Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Khóa Luận Tốt Nghiệp 2024.Docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.15 KB, 14 trang )

- Lời cam đoan và ô xác nhận của giảng viên hướng dẫn

Xác nhận của giảng viên
hướng dẫn

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi, các kết luận, số liệu trong khóa luận tốt
nghiệp là trung thực, đảm bảo độ tin cậy./.
Tác giả khóa luận tốt nghiệp
(Ký và ghi rõ họ tên)


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS
TAND


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất kì xã hội nào, hơn nhân và gia đình ln có vai trị và vị trí quan trọng
đối với mỗi người. Gia đình là nơi hình thành nhân cách, ni dưỡng và giáo dục mỗi con
người, bên cạnh đó gia đình cịn là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt.
Nhưng để có được một gia đình tốt được xây dựng trên nền tảng bền vững

Từ thời cổ đại, hơn nhân và gia đình ln đóng một vai trị quan trọng trong
hình thành, ni dưỡng và phát triển nhân cách con người, là nơi hội tụ các giá trị
đạo đức, phong tục, tập quán truyền thống và hiện đại. Bất kỳ một cá nhân nào với
tư cách là chủ thể cơ bản của xã hội đều mang dấu ấn từ gia đình.
Gia đình hình thành, tồn tại và phát triển vì nó mang những chức năng tự
nhiên và xã hội riêng biệt mà các thiết chế xã hội khác khơng có. Các chức năng


của gia đình hình thành gắn liền với sự phát triển của lồi người và được chính con
người xã hội hóa chúng. Về cơ bản, gia đình có ba chức năng: Sinh đẻ (tái sản xuất
con người), giáo dục và kinh tế, các chức năng này là cơ sở để hình thành các
quyền tự nhiên của con người về gia đình và được xã hội hóa thành các quyền cơ
bản của cơng dân:
– Chức năng sinh đẻ hay tái sản xuất con người là chức năng quyết định
trong việc đảm bảo duy trì, phát triển các thế hệ tương lai – một trong những yếu tố
quyết định sự tồn vong của một dân tộc, một quốc gia và của loài người. Từ chức
năng này, quyền được sinh con, quyền được thừa nhận là cha, mẹ, con, quyền nuôi
con nuôi, quyền được hưởng các chế độ phúc lợi về thai sản… đã được hình thành
và được công nhận và bảo vệ;
– Chức năng giáo dục là chức năng rất quan trọng của gia đình trong hình
thành, phát triển nhân cách của các thế hệ trong gia đình, đặc biệt thế hệ trẻ. Ngồi
ra, nó cịn giúp ni dưỡng, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống trong gia
đình và xã hội. Nhân cách, khả năng ứng xử và khả năng thích ứng của mỗi cá nhân
đều chịu ảnh hưởng lớn từ giáo dục gia đình. Từ chức năng giáo dục đã xác lập các
quyền được chăm sóc, giáo dục, đại diện và bảo vệ của các thành viên trong gia
đình….;
– Chức năng kinh tế gắn liền với vai trị của gia đình như là một đơn vị kinh
tế cơ bản, độc lập của xã hội. Nó giúp cho gia đình tạo dựng cơ sở vật chất đảm bảo
cuộc sống của các thành viên. Các chức năng sinh đẻ và giáo dục cũng không thể
thực hiện tốt nếu không gắn liền với chức năng kinh tế. Từ chức năng kinh tế, các
quyền về sở hữu, thừa kế, tham gia giao dịch… đã được hình thành, được cơng
nhận và bảo vệ.
Trên địa bàn huyện Chiêm Hóa tình hình thụ lý, giải quyết các u cầu về
hơn nhân gia đình ngày càng gia tăng với tính chất và mức độ ngày càng phức tạp.
Thực tiễn xác định thẩm quyền giải quyết các yêu cầu này hiện nay vẫn cịn nhiều
khó khăn. Tổng kết, đánh giá cho thấy dù công tác giải quyết đa đạt được một số



