Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

MƯỜI NĂM Ở HUẾ VỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.53 KB, 5 trang )

MƯỜI NĂM Ở HUẾ VỚI SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ThS Hoàng Ngọc Vĩnh
Đại học Khoa học Huế
Năm 1858 Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Năm 1885 thất thủ kinh
đô Huế. Nhưng, đến cuối thế kỷ XIX, phong trào vũ trang kháng chiến
chống Pháp ở Việt Nam dù nổ ra rầm rộ, dần cao và lan rộng cả nước, rồi
trước sau đều lần lượt thất bại vì chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng,
còn mang nặng tư tưởng tôn quân, chưa thật tin vào lực lượng cách mạng
quần chúng nhân dân.
Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta
chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản, nhưng cũng chỉ rộ lên một thời
gian ngắn rồi lần lượt bị dập tắt, do chưa lôi cuốn được quần chúng nhân dân
và chủ chủ yếu vẫn do các sỹ phu phong kiến cựu học truyền bá dẫn dắt.
Tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời, trước hết là giải quyết sự khủng hoảng
về đường lối cứu nước của Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời
đáp ứng yêu cầu khách quan bức thiết của cách mạng Việt Nam từ đầu thế
kỷ XX đến nay.
Cội nguồn của tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng văn hóa truyền
thống của Việt Nam, tư tưởng văn hóa phương Đông, tư tưởng văn hóa
phương Tây, chủ nghĩa Mác-Lênin và những phẩm chất cá nhân của Người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ giữa trí tuệ lớn của Hồ Chí Minh
với trí tuệ dân tộc và trí tuệ thời đại. Hồ Chí Minh với sự khổ công rèn luyện
có tri thức uyên thâm về nhiều lĩnh vực, với bộ óc phân tích tinh tế, sáng
suốt, với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, với tấm lòng yêu thương con
người vô hạn, yêu nước nồng nàn, nhiệt thành cách mạng, Người đã hóa giải
được tinh hoa văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, trí tuệ thời đại,
lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm
cho dân tộc Việt Nam đang ngày càng sánh vai các cường quốc thế giới.
Ở Việt Nam, từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II (1951) của Đảng


Cộng sản Việt Nam cho đến nay đã liên tục khẳng định vai trò, ý nghĩa, tác
dụng của đạo đức, tác phong cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách
mạng Việt Nam. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) Đảng
Cộng sản Việt Nam đã trân trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình:
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động”
1
. Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội Đại biểu toàn quốc
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991,
tr 127.
1
lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã định hướng cho việc định nghĩa
khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
2
. Từ đó, trên cơ sở những tư liệu đã thu
thập được về Người, từ những kết quả nghiên cứu được trong những năm
qua của nhiều ngành khoa học, đặc biệt là ngành lý luận, khái niệm tư tưởng
Hồ Chí Minh bước đầu được định nghĩa như sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là
một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh
tinh hoa văn hóa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người”
3
.
Cội nguồn văn hóa truyền thống dân tộc, văn hóa nhân loại và cội
nguồn chủ quan thuộc về các phẩm chất đặc biệt của Hồ Chí Minh có thời

điểm xuất phát rất quan trọng: mười năm Hồ Chí Minh sống và học tập tại
Huế (1895-1901 và 1906-1909).
Sáu năm (1895-1901), tuổi niên thiếu của Hồ Chí Minh đã gắn bó mật
thiết với Huế. Ngày ấy gia đình Người đã sống tại ngôi nhà 112 Mai Thúc
Loan, mà vốn trước đó là một trại lính của Nha Hộ thành triều Nguyễn bị bỏ
phế sau sự kiện thất thủ Kinh đô 1885. Nơi đây, chính giai đoạn này, Người
đã chứng kiến những tháng ngày tần tảo của mẹ, lo lắng của cha, hạnh phúc
và bất hạnh của gia đình, quê hương. Người thấm thía nỗi đau mất mẹ, mất
em và càng thấm thía nghĩa tình sâu nặng mà bà con lao động nghèo xứ Huế
đã dành cho gia đình Người.
Lần xa quê đầu tiên này, sống tại Huế, Người đã thường hay lui tới và
tham dự các buổi cúng tế tại Miếu Âm hồn (ngã tư Mai Thúc Loan và Lê
Thánh Tông ngày nay). Miếu được nhân dân Huế tạo dựng vào khoảng năm
1895, nhằm hương khói, thờ cúng các anh hùng chiến sỹ và đồng bào đã anh
dũng hy sinh vì nền độc lập của dân tộc trong sự kiện bi hùng thất thủ Kinh
đô 23 tháng 5 năm 1885 (âm lịch). Chính những hành động này của mình
mà Người đã thấm thía những bài văn tế bi ai về số phận những con người
đã hy sinh vì đại nghĩa, vì độc lập, tự do của dân tộc. Kỷ niệm tuổi thơ này
là một phần quan trọng khơi dậy và hun đúc chủ nghĩa yêu nước của Hồ Chí
Minh sau này.
Thời gian này, Người cũng đã được cha đưa về sống và học tập tại
ngôi nhà của ông Nguyễn Sỹ Độ ở làng Dương Nỗ – Phú Vang (1898
-1900). Tại đây Người đã được cha và anh trai Nguyễn Sinh Khiêm kèm cặp
học chữ Hán. Người cũng đã chứng kiến tinh thần lao động cần cù, nghĩa
2
Xem Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội,
2001, tr 83-84.
3
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003, trang 19.
2

