yếu tố động nhất, không ổn định nhất, yếu tố cách mạng
nhất của quá trình san xuất vật chất. Sự biến đổi của lực lượng san xuất, trước hết là sự biến
đổi của công cụ san xuất đã dẫn đến sự biến đổi trong các quan hệ san xuất giữa người và
người. Điều đó cho thấy công cụ san xuất không những là thước đo trình độ phát triển của các
lực lượng san xuất, mà còn là dấu hiệu báo trước quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế giữa người
với người cũng biến đổi theo. C.Mác viết: “Phương thức san xuất, những quan hệ trong đó
các lực lượng san xuất phát triển, đều không phai là những quy luật vĩnh viễn, mà chúng thích
ứng với sự phát triển nhất định của con người và của những lực lượng san xuất của con người,
và một sự thay đổi trong lực lượng san xuất của con người tất phai dẫn đến một sự thay đổi
trong những quan hệ san xuất của con người” (C.Mác, Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1980, T.1, tr.396).
Điều đó chứng tỏ sự phát triển của lực lượng san xuất thì quan hệ san xuất cũng phát
triển theo cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng san xuất. Sự phù hợp đó là động
lực nội tại thúc đẩy lực lượng san xuất tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, lực lượng san xuất có xu
hướng phát triển nhanh hơn, còn quan hệ san xuất lại tương đối ổn định. Khi lực lượng san
xuất phát triển lên một trình độ mới, quan hệ san xuất không còn phù hợp với nó nữa, trở
thành chướng ngại đối với sự phát triển của lực lượng san xuất, làm nay sinh mâu thuẫn gay
gắt giữa hai mặt của phương thức san xuất. Một cách tất yếu là quan hệ san xuất cũ bị xóa bỏ,
quan hệ san xuất mới hình thành phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng san xuất đã
phát triển, mở đường cho lực lượng san xuất tiếp tục phát triển.
Quan hệ san xuất cũ bị xóa bỏ, quan hệ san xuất mới hình thành, cũng đồng thời sự
diệt vong của phương thức san xuất lỗi thời và sự ra đời của phương thức san xuất mới. Trong
xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng san xuất mới và quan hệ san xuất lỗi
thời là cơ sở khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời là tiền đề của các cuộc cách
mạng xã hội.
Sự tác động của quy luật nói trên trong lịch sử đã làm cho xã hội chuyển từ hình thái
kinh tế-xã hội thấp lên hình thái kinh tế-xã hội cao hơn một cách biện chứng.
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
Trong cấu trúc của phương thức san xuất thì quan hệ san xuất là hình thức xã hội mà
lực lượng san xuất luôn luôn phai dựa vào để phát triển. Tất nhiên quan hệ san xuất thường
xuyên tác động trở lại với lực lượng san xuất: có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của
lực lượng san xuất. Theo tính tất yếu khách quan, quan hệ san xuất lỗi thời sẽ bị thay thế bằng
một quan hệ san xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng san xuất.
Quan hệ san xuất có thể tác động trở lại đối với lực lượng san xuất, bởi vì quan hệ san
xuất quy định tính mục đích của quá trình san xuất vật chất, quy định hệ thống tổ chức quan
lý san xuất và quan lý xã hội, quy định phương thức phân phối của cai mà người lao động trực
tiếp được hưởng. Tất ca những yếu tố nói trên lại anh hưởng và quy định thái độ của quần
chúng lao động - lực lượng san xuất chủ yếu của xã hội.
Quan hệ san xuất tác động trở lại lực lượng san xuất theo chiều hướng tích cực, khi
quan hệ san xuất là một hệ thống hoàn chỉnh gồm ca ba mối quan hệ: sở hữu tư liệu san xuất,
tổ chức và quan lý san xuất, phân phối san phẩm, đều phù hợp với tính chất (trình độ) của lực
lượng san xuất.
18
Sự tác động của quy luật quan hệ san xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng san xuất vào lịch sử đã đưa xã hội loài người phát triển qua các phương thức san xuất:
công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư ban chủ nghĩa và cộng san chủ nghĩa
trong tương lai.