thành tựu nhất định xong cũng còn nhiều lý do khách quan và chủ quan làm ảnh
hưởng đến việc xác định thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về hôn nhân gia đình.
Cơ sở pháp lý để xác định thẩm quyền của Toà án trong việc xác định các
yêu cầu về hơn nhân gia đình là những quy định của pháp luật TTDS. Tuy nhiên,
kể từ khi BLTTDS năm 2015 ra đời, các cơ quan tiến hành tố tụng nhất là Tồ án
nhân dân tối cao chưa có một hướng dẫn kịp thời và chi tiết liên quan đến việc xác
định Thẩm quyền của Toà án khi giải quyết yêu cầu về hơn nhân, gia đình. Do đó,
tình hình giải quyết những yêu cầu này trong những năm qua vừa chậm trễ, vừa
khơng thống nhất, có nhiều u cầu của đương sự chưa được xác định và giải quyết
triệt để, phát sinh nhiều vấn đề và làm giảm lòng tin của người dân đối với đường
lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Song có thể khẳng định rằng, việc xác định thẩm quyền của Toà án trong
việc giải quyết các u cầu về hơn nhân gia đình hiện nay cịn nhiều khó khăn,
vướng mắc. Do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp
luật về
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
*Mục đích nghiên cứu: Đề tài nhằm mục đích làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
thẩm quyền sơ thẩm giải quyết u cầu về hơn nhân gia đình của TAND cấp huyện và
thực tiễn thực hiện tại TAND huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Từ đó, rút ra được
những kinh nghiệm và nêu lên những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
thẩm quyền sơ thẩm giải quyết u cầu hơn nhân gia đình của TAND cấp huyện. Góp
phần nâng cao nhận thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn trong việc giải quyết yêu cầu
về hôn nhân gia đình cho những người làm cơng tác xét xử.
* Đối tượng nghiên cứu:
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và
Nhà nước về pháp luật. Trên cơ sở phương pháp khoa học chuyên ngành như: phương
pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh tổng

hợp,... để làm sáng tỏ nội dung cần nghiên cứu.
5. Ý nghĩa của khóa luận

6. Kết cấu của khóa luận


Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của khóa luận được kết cấu thành hai chương
gồm:
Chương 1. Khái quát chung về thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án trong việc giải quyết các
yêu cầu về hôn nhân và gia đình
Chương 2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về thẩm quyền sơ thẩm giỉa quyết yêu cầu về
hôn nhân và gia đình tại TAND huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tun Quang và một số kiến nghị

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẨM QUYỀN SƠ THẨM CỦA
TÒA ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC U CẦU HƠN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về thẩm quyền sơ thẩm của Tịa án trong
việc giải quyết các u cầu về hơn nhân và gia đình
1.1.1. Khái niệm
Khái niệm thẩm quyền được nghiên cứu, đề cập đến trong pháp luật của
nhiều nước khác nhau trên thế giới. Có quan điểm cho rằng thẩm quyền là xét xử,
bao gồm nhiều mặt, nhiều khía cạnh, mang tính lịch sử cụ thể quy định quyền xét
xử của Tịa án. Nội dung của nó do các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và các
điều kiện khác quyết định. Theo quan điểm của một số nước trên thế giới như ở
Pháp thì, “thuật ngữ thẩm quyền (compétence) được hiểu là khả năng mà pháp luật
trao cho công quyền hoặc cơ quan tài phán thực hiện công việc nhất định hoặc
thẩm cứu và xét xử một vụ kiện” 1. Theo từ điển Luật học của Mỹ thì “Thẩm quyền
được hiểu là một khả năng cơ bản và tối thiểu để cơ quan công quyền xem xét và
giải quyết một vụ việc gì pháp luật”. Trong tiếng Anh thuật ngữ Jurisdition được
dùng để chỉ thẩm quyền hoặc quyền tài phán của Tòa án. Còn theo từ điển Tiếng

Việt phổ thơng thì thẩm quyền là “quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề
theo pháp luật”2. Như vậy, chỉ có cơ quan nhà nước, nhân danh nhà nước mới được phân
định thẩm quyền để thực hiện quyền năng của mình. Thẩm quyền giải quyết các vụ việc
dân sự3 của Tòa án là quyền thụ lý, xét và ban hành các phán quyết khi giải quyết các vụ
việc dân sự.

Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và
nghĩa vụ hành động, quyết định của cơ quan tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà
nước do pháp luật quy định. Điểm chung về thẩm quyền của Tòa án đều được các
nước thừa nhận là quyền xem xét, giải quyết các vụ việc trong phạm vi pháp luật
1

Lexique des Termes juridiques (2001), Dalloz
Viện ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt phổ thông, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, Tr.847
3
Theo Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ việc dân sự được hiểu là các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hơn nhân gia
đình, kinh doanh thương mại và lao động
2


cho phép và quyền hạn trong việc ra các quyết định khi giải quyết vụ việc đó.
Quyền xem xét giải quyết vụ việc và quyền ra các quyết định khi giải quyết vụ việc
đó là hai nội dung quan trọng có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành thẩm
quyền của Tòa án.
Ở nước ta hiện nay, Các Tòa án được tổ chức theo các đơn vị hành chính
lãnh thổ. Tịa án cấp huyện chỉ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các việc mà pháp luật
quy định, trong khi đó Tịa án cấp tỉnh có quyền xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám
đốc thẩm và tái thẩm. Tòa án nhân dân tối cao có quyền xét xử phúc thẩm, giám
đốc thẩm và tái thẩm. Vì vậy, thẩm quyền dân sự của Tòa án được hiểu là quyền
của Tòa án đối với việc xem xét và ra các bản án, quyết định giải quyết các vụ việc

dân sự theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Trong các loại thẩm quyền trên thì thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tịa án có
vai trị quan trọng. Bởi vì, sơ thẩm là cấp đầu tiên giải quyết vụ việc dân sự bằng
một phiê toàn sơ thẩm hoặc một phiên họp. Thuật ngữ “vụ việc dân sự” được sử
dụng ở đây với hàm ý, bao gồm vụ án dân sự và việc dân sự. Vụ án dân sự phát
sinh do có tranh chấp về quyền lợi ích giữa các chủ thể trong các quan hệ về dân
sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Việc dân sự là việc
khơng có tranh chấo về quyền và lợi ích nhưng đương sự yêu cầu Tịa án xác định
một sự kiện pháp lý hoặc cơng nhận các quyền, nghĩa vụ nhất định về dân sự, hơn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Từ những phân tích trên, có
thể định nghĩa thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án như sau: Thẩm quyền sơ
thẩm dân sự của Tòa án là quyền của Tòa án trong việc xem xét, giải quyết các vụ
việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm dân sự.
Đã có những giải thích nhất định về khái niệm u cầu về hơn nhân và gia
đình. Theo Từ điển tiếng Việt thì yêu cầu được hiểu là “nêu ra điều gì với người
nào đó, tỏ ý muốn người đó làm, vì đó là việc thuộc nhiệm vụ, trách nhiệm hoặc
quyền hạn, khả năng của người ấy”4
Còn trong nghiên cứu khoa học luật tố tụng dân sự, dựa trên cơ sở quy định
tại Điều 1 và rõ nhất là Điều 361 BLTTDS năm 2015 thì u
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu: u cầu về hơn nhân gia đình trong
tố tụng dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức khơng có tranh chấp nhưng có u
cầu Tịa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ phát
sinh quyền, nghĩa vụ liên quan đến quan hệ hơn nhân và gia đình của mình hoặc
của cá nhân khác, hoặc u cầu Tịa án không công nhận một số vấn đề trong lĩnh
vực hôn nhân, gia đình được pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Tòa án.
1.1.2. Đặc điểm về thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án trong việc giải quyết

các yêu cầu về hơn nhân và gia đình

4


Từ điển tiéng Việt dành cho học sinh, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 600


Đặc điểm về Thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án trong việc giải quyết các yêu
cầu về hôn nhân gia đình được xác định gắn liền với đặc điểm của u cầu về hơn
nhân, gia đình.