tình làng xóm của người dân quê mộc mạc qua vui chơi, nô đùa với bạn bè ở
Đình làng, Am Bà và vùng vẫy trên sông Phổ Lợi. Tấm gương vượt khó để
thành tài và tinh thần yêu nước của cha, tình quê mộc mạc ở Huế giai đoạn
này là nhân tố quan trọng góp phần tạo nên tình yêu quê hương, đất nước
sâu nặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này.
Lần thứ hai đến Huế, bốn năm (1906-1909) sống tại ngôi nhà Dãy
Trại (nay là 47 Mai Thúc Loan), Hồ Chí Minh đã học những năm tiểu học tại
trường tiểu học Pháp - Việt Đông Ba (1906-1908), rồi vào học trường Quốc
Học Huế (1908-1909) và đã từng tham gia phong trào chống thuế tháng 4
năm 1908 tại tòa Khâm sứ Trung kỳ (nay là Giảng đường I của Đại học Sư
phạm Huế). Giai đoạn này, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã được Triều
đình Nhà Nguyễn bổ nhiệm là Thừa biện Bộ Lễ trông coi việc học hành ở
Quốc Tử Giám.
Chính thời gian này, chứng kiến cha mình dù sống trong cảnh làng
quan, nhưng vẫn giữ nếp sống giản dị, thanh nhã của đồ nho xứ Nghệ;
chứng kiến sự chèn ép của thực dân Pháp với triều đình, cảm nhận và chia sẻ
một cách sâu sắc những tâm tư của cha “Quan trường thị nô lệ, trung chi nô
lệ, hựu nô lệ - Quan trường là nô lệ trong đám người nô lệ lại càng nô lệ
hơn”; giai đoạn này, hầu như Người đảm nhận chuyện chợ búa, nội trợ giúp
cha, hàng ngày tận mắt chứng kiến cuộc sống tối tăm, bạc nhược của đám
quan trường nô lệ, v.v, mà Người đã sớm thức tỉnh nỗi nhục của người dân
mất nước. Từ đó nhen nhóm và nhân lên lòng căm thù thực dân, phong kiến,
lòng yêu nước thương dân ở Người. Đặc biệt, những năm tháng học ở
trường tiểu học Pháp – Việt Đông Ba và trường Quốc Học Huế, Người đã
học để nắm vững tiếng Pháp, hấp dẫn bởi Tự do – Bình đẳng – Bác ái của
giai cấp tư sản qua văn hóa Pháp, mà sau khi tham gia phong trào chống
thuế tháng 4 năm 1908, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước ở
phương Tây vào năm 1911.
Những sự kiện liên quan trực tiếp đến đời sống ở Huế của Nguyễn Tất
Thành nêu trên, cho thấy Huế đã hội gần đủ các yếu tố cấu thành cội nguồn

của tư tưởng Hồ Chí Minh:
1. Nếu Nam Đàn là điểm xuất phát của hầu hết các cuộc khởi nghĩa vũ
trang tiêu biểu chống thực dân Pháp của Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX và là nơi sinh ra, trưởng thành hoặc là nơi trưởng thành của hầu hết
các nhà yêu nước tiêu biểu của Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thì
Huế chính là nơi tập trung của hầu hết các cuộc đình công, biểu tình chống
sưu cao thuế nặng của thực dân Pháp ở Việt Nam vào thời gian ấy. Chủ
nghĩa yêu nước, thương dân của Hồ Chí Minh vì thế nếu được bắt nguồn từ
truyền thống của gia đình nhà Nho yêu nước, thì chủ nghĩa yêu nước,
thương dân ấy của Người được hun đúc, phát triển bởi chính truyền thống
3
cách mạng của hai quê hương Nam Đàn và Huế, đặc biệt là 10 năm sống và
học tập ở Huế của Người.
2. Nếu bà Ngoại của Hồ Chí Minh là người có công trong hoằng
dương Phật giáo tại Nghệ – Tĩnh vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, mà tuổi ấu thơ Người từng được nghe Bà Ngoại ru ngủ bằng kinh Phật,
thì mười năm sống và học tập ở Huế bên cạnh Cha - Cụ Nguyễn Sinh Sắc
không chỉ là một nhà nho yêu nước mà còn là người rất mến mộ Phật giáo
(Cụ là một trong những người đầu tiên dịch kinh Phật từ tiếng Trung Quốc
ra tiếng Việt và thực hiện chấn hưng Phật giáo ở Nam bộ năm 1920) – hơn
thế, Huế chính là một trong những trung tâm Phật giáo lớn của Việt Nam. Từ
năm 1957, Hồ Chí Minh đã được các vị cao tăng của Ấn Độ phong tặng
danh hiệu “vị Phật sống”. Bản thân Người, trong các thư gửi đến Giáo hội
Phật giáo Việt Nam và Phật tín đồ Việt Nam, Người luôn coi Đức Phật là
tấm gương “đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn”. Sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo
đức Phật giáo ở Hồ Chí Minh là rất tự nhiên, và vì thế không thể không kể
đến tầm quan trọng của mười năm sống, học tập tại Huế của Người.
3. Cội nguồn Nho giáo của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng có thời gian
hình thành, phát triển quan trọng là mười năm sống tại Huế: 1895-1901 và
1906-1909. Khoảng thời gian này, như đã trình bày ở trên, đây là khoảng