- Ý nghĩa thực tiễn: Lịch sử xã hội loài người nói chung phát triển tuần tự từ thấp lên
cao, nhưng thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng nhiều nước đã bỏ qua một số phương thức
san xuất để tiến lên phương thức san xuất cao hơn.
Mười năm sau ngày đất nước thống nhất, do chủ quan duy ý chí, làm trái quy luật này
mà Việt Nam đã lâm vào tình trạng khủng hoang toàn diện, khủng hoang nghiêm trọng và
khủng hoang sâu sắc. Từ khi bước vào công cuộc đổi mới đất nước (1986) đến nay, Đang
Cộng san Việt Nam đã và đang lãnh đạo dân tộc Việt Nam từng bước thực hiện nghiêm túc
quy luật này.
Ở Việt Nam, để xây dựng phương thức san xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ trương
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự quan lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy việc bỏ qua giai đoạn phát triển tư ban chủ
nghĩa về thực chất là bỏ qua chế độ chính trị tư ban chủ nghĩa, nhưng chúng ta lại kế thừa
những giá trị của chủ nghĩa tư ban với tư cách là lực lượng san xuất, để hướng nền san xuất đi
lên san xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quan lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là tuân thủ quy luật về
sự phù hợp của quan hệ san xuất với trình độ của lực lượng san xuất. Nhờ đó Việt Nam đã
thoát khỏi khủng hoang và trở thành nước đang phát triển của thế giới.
2.3: Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
trong sự phát triển của xã hội?
- Khái niệm cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ san xuất hợp thành
cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế-xã hội nhất định.
Trong một chế độ xã hội chỉ có một cơ sở hạ tầng tương ứng.
Trong một cơ sở hạ tầng có nhiều quan hệ san xuất hợp thành, nhưng chỉ có một quan
hệ san xuất đặc trưng (thống trị).
Mối quan hệ biện chứng giữa các quan hệ san xuất hợp thành tạo nên cơ cấu kinh tế
của mỗi chế độ xã hội.
- Khái niệm kiến trúc thượng tầng: Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm,
tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại giữa chúng hình thành
trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Kết cấu của kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan niệm, quan điểm về kính tế,
chính trị, văn hóa, xã hội với những thiết chế tưng ứng là đang phái, nhà nước, các tổ chức
chính trị-xã hội, các giáo hội, v.v cùng phan ánh cơ sở hạ tầng của một chế độ xã hội nhất
định.
- Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
+ Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó. Do
đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có mối quan
hệ biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định.
+ Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện:
Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị
về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần. Quan hệ san xuất nào thống
19
trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết
định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.
Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng: nhà nước,
pháp luật, đang phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều không thể giai thích từ chính nó, bởi vì,
chúng đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quyết
định.
Những biến đổi căn ban trong cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn
ban trong kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế-xã hội và
rõ rệt hơn khi chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác.
Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng mất theo, khi
cơ sở hạ tầng mới ra đời thì một kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó cũng xuất hiện.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự biến đổi đó diễn ra thông qua cuộc đấu tranh giai cấp
gay go phức tạp. Khi cuộc cách mạng xã hội xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ thay thế bằng cơ sở hạ
tầng mới, sự thống trị về chính trị của giai cấp cách mạng được thiếp lập, bộ máy nhà nước
mới hình thành, sự thống trị về tư tưởng của giai cấp cách mạng cầm quyền được xác lập.
Sự biến mất của một kiến trúc thượng tầng không diễn ra một cách nhanh chóng, có
những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn tại dai dẳng sau khi cơ sở kinh tế của nó đã
bị tiêu diệt. Có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ được giai cấp cầm quyền mới sử
dụng để xây dựng kiến trúc thượng tầng mới.
Do đó, tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức
tạp trong quá trình chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác.
+ Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở
chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bao vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ
tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bao đam sự thống trị chính
trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế.
Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng,
có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ tư tưởng mà còn dựa
vào chức năng kiểm soát xã hội để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị.