1.1.3. Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án trong

giải quyết các u cầu về hơn nhân và gia đình
Trong các loại thẩm quyền (thẩm quyền sơ thẩm, thẩm quyền phúc thẩm,
giám đốc thẩm và tái thẩm) thì thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tịa án có ý nghĩa
và tầm quan trọng hơn cả. Việc xác định đúng thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa
án sẽ là cơ sở để xác định đúng thẩm quyền phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Việc xây dựng các tiêu chí để xác định thẩm quyền của Tịa án có ý nghĩa tạo
cơ sở pháp lý để phân định thẩm quyền sơ thẩm giữa các cấp Tòa án và giữa các
Tòa án cùng cấp với nhau trong việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự. Việc Tòa án
áp dụng đúng pháp luật để xác định đúng đắn, chính xác những vụ việc thuộc thẩm
quyền của Tịa án sẽ tránh tình trạng giải quyết không đúng thẩm quyền hoặc đùn
đẩy trách nhiệm giữa các Tòa án trong việc thụ lý giải quyết. Ngoài ra, việc phân
định đúng thẩm quyền sẽ tránh được những vụ việc bị hủy để xét xử sơ thẩm lại,
gây mất thời gian, tổn phí vật chất cho cả Tòa án và đương sự.
Mỗi cơ quan nhà nước đều có thẩm quyền hoạt động trong một lĩnh vực nhất
định để thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà luật đã quy định. Các cơ quan này tuyệt
đối không được phép hoạt động ngồi thẩm quyền của mình. Sự phân định thẩm
quyền là điều kiện cần thiết đảm bảo cho bộ máy tư pháp hoạt động bình thường,
khơng chồng chéo lên nhau. Chính vì vậy, việc phân định đúng thẩm quyền sơ
thẩm dân sự giữa các Tịa án có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc làm này tránh
được sự chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ giữa các Tòa án mà cụ thể là

giữa các Tòa án cùng cấp với nhau. Điều này góp phần tạo điều kiện cho Tịa án
giỉa quyết đúng đắn, nhanh chóng vụ việc dân sự.
Vì vậy, việc phân định thẩm quyền một cách chính xác, thực sự khoa học sẽ
tránh được sự chồng chéo khi thực hiện nhiệm vụ giữa các Tòa án với nhau, giữa


các Tịa án trong cùng cấp... góp phần làm cho các Tịa án giỉa quyết đúng đắn, có
hiệu quả, tạo điều kiện cho các bên đương sự tham gia tố tụng , bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình, tiết kiệm được thời gian, cơng sức, các chi phí, giảm bớt
các phiền hà cho đương sự và cho cả Tòa án. Trong những trường hợp đương sự
gửi nhầm đơn đến Tịa án khơng có thẩm quyền thụ lý thì thơng qua việc phân định
thẩm quyền của mình, Tịa án nhận đơn có thể nhanh chóng kịp thời chuyển đơn
u cầu của đương sự tới Tịa án có thẩm quyền giải quyết.
Việc Tòa án thụ lý và giải quyết đúng thẩm quyền sơ thẩm dân sự nếu được
pháp luật quy định rõ ràng, cụ thể và khoa học sẽ tạo thuận lợi cho đương sự xác
định đúng Tòa án để gửi đơn, tránh tình trạng gửi nhầm đơn yêu cầu đến Tịa án
khơng có thẩm quyền giỉa quyết dẫn tới bị trả lại đơn... gây mất thời gian và tổn phí
khơng đáng có.

- Việc xác định đúng thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án sẽ là cơ sở để xác
định đúng thẩm quyền phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
- Tránh tình trạng giải quyết khơng đúng thẩm quyền hoặc đùn đẩy trách nhiệm
giữa các Tòa án trong việc thụ lý giải quyết.
- Việc xác định đúng thẩm quyền sẽ tránh được vụ việc bị hủy để xét xử sơ thẩm
lâij gây mất thời gian, tổn phí vật chất cho cả Tịa án và đương sự.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án dân sự, đảm bảo sự phối hợp giữa
Tòa án và cơ quan thi hành án trong việc chuyển giao bản sao bản án, quyết định, giải
thích bản án quyết định. Bởi vì, theo quy định của pháp luật thì thơng thường cơ quan thi
hành án dân sự nơi tòa án đã sơ thẩm vụ việc dân sự sẽ có thẩm quyền thi hành án.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự trong việc tham gia bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của mình trước Tịa án.