thời gian Người bắt đầu đến trường và thành đạt về học tập, Người sống, học
tập, lao động, rèn luyện bên cạnh người cha và anh trai mình. Tấm gương
khổ luyện thành tài của cha, tinh thần yêu nước, thương dân của cha và anh
trai (những nhà Nho yêu nước nổi tiếng của Việt Nam) đã tác động lớn đến
nhân cách yêu nước Hồ Chí Minh. Bởi họ chính là những người thầy dạy
chữ Hán đầu tiên của Người và cũng là những người đầu tiên có tác động
mạnh nhất đến sự hình thành nhân cách của Người. Ngoài ra, Huế là thủ phủ
của các Chúa Nguyễn ở Đàng Trong và là Kinh đô của triều đình phong kiến
trung ương tập quyền Nhà Nguyễn của Việt Nam. Ảnh hưởng của Nho giáo
ở Hồ Chí Minh rất sâu sắc, nhất là triết lý tu thân. Người đã cải tạo, phát
triển một cách tài tình các phạm trù đạo đức của Nho giáo để quy định các
chuẩn mực đạo đức con người mới XHCN ở Việt Nam.
4. Huế còn là một trung tâm lớn của đạo Công giáo ở Việt Nam. Mười
năm tuổi vị thành niên và thanh niên của Người tại Huế, vì thế nhất định đã
chịu ảnh hưởng ít nhiều đạo đức nhân từ của tấm gương hy sinh vì sự cứu
rỗi con người của Chúa. Điều này có thể lý giải được bằng 10 năm tìm
đường cứu nước (1911-1920), thời gian trú chân tại Hoa Kỳ, Người đã đến
nhà thờ cầu Chúa ban phước lành cho dân tộc Việt Nam. Sau này, khi đã là
lãnh tụ của dân tộc Việt Nam, đã trải nghiệm thực tiễn cách mạng dân tộc và
cách mạng thế giới, Người đã trả lời câu hỏi “Người là ai?” của các nhà báo
trong và ngoài nước nước rằng: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự
4
tu dưỡng đạo đức cá nhân, Ki tô giáo có ưu điểm là lòng bác ái. Chủ nghĩa
Tôn Dật Tiên có ưu điểm chính là chính sách của nó phù hợp với những điều
kiện của nước ta. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện
chứng… Tôi cố gắng làm một học trò nhỏ của các vị ấy”
4
. Trong các bức
thư Người gửi cho Giáo hội Công giáo Việt Nam và đồng bào Công giáo
Việt Nam, Người luôn coi Chúa là tấm gương nhân từ, hy sinh cao nhất vì

sự cứu rỗi con người.
5. Khoảng thời gian vào học ở trường Tiểu học Pháp Việt Đông Ba,
đặc biệt là thời gian học tập ở trường Quốc Học Huế, tư duy độc lập tự chủ,
sáng tạo, đổi mới của Người đã hình thành và phát triển. Điều này được
chứng minh: khác với những nhà yêu nước tiêu biểu khác của Việt Nam thời
ấy, hấp dẫn bởi dân chủ tư sản Người không đi tìm đường cứu nước ở
phương Đông, mà ra đi tìm đường cứu nước ở phương Tây. Hành động này,
sau này Người thổ lộ: Người rất đề cao tinh thần yêu nước của dân ta và
khâm phục nhiệt huyết cách mạng của các lãnh tụ yêu nước ngày ấy, nhưng
không tán thành con đường, phương pháp của họ. Sau này, khi thực thi dân
chủ tư sản tại Pháp, Người đã từ bỏ chủ nghĩa dân chủ giả tạo, hình thức ấy
để đến với cội nguồn cốt lõi của mình là chủ nghĩa Mác-Lênin.
Mười năm ở Huế, nhất là từ 1906-1909, Huế - một trung tâm văn hóa
của Việt Nam, đã hội tụ nhiều yếu tố văn hóa Đông-Tây và có bề dày văn
hóa dân tộc - là một tác động lớn với những dấu ấn sâu sắc đến tinh thần
người thanh niên ưu tú Nguyễn Tất Thành, là một cội nguồn quan trọng của
sự hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
4
Về Tôn giáo, Nxb KHXH, Hà Nội, 1994, tập 1, trang 6-7; Nho giáo xưa và nay, Nxb KHXH, Hà Nội,
1971, trang 16.
5

×