Ăngghen viết: “bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng kinh tế” (C.Mác,
Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, T.II, tr.604).
Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật cũng tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng thường thường phai thông qua nhà nước, pháp
luật.
Kiến trúc thượng tầng là một hệ thống, nó có quá trình biến đổi phát triển do sự tác
động của các yếu tố nội tại, do đó nó có tính độc lập tương đối. Quá trình đó phát triển phù
hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác động của nó đối với cơ sở hạ tầng càng có hiệu qua.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, chỉ có kiến trúc thượng tầng tiến bộ nay sinh
trong quá trình của cơ sở kinh tế mới - mới phan ánh nhu cầu của sự phát triển kinh tế, mới có
thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng là san phẩm của cơ sở
kinh tế đã lỗi thời thì gây tác dụng kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội. Tất nhiên sự kìm
hãm chỉ là tạm thời, sớm muộn nó sẽ bị cách mạng khắc phục.
+ Đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta:
20
Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế, các kiểu
tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ san xuất gắn liền với các hình thức sở hữu khác nhau, thậm
chí đối lập nhau, cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.
Tương ứng với sự đồng nhất về ban chất kinh tế là sự tác động của nhiều hệ thống quy
luật kinh tế. Hệ thống quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa; hệ thống quy luật kinh tế của nền san
xuất hàng hóa nhỏ và hệ thống quy luật kinh tế tư ban chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ
nghĩa đối với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là Nhà nước xã hội chủ nghĩa tạo ra một
hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, đồng thời Nhà
nước sử dụng tổng thể các biện pháp - trong đó biện pháp kinh tế là quan trọng nhất - nhằm
từng bước xã hội hóa nền san xuất. Kinh tế Nhà nước không ngừng được củng cố và phát
triển ca về chất và về lượng ở những vị trí nòng cốt của nền kinh tế.
- Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Đang ta khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở nền
tang của tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng.
Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang ban chất giai cấp công nhân, do
đội tiên phong của nó là Đang Cộng san Việt Nam lãnh đạo. Thực hiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, quyền lực thuộc về nhân dân.
Các tổ chức, thiết chế, các lực lượng xã hội tham gia vào hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa là vì một mục tiêu chung, lợi ích chung, hướng tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa, đam bao
quyền làm chủ của nhân dân trong quan lý kinh tế-xã hội và mọi lĩnh vực hoạt động khác.
Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị-xã hội không tồn tại như một mục
đích tự thân mà vì phục vụ con người, vì lợi ích và quyền lực của nhân dân lao động.
2.4: Tồn tại xã hội là gì? Ý thức xã hội là gì? Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội?
1. Tồn tại xã hội:
- Tồn tại xã hội là khái niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội, dùng để chỉ
toàn bộ đời sống vật chất cùng toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
- Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ ban là: hoàn canh địa lý, điều kiện dân số và
phương thức san xuất, trong đó, phương thức san xuất là yếu tố giữ vai trò quyết định tính
chất, kết cấu của xã hội, quyết định sự vận động và phát triển của xã hội.
+ Hoàn canh địa lý bao gồm các yếu tố như tài nguyên, khoáng san, khí hậu, đất đai,..
là những yếu tố anh hưởng thường xuyên, tất yếu tới sự tồn tại và phát triển của xã hội, nhưng
không giữ vai trò quyết định phát triển của xã hội. Ở những trình độ khác nhau của xã hội,
mức độ anh hưởng của tự nhiên đối với xã hội có khác nhau.
Điều kiện tự nhiên anh hưởng đến việc tổ chức phân công lao động và bố trí lực lượng
san xuất. Sự phong phú đa dạng của tự nhiên là cơ sở tự nhiên của việc phân công lao động
trong xã hội. Tự nhiên có thể tạo điều kiện thuận lợi và cũng có thể gây khó khăn cho san
xuất.