1.2. Thực trạng pháp luật Tố tụng dân sự về thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án trong
việc giải quyết yêu cầu về hơn nhân và gia đình ( ưu điểm + bất cập)


Những điểm mới: Thẩm quyền của Toà án đối với các u cầu về hơn nhân, gia
đình được bổ sung theo Luật Hơn nhân gia đình năm 2014. Các u cầu được bổ sung
gồm: Yêu cầu công nhận thoả thuận của cha, mẹ về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau
khi ly hôn hoặc công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ
quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật về hơn nhân và gia đình; u cầu liên
quan đến việc mang thai hộ theo quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình; cơng nhận
thoả thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã được
thực hiện theo bản án, quyết định của Tồ án; tun bố vơ hiệu thoả thuận về chế độ tài
sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình; cơng nhận và cho thi
hànhh tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình
của Tồ án nước ngồi hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngồi hoặc khơng
cơng nhận bản án, quyết định về hơn nhân và gia đình của Tồ án nước ngồi hoặc cơ
quan khác có thẩm quyền của nước ngồi khơng có u cầu thi hành tại Việt Nam và yêu
cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo quy định của pháp luật về hơn
nhân và gia đình.
Bình luận: Các quy định về những u cầu về hơn nhân gia đình thuộc thẩm quyền
giải quyết của Toà án so với Điều 28 BLTTDS năm 2011 thì Điều 29 BLTTDS năm 2015
đã có sự điều chỉnh và thay đổi như sau:
Thứ nhất, chỉnh sửa, bổ sung về yêu cầu công nhận thoả thuận về thay đổi người
trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Theo BLTTDS năm 2011 thì người u cầu chỉ có
quyền yêu cầu công nhận thoả thuận của cha mẹ. BLTTDS năm 2015, Tồ án được quyền
cơng nhận thêm các thoả thuận của các chủ thể có liên quan (cơ quan, tổ chức, cá nhân)
về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn.
Thứ hai, chỉnh sửa, bổ sung khoản 9 Điều 29 so với quy định của BLTTDS năm

2011 như sau: Ngồi bản án và quyết định về hơn nhân và gia đình của Tồ án nước ngồi
thì quyết định của cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngồi cũng được Tồ án cơng
nhận cho thi hành và khơng cơng nhận khi khơng có u cầu thi hành tại Việt Nam khi
đương sự có yêu cầu.
Thứ ba, bổ sung thêm loại quan hệ tranh chấp hôn nhân và gia đình mà Tồ án có
thẩm quyền giải quyết ở khoản 6, khoản 7, khoản 8 và khoản 10 Điều 29 BLTTDS.
Tất cả sự thay đổi này là phù hợp hơn với yêu cầu thực tế, đáp ứng quyền được
pháp luật bảo vệ của các đương sự và quy định của Luật hơn nhân và gia đình năm 2014.


Kết hôn trái pháp luật theo quy định của Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 là
việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên
hoặc hai bên vi phạm điều kiện kết hôn. Khi phát hiện kết hôn trái pháp luật thì các chủ
thể như: người bị cưỡng ép kết hơn, bị lừa dối kết hơn có quyền tự mình yêu cầu hoặc đề
nghị cá nhân, tổ chức (vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người
khác; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội
Liên hiệp phụ nữ,…) có quyền u cầu Tồ án huỷ việc kết hôn trái pháp luật. So với
Luật hơn nhân và gia đình năm 2000, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 khơng trao
quyền u cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật cho Viện Kiểm sát nhân dân nữa. BLTTDS
năm 2011 không quy định quyền khởi kiện vụ án dân sự cho Viện Kiểm sát nhân dân, do
đó Viện Kiểm sát nhân dân khơng có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Việc
bỏ quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật của Viện Kiểm sát nhân dân là phù hợp
và thống nhất với quy định của BLTTDS năm 2015. Hơn nữa, Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2014 cũng khơng chỉ rõ Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em (nay là Uỷ ban Dân số,
gia đình và trẻ em) là cơ quan có quyền u cầu huỷ kết hơn trái pháp luật như trước đây
mà chỉ quy định chung thẩm quyền cho “Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình”, “cơ
quan quản lý nhà nước về trẻ em”. Điều này khiến cho yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp
luật khơng chỉ bó hẹp ở một cơ quan mà nhiều cơ quan khác có nhiệm vụ tương tự, qua
đó đảm bảo hơn quyền lợi của người dân cũng như ngăn chặn, hạn chế các trường hợp kết
hôn trái pháp luật. Vì thế, khi nhận được yêu cầu huỷ kết hơn trái pháp luật của các chủ

thể có thẩm quyền, Tồ án khơng được từ chối và phải thụ lý theo quy định pháp luật.
Yêu cầu công nhận thuận tình ly hơn, thoả thuận ni con, chia tài sản khi ly hơn
được tồ án thụ lý với thủ tục giải quyết việc dân sự khi đảm bảo các điều kiện sau: quan
hệ kết hôn giữa hai bên vợ - chồng là hôn nhân hợp pháp; các đương sự phải thoả thuận
được với nhau tất cả các quan hệ cần giải quyết (về tình cảm, người trực tiếp ni con,
cấp dưỡng, chia tài sản). Nếu chỉ thoả thuận được một trong ba nội dung trên, các nội
dung cịn lại khơng thoả thuận được thì Tồ án sẽ khơng thụ lý và hướng dẫn đương sự
khởi kiện vụ án ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS năm 2015.
Quyền của con cái là được cha mẹ thương yêu, tơn trọng, thực hiện các quyền, lợi
ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo
dục; được phát triển lành mạnh về thể chất , trí tuệ và đạo đức ngay cả khi cha mẹ đang
tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp hay khi đã ly hôn. Khi cha mẹ hay các chủ thể có
quyền khác thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con nhằm đảm bảo tốt nhất cho


con quyền được chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục thì Tồ án phải thụ lý khi đương sự có
u cầu. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con
mà khơng được cản trở. Trong trường hợp cha, mẹ hoặc người không trực tiếp nuôi
dưỡng lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trơng nom,
chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp ni con có quyền u cầu Tồ án
hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Ni con ni là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và
người được nhận làm con nuôi.5 Việc nuôi con ni phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của người được nhận làm con nuôi và người nhận con ni, tự nguyện, bình đẳng, khơng
phân biệt nam nữ, khơng trái pháp luật và đạo đức xã hội. Vì thế, Luật Ni con ni năm
2010 đã có những u cầu nhất định đối với việc nhận nuôi con nuôi. Tuy nhiên trên thực
tế, sau khi phát sinh quan hệ pháp lý giữa người nhận nuôi và con nuôi, người nhận nuôi
đã vi phạm những điều kiện nhận nuôi con nuôi nên khơng đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp của người được nhận làm con nuôi nữa hoặc cả hai bên tự nguyện muốn chấm dứt
quan hệ pháp lý giữa bố mẹ và con ni đã được hình thành. Xuất phát từ thực tiễn của

quan hệ nuôi con nuôi, phù hợp với quy định của Luật Ni con ni “Tóa án nhân dân
có thẩm quyền giải quyết yêu cầu việc chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự” 6, BLTTDS năm 2011 và nay là BLTTDS năm 2015 đã tiếp
tục khẳng định: Yêu cần chấm dứt việc nuôi con nuôi thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án.
Bên cạnh việc quy định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo thì BLTTDS năm 2015 cũng quy định những yêu cầu liên quan
đến mang thai hộ mà khơng có tranh chấp là một trong những loại việc dân sự Tịa án
khơng được từ chối giải quyết. Những yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ như: cơng
nhận thảo thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa hai bên, công nhận cha mẹ cho
con, con cho cha mẹ khi thực hiện mang thai bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh
trong ống nghiệm... Khi đưa loại việc này vào danh mục những u cầu về hơn nhân và
gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thể hiện BLTTDS năm 2015 có sự
tương thích và phù hợp những quy định của pháp luật Hơn nhân và gia đình năm 2014, dự
liệu trước những yêu cầu có thể phát sinh liên quan hoạt động mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo đã được Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 thừa nhận.
5
6