Sự tác động của con người đến tự nhiên sẽ làm cho tự nhiên biến đổi theo hai hướng:
làm cho tự nhiên phong phú thêm, tạo điều kiện thuận lợi cho san xuất và đời sống con người;
hoặc làm cho tự nhiên nghèo nàn đi, nó sẽ gây trở ngại trở lại đối với con người. C.Mác đã
chỉ ra “nếu văn minh được phát triển một cách tự phát không có hướng dẫn một cách khoa
học thì để lại sau đó một bãi hoang mạc”.
+ Điều kiện dân số bao gồm các yếu tố số dân, mật độ dân số, phân bố dân cư, tỉ lệ
tăng dân số, là điều kiện thường xuyên tất yếu của sự phát triển xã hội, nhưng không giữ vai
trò quyết định sự phát triển xã hội.
21
Điều kiện dân số anh hưởng đến nguồn lao động, tổ chức phân công lao động xã hội
cũng như các chính sách phát triển văn hóa tinh thần khác. Việc phân bố dân cư không thể
theo ý muốn chủ quan mà phai phụ thuộc trình độ phát triển của san xuất và chế độ xã hội.
Vai trò của dân số ngày nay là vấn đề bùng nổ dân số. Nếu san xuất có kế hoạch
nhưng tăng trưởng dân số không có kế hoạch tự nó sẽ phá vỡ kế hoạch san xuất. Nước ta hiện
nay dân số tăng quá nhanh, muốn có cuộc sống văn minh, hạnh phúc thì nhiệm vụ kế hoạch
hóa dân số và giai quyết việc làm cho người lao động phai là nhiệm vụ hàng đầu của chính
sách xã hội.
+ Phương thức san xuất là cách thức mà con người làm ra của cai vật chất. Đó là mối
quan hệ biện chứng giữa quan hệ san xuất và lực lượng san xuất. Nó là nhân tố quyết định
tính chất, kết cấu của xã hội và quyết định sự vận động, phát triển của xã hội qua các giai
đoạn lịch sử. Khi phương thức san xuất mới ra đời thay thế phương thức san xuất cũ lỗi thời,
thì mọi mặt của đời sống xã hội cũng có sự thay đổi căn ban theo. Lịch sử xã hội loài người
trước hết là lịch sử của các phương thức san xuất kế tiếp nhau trong quá trình phát triển.
Nghiên cứu những quy luật của lịch sử xã hội là nghiên cứu trong phương thức san xuất do xã
hội thực hiện trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, trong chế độ kinh tế-xã hội, chứ không
phai tìm trong óc người, trong tư tưởng.
2. Ý thức xã hội
- Ý thức xã hội là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Nó bao
gồm tình cam, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận,.. là sự phan ánh của tồn
tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau.
- Ý thức xã hội gồm nhiều cấp độ khác nhau: Ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý
luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
+ Ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý luận: sự phân chia này dựa vào sự khác
nhau giữa nhân sinh quan trong thực tiễn cuộc sống chưa được hệ thống hóa với tập hợp
những tư tưởng đã nghiên cứu một cách sáng tạo được hệ thống hóa thành lý luận thành học
thuyết.
Ý thức sinh hoạt đời thường không có nghĩa là tầm thường tự phát, hoang dã hay ít có
giá trị, mà nó lại bao hàm nội dung rộng lớn của cuộc sống. Tuy nó chưa có tính hệ thống,
tính hợp lý và tính khoa học nhưng nó lại mang tính đầy đủ toàn vẹn của cam giác sống, nó
gắn với hiện thực trực tiếp của đời sống, phan ánh được những chi tiết gần gũi của đời sống.
Chính kinh nghiệm của ý thức đời thường là cái kho để các khoa học tìm kiếm nội dung của
mình.
Ý thức lý luận là toàn bộ tư tưởng, quan điểm của xã hội được hệ thống hóa thành hệ
thống một cách hợp lý, thành chỉnh thể trong những khoa học cụ thể, nghệ thuật, triết học…
Đặc điểm của ý thức lý luận là tính hệ thống, tính hợp lý, tính có hiểu biết về những mối liên
hệ ban chất tất yếu của các hiện tượng xã hội, tính phan ánh trừu tượng khái quát bằng các
phạm trù khái niệm.
- Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
+ Tâm lý xã hội là một bộ phận ở cấp độ ý thức sinh hoạt đời thường, trong đó xuất
hiện những quan niệm và sự đánh giá đa dạng các hiện tượng xã hội, những lý tưởng, thị hiếu
thẩm mỹ, những phong tục truyền thống, những thiên hướng và những hứng thú, hình anh,
ước mơ…
Đặc điểm của tâm lý xã hội phan ánh trực tiếp điều kiện sống hàng ngày, phan ánh bề
mặt của tồn tại xã hội, không có kha năng vạch ra ban chất và những nguyên nhân sâu xa các
22
mối quan hệ vật chất xã hội. Nó mang tính chất kinh nghiệm chưa được thể hiện về mặt lý
luận, những yếu tố trí tuệ thường trộn lẫn với những yếu tố tình cam.
+ Hệ tư tưởng là bộ phận ở cấp độ ý thức lý luận, trong đó bao gồm sự đánh giá một
cách có hệ thống về hiện thực xã hội, trên lập trường, quan điểm của một giai cấp, một Đang
nhất định, nêu ra nhiệm vụ và mục đích chính trị-xã hội: xây dựng hệ thống những quan điểm
về quyền lực của giai cấp, của đang phái đó.
Hệ tư tưởng phan ánh một cách sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội, nó là sự nhận thức lý luận về tồn tại xã hội dựa trên cơ sở khái quát những kinh nghiệm
xã hội đã được tích lũy của những giai cấp, tập đoàn xã hội nhất định.
Hệ tư tưởng có thể là tư tưởng khoa học, cũng có thể phan khoa học tùy vào việc nó
có phan ánh đúng đắn các mối quan hệ vật chất của xã hội hay không.
+ Giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội có mối quan hệ tác động lẫn nhau, do có
chung một nguồn gốc là tồn tại xã hội và cùng phan ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiếp thu hệ tư tưởng xã hội. Ngược lại, hệ tư tưởng xã hội lại củng cố
và phát triển tâm lý xã hội. Nhưng hệ tư tưởng không nay sinh trực tiếp từ tâm lý xã hội và
cũng không là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội.
- Ý thức xã hội là sự phan ánh điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, vì thế, trong xã
hội có giai cấp, ý thức xã hội luôn mang tính giai cấp. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, tư
tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và
chính trị của thời đại đó, các giai cấp khác thường chịu anh hưởng tư tưởng của giai cấp thống
trị. Ý thức xã hội, ý thức giai cấp, ý thức cá nhân không phai bao giờ cũng là những khái niệm
đồng nhất.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
Tồn tại xã hội là toàn bộ đời sống vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của
xã hội. Kết cấu của tồn tại xã hội gồm ba yếu tố: Điều kiện tự nhiên, điều kiện dân số và
phương thức san xuất do phương thức san xuất quyết định.
Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, là sự phan ánh tồn tại xã hội
trong những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử.
Giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội có mối quan hệ biện chứng trong đó tồn tại xã hội
giữ vai trò quyết định và ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn tại xã hội.
Tinh quyết định của tồn tại xã hội thể hiện ở: Tồn tại xã hội có trước, ý thức xã hội có
sau; tồn tại xã hội thế nào thì ý thức xã hội thế đó; tồn tại xã hội biến đổi, đặc biệt là sự biến
đổi của phương thức san xuất dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Vì vậy, không thể tìm
nguồn gốc của tư tưởng lý luận trong óc người mà phai tìm nó trong hiện thực vật chất.
Không thể giai thích một cách đầy đủ sự biến đổi của một thời đại nào nếu chỉ căn cứ vào ý
thức của thời đại đó. Tuy vậy, không phai bất cứ ý thức xã hội nào cũng trực tiếp phan ánh
những quan hệ kinh tế của thời đại nó, mà chỉ xét đến cùng thì những quan hệ kinh tế mới
được phan ánh bằng cách này hay cách khác trong những tư tưởng đó.