Khoản 1 Điều 2 Luật Nuôi con năm 2010
Điều 10 Luật nuôi con nuôi năm 2010


Luật hơn nhân và gia đình cho phép vợ chồng trong quan hệ hơn nhân gia đình hợp
pháp được quyền thỏa thuận việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhưng đồng
thời cũng tạo cơ hội cho họ được “trở lại” với chế độ tài sản chung sau khoảng thời gian
đã chia tài sản chung7. Xuất phát từ quy định này của Luật Hơn nhân và gia đình năm
2014, BLTTDS năm 2015 đã quy định, đương sự có quyền u cầu Tịa án cơng nhận
thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã được
thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án. Để Tòa án thụ lý yêu cầu này, trước hết

phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Khác với việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân việc “trở lại” với chế độ tài sản chung chỉ có thể được thực hiện một khi có sự đồng
ý của cả vợ và chồng. Trong trường hợp vợ hoặc chồng khơng đồng ý, người cịn lại
khơng có quyền yêu cầu khôi phục chế độ tài sản chung bằng con đường tư pháp. Nếu
việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo bản án, quyết định có
hiệu lực của Tịa án thì thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung phải
được Tịa án cơng nhận. Khi thỏa thuận chấm dứt có hiệu lực pháp lực, tài sản đã được
chia vẫn tiếp tục là tài sản riêng của vợ, chồng nhưng hoa lợi, lợi tức gắn liền với tài sản
được chia khơng cịn là tài sản riêng mà trở thành tài sản chung của vợ chồng. Ngoài ra
quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia tài
sản chung vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN SƠ
THẨM GIẢI QUYẾT YÊU CẦU VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TỊA ÁN
NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HÓA, TỈNH TUYÊN QUANG
2.1.Những kết quả đạt được và những vướng mắc tồn tại trong thực hiện pháp luật
về thẩm quyền sơ thẩm giải quyết yêu cầu hôn nhân và gia đình tại Chiêm Hóa,
Tun Quang
2.1.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về thẩm quyền sơ thẩm giải
quyết u cầu hơn nhân và gia đình tại Chiêm Hóa, Tun Quang

7

Điều 41 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014


2.1.2. Những vướng mắc, tồn tại trong thực hiện pháp luật về thẩm quyền sơ thẩm
giải quyết yêu cầu hôn nhân và gia đình tại Chiêm Hóa, Tun Quang


2.2 Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật và giải pháp thực hiện
2.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền sơ thẩm giải quyết các yêu cầu
về hôn nhân và gia đình
2.2.2 Một số giải pháp thực hiện pháp luật về thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án trong
giải quyết các yêu cầu về hôn nhân và gia đình
- Đối với cán bộ Tịa án:
Việc nâng cao chất lượng Thẩm phán, Thư ký là vấn đề hết sức cấp bách hiện nay. Để
làm tốt vấn đề này thì cần phải thực hiện được các giải pháp như: Nhanh chóng hồn
thiện các quy định về tuyển chọn, đào tao, bổ nhiệm Thẩm phán, Thư ký. Cần đánh giá
thực trạng đội ngũ cán bộ các cấp để bố trí, sử dụng cán bộ hợp lý, xác định lại nhu cầu
biên chế của từng đơn vị phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị , các kiến thức về chun mơn nghiệp vụ, kinh tế, xã hội,... để xây
dựng đội ngũ Thẩm phán, Thư ký vừa “hồng” vừa “chuyên”, bản lĩnh, ngang tầm nhiệm
vụ. Việc tuyển dụng cán bộ, công chức Tịa án phải được thực hiện thơng qua thi tuyển,
phải có bằng cử nhân luật hệ chính quy
- Đối với đương sự:
- Đối với cơ quan nhà nước:
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
KẾT LUẬN


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bình luận những điểm mới trong bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (tái bản lần thứ
nhất), PSG.TS. Nguyễn Thị Hoài Phương (chủ biên), Nhà xuất bản Hồng Đức – hội luật
gia Việt Nam.



×