Tinh độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện những mặt sau:
- Ý thức xã hội thường có tính lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Thông thường đó là
thói quen, tập quán, truyền thống, niềm tin tôn giáo,.. Tính lạc hậu của ý thức xã hội bao giờ
cũng can trở đối sự phát triển của tồn tại xã hội.
- Những tư tưởng tiến bộ, khoa học thường vượt trước tồn tại xã hội, nó có vai trò định
hướng, hướng dẫn cho hoạt động thực tiễn.
23
- Sự phát triển của ý thức xã hội luôn có tính kế thừa. Vì thế không thể chỉ dựa vào tồn
tại xã hội, vào quan hệ kinh tế của một thời đại để giai thích nội dung ý thức của thời đại đó
mà còn phai dựa vào quan hệ kế thừa của ý thức xã hội nữa.
- Trong sự phát triển, các hình thái ý thức xã hội luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau.
Chính vậy, có những tính chất, những mặt của ý thức xã hội hoặc của mỗi hình thái ý thức xã
hội không thể giai thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hoặc bằng các quan hệ vật
chất.
- Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội diễn ra theo hai hướng tích
cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào ý thức xã hội là tiến bộ, khoa học hay lạc hậu, phan tiến bộ,
phan khoa học.
Tuy vậy, vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại luôn phụ thuộc vào tính chất của các
quan hệ kinh tế mà trên đó nay sinh những tồn tại nhất định, và vai trò lịch sử của giai cấp
giương cao ngọn cờ tư tưởng đó, phụ thuộc vào mức độ phan ánh đúng đắn của tư tưởng đối
với nhu cầu phát triển xã hội, phụ thuộc vào mức độ thấm nhuần, mở rộng tư tưởng trong
quần chúng nhân dân.
Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này:
Nếu chỉ thấy tính quyết định của tồn tại xã hội một cách may móc sẽ rơi vào duy vật
tầm thường. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội sẽ rơi vào chủ nghĩa duy
tâm. Trong hoạt động thực tiễn và nhận thức phai luôn đấu tranh khắc phục ca hai khuynh
hướng đó. Trong cai tạo xã hội cũ, xã hội xã hội mới phai tiến hành ca trên hai lĩnh vực tồn tại
xã hội và ý thức xã hội.
2.5: Khái niệm và kết cấu của hình thái kinh tế-xã hội? Tại sao nói sự phát triển
của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên?
- Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội:
Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã
hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những quan hệ sản xuất của nó (cơ sở
hạ tầng) thich ứng với lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và với một kiến trúc
thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó.
- Kết cấu của hình thái kinh tế-xã hội:
Hình thái kinh tế-xã hội là một hệ thống, một chỉnh thể toàn vẹn có cơ cấu phức tạp,
trong đó có những mặt cơ ban nhất là lực lượng san xuất, quan hệ san xuất và kiến trúc
thượng tầng.
Lực lượng san xuất – là quan hệ giữa người với tự nhiên trong quá trình san xuất - là
nền tang vật chất-kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế-xã hội. Xét đến cùng, lực lượng san xuất
quyết định sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế-xã hội. Ban thân các lực
lượng san xuất không phai là san phẩm riêng của một thời đại nào mà là san phẩm của ca một
quá trình phát triển liên tục từ thấp lên cao qua các thời đại, là sự tiếp biến không ngừng của
lịch sử.
Quan hệ san xuất - quan hệ giữa người và người trong quá trình san xuất - là những
quan hệ cơ ban, ban đầu và quyết định tất ca các quan hệ xã hội khác, không có những mối
quan hệ đó thì không thành xã hội và không có quy luật xã hội. Quan hệ san xuất là tiêu chuẩn
khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với xã hội cụ thể khác.
Những quan hệ san xuất là bộ xương của cơ thể xã hội hợp thành cơ sở hạ tầng và trên
đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng tương ứng mà chức năng xã hội của nó là bao vệ, duy
trì và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
24
Ngoài các quan hệ cơ ban: lực lượng san xuất, quan hệ san xuất, kiến trúc thượng
tầng, trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội còn có những quan hệ dân tộc, gia đình,..
- Sự phát triển của các hình thái kinh tế–xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
C.Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên” (C.Mác, Tư ban, quyển 1, T.1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1973, tr.20).
Hình thái kinh tế-xã hội được xem như là một cơ thể, một hệ thống hoàn chỉnh luôn
luôn vận động và phát triển. Đó là hệ thống các quan hệ xã hội, bao gồm những quan hệ vật
chất và quan hệ tư tưởng. Quan hệ tư tưởng được xây dựng trên những quan hệ vật chất-quan
hệ hình thành ngoài ý chí và ý thức của con người, như một kết qua của sự hoạt động của con
người để đam bao sự sinh tồn của mình.
Học thuyết hình thái kinh tế–xã hội cho phép đi sâu vào ban chất của quá trình lịch sử,
hiểu được logic khách quan của quá trình đó, nhìn thấy sự phát triển của xã hội loài người như
là một quá trình lịch sử tự nhiên, một quá trình diễn ra nhiều mặt và chứa đầy mâu thuẫn, quá
trình vận động hợp với quy luật khách quan. Đó là những quy luật nội tại, tự thân trong cấu
trúc của hình thái kinh tế-xã hội, quy luật về sự phù hợp của quan hệ san xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng san xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã và đang trai qua năm hình thái kinh tế-xã
hội khác nhau: cộng san nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư ban chủ nghĩa và cộng
san chủ nghĩa. Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng, mỗi hình thái kinh tế-xã hội đều có những
quy luật riêng của nó khi nó phát sinh, phát triển và chuyển sang một hính thái khác cao hơn.
Đồng thời cũng khẳng định đến sự tồn tại của những quy luật phan ánh những đặc điểm
chung của mọi hình thái kinh tế-xã hội, những quy luật phổ biến phát huy tác dụng trong tất
ca các giai đoạn phát triển của lịch sử, trong tất ca các hình thái kinh tế-xã hội.
Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển của các hình thái kinh
tế-xã hội, quy luật về sự phù hợp của quan hệ san xuất với tính chất và trình độ của lực lượng
san xuất có vai trò quyết định nhất. Con người làm ra lực lượng san xuất bằng năng lực thực
tiễn của mình. Tuy nhiên, năng lực thực tiễn lại bị quy định bởi nhiều điều kiện khách quan.
Mỗi thế hệ làm ra lực lượng san xuất của mình phai dựa trên những lực lượng san xuất đã đạt
được của thế hệ trước ở hình thái kinh tế-xã hội trước đó. Vì vậy, ban thân các lực lượng san
xuất không phai là san phẩm riêng của thời đại nào, mà là san phẩm của ca một quá trình phát
triển liên tục từ thấp lên cao qua các hình thái kinh tế-xã hội. Nhưng, chính tính chất và trình
độ của lực lượng san xuất đã quy định một cách khách quan tính chất và trình độ của quan hệ
san xuất, do đó, xét đến cùng lực lượng san xuất quyết định quá trình vận động phát triển của
hình thái kinh tế-xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên.
Sự vận động phát triển thay thế nhau của các hình thái kinh tế-xã hội từ thấp lên cao
trước hết được giai thích bằng sự tác động của quy luật về sự phù hợp của quan hệ san xuất
với tính chất và trình độ của lực lượng san xuất. Lực lượng san xuất, một mặt của phương
thức san xuất, là yếu tố đam bao tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của lịch sử. Quan hệ
san xuất là mặt thứ hai của phương thức san xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển
của lịch sử.
Lịch sử loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế-xã
hội, nhưng lịch sử cụ thể vô cùng phong phú, không thể xem quá trình lịch sử là một công
thức hoặc như một đường thẳng. Thực tế lịch sử diễn ra những hình thức quá độ khác nhau
của các dân tộc, một số dân tộc phai trai qua tuần tự các hình thái kinh tế-xã hội, một số dân
tộc lại bỏ qua một số hình thái để đạt được những bước phát triển nhanh hơn.
25